Nghiến răng và mối liên quan với áp lực học tập của sinh viên Đại học Y Hà Nội

Một trong những vấn đề phổ biến của sức khỏe răng miệng là nghiến răng. Nó là yếu tố nguy cơ tiềm ẩn đối với

tổn thương mô cứng trong miệng, thất bại của phục hình răng và/hoặc rối loạn khớp thái dương hàm. Xác định các

yếu tố liên quan đến nghiến răng sẽ cho phép phát triển các can thiệp phòng ngừa cho những người có nguy cơ.

Do đó, chúng tôi thực hiện nghiên cứu nhằm mục đích xác định tỉ lệ nghiến răng và mối liên quan của nghiến răng

với áp lực học tập trong sinh viên trường Đại học Y Hà Nội. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỉ lệ nghiến răng chung của

nhóm sinh viên trong nghiên cứu là 51,2%. Tỉ lệ nghiến răng khi ngủ và khi thức lần lượt là 34,0% và 17,2%. Sinh

viên có cảm nhận áp lực học tập ở mức độ cao có nguy cơ mắc chứng nghiến răng cao hơn gấp 2,05 lần (95% CI

= 1,42 - 2,95). Như vậy, tỉ lệ nghiến răng của sinh viên ở mức cao và nghiến răng có liên quan đến áp lực học tập.

pdf 8 trang phuongnguyen 180
Bạn đang xem tài liệu "Nghiến răng và mối liên quan với áp lực học tập của sinh viên Đại học Y Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiến răng và mối liên quan với áp lực học tập của sinh viên Đại học Y Hà Nội

Nghiến răng và mối liên quan với áp lực học tập của sinh viên Đại học Y Hà Nội
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
144 TCNCYH 128 (4) - 2020
Tác giả liên hệ: Lê Mỹ Linh
Trường Đại học Y Hà Nội
Email: [email protected]
Ngày nhận: 20/04/2020
Ngày được chấp nhận: 29/04/2020
NGHIẾN RĂNG VÀ MỐI LIÊN QUAN VỚI ÁP LỰC HỌC TẬP CỦA 
SINH VIÊN ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
 Lê Mỹ Linh¹, , Võ Trương Như Ngọc¹, Lê Hưng²
¹Trường Đại học Y Hà Nội, ²Bệnh Viện Đa Khoa Đống Đa Hà Nội
Một trong những vấn đề phổ biến của sức khỏe răng miệng là nghiến răng. Nó là yếu tố nguy cơ tiềm ẩn đối với 
tổn thương mô cứng trong miệng, thất bại của phục hình răng và/hoặc rối loạn khớp thái dương hàm. Xác định các 
yếu tố liên quan đến nghiến răng sẽ cho phép phát triển các can thiệp phòng ngừa cho những người có nguy cơ. 
Do đó, chúng tôi thực hiện nghiên cứu nhằm mục đích xác định tỉ lệ nghiến răng và mối liên quan của nghiến răng 
với áp lực học tập trong sinh viên trường Đại học Y Hà Nội. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỉ lệ nghiến răng chung của 
nhóm sinh viên trong nghiên cứu là 51,2%. Tỉ lệ nghiến răng khi ngủ và khi thức lần lượt là 34,0% và 17,2%. Sinh 
viên có cảm nhận áp lực học tập ở mức độ cao có nguy cơ mắc chứng nghiến răng cao hơn gấp 2,05 lần (95% CI 
= 1,42 - 2,95). Như vậy, tỉ lệ nghiến răng của sinh viên ở mức cao và nghiến răng có liên quan đến áp lực học tập.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Nghiến răng là một hoạt động cận chức 
năng của hệ thống nhai, với sự tham gia của 
tất cả các yếu tố thần kinh - cơ, nhưng không 
nhằm mục đích thực hiện chức năng (nhai, 
nuốt, nói, ).¹ Nghiến răng tuy không quá nguy 
hiểm nhưng có thể gây ra các tác động xấu 
lên hệ thống nhai như mòn răng, gãy vỡ phục 
hình răng, đau cơ vùng hàm mặt, rối loạn chức 
năng khớp thái dương hàm,Do vậy, việc xem 
xét thói quen cận chức năng này là thật cần 
thiết trong chẩn đoán và lập kế hoạch điều trị 
trước khi thực hiện mọi can thiệp nha khoa. 
Trên thế giới đã có các nghiên cứu dịch tễ học 
về nghiến răng và một số yếu tố liên quan đến 
nghiến răng. Tuy vậy, phần lớn các tác giả chỉ 
nghiên cứu riêng về nghiến răng khi ngủ hoặc 
nghiến răng khi thức, tỉ lệ nghiến răng chung 
ít được đề cập đến; độ tuổi của các đối tượng 
trong nghiên cứu chênh lệch khá lớn (từ 18 - 
80 tuổi) ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu 
do từng độ tuổi có đặc điểm nghiến răng khác 
nhau.2,3 Bên cạnh đó, mặc dù nghiến răng là 
một vấn đề thường gặp và có ảnh hưởng đáng 
kể đến sức khoẻ răng miệng, nhưng nghiến 
răng ở Việt Nam vẫn còn là vấn đề mới, chưa 
có nghiên cứu chính thức nào về các đặc điểm 
của nghiến răng và những yếu tố liên quan đến 
trạng này. Do vậy cần một nghiên cứu về thực 
trạng nghiến răng và những yếu tố liên quan 
trên nhóm đối tượng cụ thể ở cùng độ tuổi.
Nghiến răng đã được chứng minh là có 
liên quan đến các yếu tố tâm lí, đặc biệt là áp 
lực, căng thẳng.4 - 6 Không như những ngành 
khác, để đáp ứng được yêu cầu của ngành Y, 
sinh viên các trường Y - Dược nói chung và 
sinh viên trường Đại học Y Hà Nội nói riêng là 
đối tượng chịu áp lực học tập tương đối cao. 
Sinh viên học năm thứ năm là nhóm đối tượng 
có nhiều khả năng phải đối mặt với nhiều áp 
lực học tập, do đây là năm học sinh viên học 
luân chuyển nhiều chuyên khoa. Với lịch học 
Từ khóa : Nghiến răng, áp lực học tập, sinh viên trường Đại học Y Hà Nội.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
145TCNCYH 128 (4) - 2020
lâm sàng dày kín, bên cạnh việc học và thi trên 
lớp, sinh viên còn phải học lâm sàng tại bệnh 
viện, tham gia trực thường xuyên khiến sinh 
viên phải chịu nhiều căng thẳng, áp lực trong 
học tập cũng như trong cuộc sống. Điều này là 
một trong những yếu tố nguy cơ quan trọng dẫn 
đến nghiến răng. Vì vậy, chúng tôi thực hiện đề 
tài: “Nghiến răng và mối liên quan với áp lực 
học tập của sinh viên Đại học Y Hà Nội” với 
mục tiêu: Mô tả thực trạng nghiến răng và mối 
liên quan với áp lực học tập ở sinh viên năm thứ 
năm trường Đại học Y Hà Nội năm 2019 - 2020.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng 
Tiêu chuẩn lựa chọn: Sinh viên đang học 
năm thứ năm trường Đại học Y Hà Nội, đồng ý 
tự nguyện tham gia nghiên cứu. 
Tiêu chuẩn loại trừ: Những sinh viên đang 
sử dụng thuốc hàng ngày tác động lên hệ thần 
kinh trung ương (các loại thuốc an thần, thuốc 
điều trị động kinh,), mang bất kỳ loại hàm 
giả (tháo lắp) hoặc dụng cụ chỉnh nha nào, và 
/hoặc được điều trị nghiến răng với bất kỳ liệu 
pháp trong 6 tháng qua.
2. Phương pháp nghiên cứu: 
Thiết kế nghiên cứu: nghiên cứu mô tả cắt 
ngang.
Cỡ mẫu: 
Áp dụng công thức tính cỡ mẫu cho việc xác 
định một tỉ lệ trong cộng đồng trong nghiên cứu 
mô tả cắt ngang.
Trong đó:
 - N là cỡ mẫu tối thiểu cần điều tra trên sinh 
viên = 518.
 - p là tỉ lệ nghiến răng chung theo nghiên 
cứu của Ciancaglini và cộng sự,2 p = 0,314.
α là mức ý nghĩa thống kê, chọn α = 0,05 thì 
Z = 1,96
∆ là sai số ngẫu nhiên của ước lượng, ở đây 
chọn ∆ = 0,04
Chọn mẫu: Chọn mẫu có chủ đích, lựa chọn 
sinh viên thoả mãn yêu cầu lựa chọn đối tượng 
nghiên cứu đến khi đủ cỡ mẫu nghiên cứu.
Biến số nghiên cứu: 
Chẩn đoán và phân loại nghiến răng: dựa 
trên các tiêu chuẩn chẩn đoán của Paesani và 
cộng sự7 đã được sửa đổi.
Cọ xát răng khi ngủ (nghiến răng lệch tâm 
có tiếng kêu): Trả lời “có” với câu hỏi “Bạn có 
tự biết hoặc được người khác cho biết (bạn bè, 
người thân trong gia đình,) mình nghiến răng 
vào ban đêm không?” đồng thời khám lâm sàng 
có các diện mòn răng đáng chú ý trên rìa cắn 
các răng trước và/hoặc trên núm hướng dẫn 
của răng sau. 
Siết chặt răng khi ngủ (nghiến răng trung 
tâm, không có tiếng kêu): trả lời “có” ít nhất một 
trong các câu hỏi phụ, cộng với ít nhất hai trong 
số các dấu hiệu/triệu chứng sau: 
+ Đau ở cơ cắn khi sờ nắn: được chẩn đoán 
dương tính khi đau ít nhất một trong ba vị trí cơ 
cắn mỗi bên được mô tả trong Tiêu chí chẩn 
đoán rối loạn khớp thái dương hàm: (1) vùng 
hàm trên (giống đau xoang hàm trên) và vùng 
răng cối lớn hàm trên (bó cơ nông, phần trên); 
(2) vùng răng cối lớn hàm dưới, thân xương 
hàm dưới (bó nông, phần dưới); (3) vùng khớp 
thái dương hàm và tai (bó sâu).8
+ Phì đại cơ cắn: kiểm tra trực quan và sờ 
nắn bằng tay.
+ “Đường alba” (line alba) trên niêm mạc 
má: vết cắn ở phía bên trong niêm mạc má, có 
thể đi kèm các vết loét nhỏ.
+ Lưỡi hình sò: các vết cắn lõm ở vùng bên 
của niêm mạc lưỡi.
Cọ xát răng khi thức: trả lời “có” với câu hỏi 
“Bạn có bao giờ nhận thức được việc nghiến 
răng hay cọ xát các răng vào ban ngày?”, cộng 
với tiêu chí lâm sàng giống như mô tả ở mục cọ 
N = Z2(1 - α/2)
p.(1 - p)
∆2
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
146 TCNCYH 128 (4) - 2020
xát răng khi ngủ.
Siết chặt răng khi thức: Trả lời “có” với câu 
hỏi “Bạn có nhận thức được việc siết chặt răng/ 
cắn chặt răng vào ban ngày?”, cộng với các 
tiêu chí lâm sàng tương tự như mô tả ở siết 
chặt răng khi ngủ.
Đối tượng nghiến răng khi ngủ bao gồm các 
đối tượng cọ xát răng khi ngủ và siết chặt răng 
khi ngủ.
Đối tượng nghiến răng khi thức bao gồm 
các đối tượng cọ xát răng khi thức và siết chặt 
răng khi thức.
Áp lực học tập: 
Sử dụng công cụ đánh giá áp lực học 
tập ESSA (Educational Stress Scale for 
Adolescents) là thang đo được xây dựng bởi 
Sun, Dunne, Hou và Xu (2010) như một thang 
đo để đánh giá áp lực học tập ở vị thành niên 
châu Á. Thang đo gồm 16 câu hỏi được đánh 
giá theo thang đo gồm 5 mức điểm từ 1 (hoàn 
toàn không đồng ý) đến 5 (hoàn toàn đồng ý) 
với số điểm càng cao đồng nghĩa với áp lực 
học tập càng lớn. Thang đo này đã được đánh 
giá tính giá trị và độ tin cậy ở Việt Nam với 
Cronbach’s Alpha là 0,83.9
Trong nghiên cứu này, thang đo được sửa 
đổi phù hợp với sinh viên bằng cách lược bỏ 
bớt còn 14 câu hỏi. Như vậy, tổng điểm của 
thang đo là từ 14 đến 70. Điểm càng cao cho 
thấy áp lực học tập càng cao. Vì thang đo này 
cũng không có điểm cắt xác định mức độ áp 
lực học tập. Do vậy để thích hợp cho việc thống 
kê, chúng tôi lấy điểm cắt là giá trị trung bình 
của thang đo 42 để phân chia mức độ áp lực 
học tập. 
Cụ thể: Tổng điểm < 42: áp lực học tập thấp.
 Tổng điểm ≥ 42: áp lực học tập cao.
Quy trình tiến hành nghiên cứu
Bước 1: Những đối tượng thoả mãn tiêu 
chuẩn lựa chọn được xác nhận sự tự nguyện 
động ý tham gia của các đối tượng nghiên cứu 
bằng văn bản. Thu thập thông tin hành chính.
Bước 2: Hỏi bệnh dựa trên bảng câu hỏi 
đánh giá nghiến răng và khám lâm sàng để xác 
định tình trạng nghiến răng. Hoàn thành các nội 
dung trong bảng câu hỏi xác định áp lực học 
tập bằng “Thang đo căng thẳng giáo dục của 
thanh thiếu niên” (ESSA). 
Bước 3: Nhập và xử lí số liệu.
Bước 4: Tổng hợp số liệu và viết báo cáo.
3. Xử lí số liệu 
Tất cả các bệnh án nghiên cứu sau khi kiểm 
tra, các số liệu sẽ được mã hoá và nhập, xử lí 
bằng phần mềm thống kê SPSS 20.
4. Đạo đức trong nghiên cứu
Đây là nghiên cứu quan sát, do đó nguy 
cơ với đối tượng nghiên cứu là tối thiểu hoặc 
gần như không có. Khách quan trong đánh giá, 
phân loại, trung thực trong xử lí số liệu. Đảm 
bảo quyền riêng tư của đối tượng nghiên cứu, 
thông tin thu thập chỉ phục vụ mục đính nghiên 
cứu và giúp cho công tác dự phòng, điều trị đạt 
kết quả tốt hơn. 
III. KẾT QUẢ 
1. Đặc điểm đối tượng nghiên cứu và thực 
trạng nghiến răng
Đã có 568 sinh viên thoả mãn tiêu chuẩn lựa 
chọn tham gia vào nghiên cứu. Các sinh viên 
trong nghiên cứu có tuổi dao động từ 22 đến 
24, tập trung chủ yếu là 22 tuổi (chiếm 85,2%), 
độ tuổi trung bình là 22,2 ± 0,4. 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
147TCNCYH 128 (4) - 2020
Bảng 1. Các đặc điểm của đối tượng nghiên cứu
Tần số Tỉ lệ p
Giới
Nam 263 46,3
 > 0,05
Nữ 305 53,7
Áp lực học tập
Cao (ESSA ≥ 42) 367 64,6
 < 0,05*
Thấp (ESSA < 42) 201 35,4
Nghiến răng
Không 277 48,8
 > 0,05
Có 291 51,2
Khi thức 193 34,0
 < 0,05*
Khi ngủ 98 17,2
Chi - square test
Tỉ lệ sinh viên nữ trong nghiên cứu chiếm 53,7% và nam chiếm 46,3%. Sự khác biệt về giới tính 
không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05. Đa số sinh viên trong nghiên cứu cảm nhận áp lực học tập 
ở mức cao (64,6%).
Đã có 291 sinh viên, chiếm tới 51,2% nhóm đối tượng nghiên cứu được chẩn đoán là có nghiến 
răng. Tỉ lệ nghiến răng khi ngủ trong nhóm đối tượng nghiên cứu (34,0%) cao hơn tỉ lệ nghiến răng 
khi thức (17,2%).
Bảng 2. Phân loại tình trạng nghiến răng của nhóm nghiến răng (n = 291)
Phân loại chẩn đoán 
Cọ xát răng
n (%)
Siết chặt răng
n (%)
p
Nghiến răng khi ngủ 131 (67,9) 62 (32,1)
 < 0,01
Nghiến răng khi thức 39 (39,8) 59 (60,2)
Chi - square test
Trong nhóm nghiến răng, những người nghiến răng khi ngủ có tình trạng cọ xát răng chiếm tỉ lệ 
cao hơn (67,9%), trong khi những người được chẩn đoán nghiến răng khi thức có tỉ lệ siết chặt răng 
cao hơn (60,2%).
2. Mối liên quan giữa nghiến răng và áp lực học tập của sinh viên
Bảng 3. Mối liên quan giữa nghiến răng và áp lực học tập
 Áp lực học tập
Nghiến răng
n (%)
Không nghiến răng
n (%)
OR 
(95% CI)
p
Cao (ESSA ≥ 42) 211 (57,5) 156 (42,5) 2,05 
(1,42 – 2,95)
 < 
0,01Thấp (ESSA < 42) 80 (39,8) 121 (60,2)
Phân tích hồi quy logistic đơn biến
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
148 TCNCYH 128 (4) - 2020
Nghiên cứu của chúng tôi cho kết quả những 
sinh viên có mức độ áp lực học tập cao có khả 
năng được chẩn đoán tình trạng nghiến răng 
cao hơn gấp 2,05 lần (95% CI = 1,42 - 2,95) 
sinh viên có áp lực học tập thấp.
IV. BÀN LUẬN
Nghiên cứu có sự tham gia của nam sinh 
viên và nữ sinh viên là như nhau. Điều này cho 
thấy mức độ quan tâm đến sức khoẻ của hai 
giới là tương đương. Nhóm nghiên cứu ở độ 
tuổi thanh niên, khoảng tuổi tập trung. Nhóm 
tuổi này có sức khoẻ tốt và ít bị ảnh hưởng bởi 
các bệnh lí toàn thân. 
Do đặc thù của ngành y tế, sinh viên ngành 
y nói chung và sinh viên Trường Đại học Y Hà 
Nội nói riêng đều trải qua quá trình học tập, rèn 
luyện căng thẳng, áp lực để có thể đáp ứng 
được tiêu chuẩn, nhu cầu mà ngành nghề đã 
đề ra. Cũng chính vậy đa số sinh viên trong 
nghiên cứu cảm nhận áp lực học tập ở mức 
cao.
Tỉ lệ nghiến răng ở sinh viên là 51,2%. Kết 
quả này là tương đồng với kết quả trong nghiên 
cứu của Winocur và cộng sự10 với sự tham gia 
của 2347 học sinh trung học phổ thông Israrel 
(tuổi trung bình 15,7 ± 1,1) cho tỉ lệ nghiến răng 
là 56,6%.
Tỉ lệ nghiến răng của sinh viên trong nghiên 
cứu cao hơn tỉ lệ nghiến răng chung phổ biến 
trong dân số của Ciancaglini và cộng sự2 là 
31,4% (p < 0,05). Tỉ lệ thu được trong nghiên 
cứu cũng khác biệt so với hai nghiên cứu của 
Serra - Negra và cộng sự11, 12 về tỉ lệ nghiến 
răng ở sinh viên nha khoa của một trường đại 
học ở Brazil năm 2014 với 58% nghiến răng 
và ở Ý năm 2019 với 62,2% nghiến răng trong 
quần thể (p < 0,05). Điều này được giải thích 
như sau:
Tỉ lệ nghiến răng trong các nghiên cứu 
trước đây rất dao động (6 - 95%) phụ thuộc 
vào phương pháp nghiên cứu bao gồm các tiêu 
chí để đánh giá nghiến răng, cỡ mẫu, đặc điểm 
của quần thể và các yếu tố khác.1 Nghiên cứu 
của Ciancaglini và cộng sự2 chỉ áp dụng mình 
phương pháp phỏng vấn để xác định người 
mắc chứng nghiến răng. Bên cạnh đó, nghiên 
cứu của Ciancaglini về tỉ lệ nghiến răng chung 
của những người trưởng thành trong quần thể, 
độ tuổi của các đối tượng không tập trung, từ 
18 - 75 tuổi. Nghiên cứu của Serra - Negra và 
cộng sự11, 12 trên nhóm sinh viên nha khoa có 
độ tuổi cũng không tập trung (sinh viên Brazil 
từ 17 - 46 tuổi, sinh viên ở Ý từ 20 - 33 tuổi), 
cũng chỉ sử dụng phương pháp phỏng vấn để 
chẩn đoán. Điều này cũng ảnh hưởng đến kết 
quả thu được.
Phương pháp phỏng vấn dễ áp dụng trong 
cộng đồng giúp tìm ra những đối tượng tự biết 
hoặc được người khác cho biết bản thân có 
mắc chứng nghiến răng và phát hiện những 
dấu hiệu gợi ý nghiến răng. Tuy nhiên những 
câu trả lời của người được phỏng vấn mang 
tính chủ quan, không phải ai trả lời có nghiến 
răng đều là người nghiến răng thật sự và ngược 
lại khoảng 80% các giai đoạn của nghiến răng 
không tạo ra tiếng ồn, do đó một tỉ lệ lớn người 
nghiến răng không thể tự biết mình bị nghiến 
răng.1 Do vậy chẩn đoán bằng phương pháp 
phỏng vấn có thể làm tăng hoặc giảm tỉ lệ 
nghiến răng trong quần thể nghiên cứu.
Nghiên cứu của chúng tôi áp dụng kết hợp 
phỏng vấn và khám lâm sàng để chấn đoán 
người mắc chứng nghiến răng. Điều này làm 
tăng thêm tính chính xác của các chẩn đoán. 
Nghiên cứu cũng tập trung vào nhóm tuổi 
thanh niên ở cùng một độ tuổi - nhóm tuổi có 
tỉ lệ nghiến răng cao hơn các nhóm tuổi khác 
vì mới qua tuổi khởi phát nghiến răng (10 - 20 
tuổi).13 Nghiên cứu của Winocur và cộng sự10 
với độ tuổi thanh thiếu niên, khoảng tuổi hẹp 
(15,7 ± 1,1) nên cho kết quả tương tự. Mặt 
khác, nghiên cứu của chúng tôi áp dụng trên 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
149TCNCYH 128 (4) - 2020
đối tượng sinh viên trường Đại học Y Hà Nội, 
với đặc điểm áp lực học tập khá cao, có 64,6% 
sinh viên cảm nhận áp lực học tập ở mức cao. 
Do đó, thường xuyên phải đối mặt với nhiều áp 
lực học tập, ảnh hưởng đến hành vi cảm xúc, 
các vận động không tự chủ của cơ thể, đó là 
các phản ứng thích nghi với căng thẳng. 
 Tỉ lệ nghiến răng khi ngủ của nhóm sinh viên 
cao hơn tỉ lệ nghiến răng khi thức. Trong khi đó 
các nghiên cứu khác lại chỉ ra rằng tỉ lệ nghiến 
răng khi thức có xu hướng cao hơn.7, 11, 12 Chứng 
nghiến răng khi ngủ và khi thức dường như có 
cơ chế bệnh sinh khác nhau nhưng rất khó 
phân biệt trên lâm sàng. Các dấu hiệu của hai 
thể là chồng chéo nhau, sự phân chia chỉ mang 
tính chất tương đối. Chẩn đoán nghiến răng khi 
thức phụ thuộc nhiều vào sự tự nhận thức của 
bệnh nhân và có thể những người trong nghiên 
cứu nhận thức nghiến răng khi thức và nghiến 
răng khi ngủ như một thực thể duy nhất, đồng 
thời nguy cơ nhớ lại của những người nghiên 
cứu kém hoặc không chính xác liên quan đến 
các dấu hiệu của nghiến răng. Tiêu chuẩn vàng 
để chẩn đoán nghiến răng khi ngủ là đánh giá 
đa kí giấc ngủ, nhưng vì chúng khá tốn kém, 
nghiên cứu của chúng tôi áp dụng trên mẫu lớn 
nên chỉ có thể được thực hiện bằng cách áp 
dụng các phương pháp chẩn đoán lâm sàng. 
Do vậy tạo ra sự khác biệt này.
Những sinh viên nghiến răng khi ngủ có thể 
cọ xát răng chiếm chủ yếu, trong khi những 
người được chẩn đoán nghiến răng khi thức 
có tỉ lệ siết chặt răng cao hơn. Điều này hoàn 
toàn phù hợp với định nghĩa về nghiến răng khi 
thức và khi ngủ đã được đề cập: nghiến răng khi 
thức là một hoạt động siết chặt bán chủ động bị 
ảnh hưởng bởi căng thẳng và lo lắng trong khi 
nghiến răng khi ngủ là một rối loạn vận động 
hàm lặp lại xảy ra trong khi ngủ.14, 15
Tình trạng nghiến răng có liên quan đến áp 
lực học tập của sinh viên. Đây là một thực trạng 
đáng báo động, sinh viên y đã và đang phải chịu 
nhiều tác động xấu đến sức khoẻ của mình. 
Sinh viên Đại học Y phải đối mặt với khối 
lượng công việc học tập đòi hỏi và phải tập trung 
vào các nhiệm vụ hàng ngày của họ. Do đó, họ 
thường xuyên phải đối mặt với nhiều áp lực học 
tập, ảnh hưởng đến hành vi cảm xúc của họ. 
Những cảm xúc ấy lại là nguyên nhân gây ra và 
làm tăng nặng trạng nghiến răng - một tình trạng 
có thể mang đến những tác động xấu đối với 
sức khoẻ răng miệng nói riêng và toàn cơ thể 
nói chung. Áp lực học tập cao có thể là nguyên 
nhân tạo ra căng thẳng cảm xúc - một dạng năng 
lượng tích luỹ gây tổn hại. Năng lượng này nếu 
không được giải toả sẽ gây tổn hại cơ thể qua 
con đường thần kinh và thể dịch dẫn đến những 
bệnh lí tăng huyết áp, rối loạn nhịp tim, loét dạ 
dày tá tràng, hội chứng ruột kích thích, Do đó 
cơ thể luôn tìm cách giải toả năng lượng này 
bằng con đường giải phóng ra ngoài hay vào 
trong. Giải phóng ra ngoài biểu hiện bởi những 
hành động như la hét, đập vỡ, ném đồ đạc, 
thường ở trẻ em hay những người thiếu kiểm 
soát. Bởi những hành vi giải toả năng lượng 
này ít được chấp nhận, nên cơ thể giải toả bằng 
cách nghiến răng. Như vậy nghiến răng được 
xem là con dao hai lưỡi, trong đó có lợi chính 
là thăng bằng nội môi (giúp giải toả bớt căng 
thẳng), có hại chính là lực quá tải gây tổn hại các 
cấu trúc của hệ thống nhai. Xác định các yếu tố 
ảnh hưởng đến nghiến răng của các sinh viên 
cho phép xác định rõ hơn việc điều trị và/hoặc 
phòng ngừa chứng nghiến răng và đề xuất các 
biện pháp can thiệp phòng ngừa cho các đối 
tượng có nguy cơ.
V. KẾT LUẬN
Tỉ lệ nghiến răng ở sinh viên Đại học Y Hà 
Nội là 51,2%, tương đối cao so với tỉ lệ nghiến 
răng trong dân số nói chung. Căng thẳng trong 
học tập có liên quan mức độ cao đến chứng 
nghiến răng ở sinh viên. Nghiên cứu của chúng 
tôi mới áp dụng trên nhóm sinh viên học năm 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
150 TCNCYH 128 (4) - 2020
thứ năm, nghiên cứu tiếp theo có thể áp dụng 
trên toàn bộ sinh viên y, so sánh các năm học 
khác nhau, đồng thời xác định thêm nhiều yếu 
tố nguy cơ ảnh hưởng đến nghiến răng cũng 
như tác động của nghiến răng đến cơ thể.
Lời cảm ơn
Nhóm nghiên cứu xin bày tỏ lời cảm ơn 
tới các sinh viên đã tham gia vào nghiên cứu 
và Viện Đào tạo Răng Hàm Mặt - Trường Đại 
học Y Hà Nội đã hỗ trợ để thực hiện nghiên 
cứu này. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Koyano K, Tsukiyama Y, Ichiki R, Kuwata 
T. Assessment of bruxism in the clinic. J Oral 
Rehabil. 2008;35(7):495 - 508.
2.Ciancaglini R, Gherlone EF, Radaelli G. 
The relationship of bruxism with craniofacial 
pain and symptoms from the masticatory 
system in the adult population. J Oral Rehabil. 
2001;28(9):842 - 848.
3.Maluly M, Andersen ML, Dal - Fabbro C, et 
al. Polysomnographic study of the prevalence 
of sleep bruxism in a population sample. J Dent 
Res. 2013;92(7 Suppl):97s - 103s.
4.Ahlberg J, Lobbezoo F, Ahlberg K, et al. 
Self - reported bruxism mirrors anxiety and 
stress in adults. Med Oral Patol Oral Cir Bucal. 
2013;18(1):e7 - 11.
5.Bayar GR, Tutuncu R, Acikel C. 
Psychopathological profile of patients with 
different forms of bruxism. Clin Oral Investig. 
2012;16(1):305 - 311.
6.Winocur E, Uziel N, Lisha T, Goldsmith 
C, Eli I. Self - reported bruxism - associations 
with perceived stress, motivation for control, 
dental anxiety and gagging. J Oral Rehabil. 
2011;38(1):3 - 11.
7.Paesani DA, Lobbezoo F, Gelos C, 
Guarda - Nardini L, Ahlberg J, Manfredini 
D. Correlation between self - reported and 
clinically based diagnoses of bruxism in 
temporomandibular disorders patients. J Oral 
Rehabil. 2013;40(11):803 - 809.
8.Schiffman E, Ohrbach R, Truelove E, et 
al. Diagnostic Criteria for Temporomandibular 
Disorders (DC/TMD) for Clinical and 
Research Applications: recommendations 
of the International RDC/TMD Consortium 
Network* and Orofacial Pain Special Interest 
Groupdagger. J Oral Facial Pain Headache. 
2014;28(1):6 - 27.
9.Thai Thanh Truc, Kim Xuan Loan, Nguyen 
Do Nguyen, Dixon J, Sun J, Dunne MP. 
Validation of the Educational Stress Scale for 
Adolescents (ESSA) in Vietnam. Asia Pac J 
Public Health. 2015;27(2):Np2112 - 2121.
10.Winocur E, Messer T, Eli I, et al. Awake 
and Sleep Bruxism Among Israeli Adolescents. 
Front Neurol. 2019;10:443.
11.Serra - Negra JM, Scarpelli AC, Tirsa - 
Costa D, Guimaraes FH, Pordeus IA, Paiva 
SM. Sleep bruxism, awake bruxism and sleep 
quality among Brazilian dental students: a cross 
- sectional study. Braz Dent J. 2014;25(3):241 - 
247.
12.Serra - Negra JM, Lobbezoo F, Correa 
- Faria P, et al. Relationship of self - reported 
sleep bruxism and awake bruxism with 
chronotype profiles in Italian dental students. 
Cranio. 2019;37(3):147 - 152.
13.Other Parasomnias. The International 
Classification of Sleep Disorders – Third 
Edition (ICSD - 3). American Academy of Sleep 
Medicine; 2014,182 - 185.
14.Manfredini D, Winocur E, Guarda - 
Nardini L, Paesani D, Lobbezoo F. Epidemiology 
of bruxism in adults: a systematic review of the 
literature. J Orofac Pain. 2013;27(2):99 - 110.
15.Lavigne GJ, Kato T, Kolta A, Sessle BJ. 
Neurobiological mechanisms involved in sleep 
bruxism. Crit Rev Oral Biol Med. 2003;14(1):30 
- 46.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
151TCNCYH 128 (4) - 2020
Summary
BRUXISM AND THE ASSOCIATION WITH 
ACADEMIC PRESSURE AMONG HANOI MEDICAL UNIVERSITY 
STUDENTS
Bruxism, a common oral health - related problem, is a risk factor for tooth tissue damage, 
failure of prosthesis and/or temporomandibular disorders. Determining contributing factors 
of bruxism helps to develop prevetive interventions for those at risk. This study aimed to 
investigate the prevalence of bruxism and the association between bruxism and academic 
pressure among students in Hanoi Medical University. The prevalence of bruxism in the research 
group was 51.2% in which that of sleep bruxism and awake bruxism were 34.0% and 17.2%, 
respectively. High levels of academic pressure increased the risk of bruxism (odd ratios = 2.05; 
95% confidence interval = 1.42 - 2.95; p < 0.01). In conclusion, the prevalence of bruxism was 
high and there is an association between bruxism and academic pressure among students.
Keywords: Bruxism, academic pressure, Hanoi Medical University students.

File đính kèm:

  • pdfnghien_rang_va_moi_lien_quan_voi_ap_luc_hoc_tap_cua_sinh_vie.pdf