Nghiên cứu vôi hóa động mạch chi dưới bằng siêu âm hai bình diện ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2

Mục tiêu: Khảo sát tỷ lệ và mức độ vôi hóa động mạch đùi và khoeo ở bệnh nhân đái tháo đường

týp 2 và đánh giá một số yếu tố liên quan đến tình trạng vôi hóa động mạch đùi và khoeo. Phương pháp

nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang thực hiện trên 77 bệnh nhân đái tháo đường týp 2 tại Bệnh viện

Trung ương Huế. Thực hiện siêu âm 2D để đánh giá vôi hóa động mạch đùi và động mạch khoeo hai

bên. Kết quả: Có 54 bệnh nhân (70,13%) có vôi hóa động mạch đùi và khoeo hai chân trong đó có 49

bệnh nhân (63,64%) là vôi hóa lớp trung mạc. Trong 49 bệnh nhân vôi hóa lớp trung mạc, có 18 bệnh

nhân (36,73%) có vôi hóa mức độ nhẹ và 31 bệnh nhân (62,27%) có vôi hóa mức độ nặng. Tuổi, thời

gian mắc đái tháo đường, HbA1c và mức lọc cầu thận có ảnh hưởng đến mức độ vôi hóa lớp trung mạc.

Các thông số khác gồm glucose máu lúc đói, BMI, cholesterol toàn phần, HDL - C, LDL - C, triglycerid

và nồng độ canxi máu không thấy có liên quan đến mức độ vôi hóa lớp trung mạc động mạch đùi và

khoeo hai chân. Có mối tương quan có ý nghĩa thống kê giữa albumin niệu, ABI, giá trị huyết áp tâm thu,

chỉ số khối cơ thất trái, thời gian QTc với mức độ vôi hóa lớp trung mạc. Không thấy có tương quan giữa

mức độ vôi hóa lớp trung mạc với chỉ số huyết áp tâm trương và chức năng tâm thu thất trái. Kết luận:

Vôi hóa lớp trung mạc động mạch ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2 là tình trạng bệnh lý hay gặp và nó

liên quan đến nhiều biến chứng của đái tháo đường như tăng huyết áp, phì đại thất trái, bệnh cầu thận

đái tháo đường, bệnh thần kinh tự động tim.

pdf 8 trang phuongnguyen 400
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu vôi hóa động mạch chi dưới bằng siêu âm hai bình diện ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu vôi hóa động mạch chi dưới bằng siêu âm hai bình diện ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2

Nghiên cứu vôi hóa động mạch chi dưới bằng siêu âm hai bình diện ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2
nghiên cứu lâm sàng
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 68.2014 153
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong những biến chứng trên mạch máu của 
đái tháo đường týp 2, những thập kỷ gần đây, 
ngoài tình trạng xơ vữa động mạch, người ta quan 
tâm nhiều đến tình trạng vôi hóa thành động 
mạch. Tỉ lệ vôi hóa mạch máu liên quan chặt chẽ 
với tử suất và bệnh suất của bệnh tim mạch, do 
giảm độ đàn hồi của động mạch chủ, giảm chức 
năng tim, suy vành và thiếu máu dưới nội tâm 
mạc. Hơn nữa nó cũng liên quan chặt chẽ với bệnh 
mạch máu ngoại biên và tỷ lệ cắt cụt chi dưới ở 
bệnh nhân đái tháo đường. Từ đó nó làm gia tăng 
tỷ lệ tử vong ở bệnh nhân đái tháo đường [16]. Vì 
vậy, xác định được tình trạng vôi hóa mạch máu 
cũng như những thấu hiểu sâu xa về cơ chế bệnh 
sinh sẽ giúp ta có những giải pháp can thiệp điều 
trị và dự phòng tốt hơn cho bệnh nhân. Tình trạng 
vôi hóa mạch máu có ảnh hưởng đến nhiều cơ 
quan và có thể để lại hậu quả nặng nề và thường 
xảy ra trên bệnh nhân đái tháo đường. Tuy vậy, ở 
nước ta hiện nay vẫn chưa có nghiên cứu nào đánh 
giá tình trạng vôi hóa mạch máu nói chung và tình 
trạng vôi hóa mạch máu trên bệnh nhân đái tháo 
đường nói riêng.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu thực hiện cắt ngang trên 77 bệnh 
nhân đái tháo đường týp 2 tại Bệnh viện Trung 
Nghiên cứu vôi hóa động mạch chi dưới bằng siêu 
âm hai bình diện ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2
Huỳnh Hữu Năm*, Nguyễn Hải Thủy**
*Bệnh viện Đà Nẵng, **Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Khảo sát tỷ lệ và mức độ vôi hóa động mạch đùi và khoeo ở bệnh nhân đái tháo đường 
týp 2 và đánh giá một số yếu tố liên quan đến tình trạng vôi hóa động mạch đùi và khoeo. Phương pháp 
nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang thực hiện trên 77 bệnh nhân đái tháo đường týp 2 tại Bệnh viện 
Trung ương Huế. Thực hiện siêu âm 2D để đánh giá vôi hóa động mạch đùi và động mạch khoeo hai 
bên. Kết quả: Có 54 bệnh nhân (70,13%) có vôi hóa động mạch đùi và khoeo hai chân trong đó có 49 
bệnh nhân (63,64%) là vôi hóa lớp trung mạc. Trong 49 bệnh nhân vôi hóa lớp trung mạc, có 18 bệnh 
nhân (36,73%) có vôi hóa mức độ nhẹ và 31 bệnh nhân (62,27%) có vôi hóa mức độ nặng. Tuổi, thời 
gian mắc đái tháo đường, HbA1c và mức lọc cầu thận có ảnh hưởng đến mức độ vôi hóa lớp trung mạc. 
Các thông số khác gồm glucose máu lúc đói, BMI, cholesterol toàn phần, HDL - C, LDL - C, triglycerid 
và nồng độ canxi máu không thấy có liên quan đến mức độ vôi hóa lớp trung mạc động mạch đùi và 
khoeo hai chân. Có mối tương quan có ý nghĩa thống kê giữa albumin niệu, ABI, giá trị huyết áp tâm thu, 
chỉ số khối cơ thất trái, thời gian QTc với mức độ vôi hóa lớp trung mạc. Không thấy có tương quan giữa 
mức độ vôi hóa lớp trung mạc với chỉ số huyết áp tâm trương và chức năng tâm thu thất trái. Kết luận: 
Vôi hóa lớp trung mạc động mạch ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2 là tình trạng bệnh lý hay gặp và nó 
liên quan đến nhiều biến chứng của đái tháo đường như tăng huyết áp, phì đại thất trái, bệnh cầu thận 
đái tháo đường, bệnh thần kinh tự động tim.
nghiên cứu lâm sàng
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 68.2014154
Ương Huế từ 5/2013 - 5/2014. Đánh giá mức độ 
vôi hóa lớp trung mạc động mạch đùi và khoeo 2 
chân. Trên siêu âm, vôi hóa thành mạch được chẩn 
đoán là hình ảnh tăng hồi âm trên thành động 
mạch so với mô xung quanh và phá vỡ hình dạng 
bình thường của lớp nội - trung mạc. Chẩn đoán 
vôi hóa lớp trung mạc trên siêu âm dựa vào hình 
ảnh tăng âm đồng nhất, phẳng và thẳng, không 
gây hẹp lòng mạch. Vôi hóa lớp nội mạc thể hiện 
bằng hình ảnh không liên tục, kết thành mãng và 
gây hẹp lòng mạch. Khi có sự hiện diện cả hai tiêu 
chí trên gặp trong tình trạng vôi hóa cả 2 lớp trung 
mạc và nội mạc động mạch. Tình trạng vôi hóa lớp 
trung mạc được cho điểm trên mặt cắt dọc thành 
mạch máu rõ nhất. Mức độ nặng của tình trạng vôi 
hóa mạch máu được cho điểm từ 0 đến 4 trên khu 
vực khảo sát tương đương 4 cm (xấp xỉ kích thước 
đầu dò siêu âm). Điểm số được cho như sau: 0 
điểm là không có vôi hóa, 1 điểm là chiều dài đoạn 
vôi hóa < 1 cm, 2 điểm là chiều dài đoạn vôi hóa từ 
1 - < 2 cm, 3 điểm là chiều dài đoạn vôi hóa từ 2 - 3 
cm và 4 điểm là đoạn vôi hóa dài lớn hơn 3 cm. Có 
thể có tình trạng vôi hóa ở thành trước và thành 
sau của động mạch. Nếu vôi hóa ở thành trước 
và thành sau có mức độ giống nhau, thì cho điểm 
giống nhau. Nếu vôi hóa ở thành trước và thành 
sau có mức độ khác nhau thì lấy điểm số cao hơn. 
Cắt nhiều mặt cắt trên suốt thành động mạch đùi 
nông từ chỗ xuất phát đến vòng cơ khép và đoạn 
động mạch khoeo. Điểm số lớn nhất của bất kỳ 
đoạn nào trên suốt đường đi của mạch máu được 
lấy điểm để phân tích. Điểm số của hai chân được 
cộng lại và cho tổng điểm vôi hóa mạch máu, có 
giới hạn từ 0 - 8 điểm. Vôi hóa được cho là nhẹ nếu 
tổng điểm hai chân là 1 - 4 điểm. Vôi hóa nặng nếu 
tổng điểm hai chân là 5 - 8 điểm.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Bảng 1. Vôi hóa động mạch đùi và động mạch khoeo hai bên
Vôi hóa Nam (n=28) Nữ (n=49) Tổng p
Có 18 (64,29%) 36 (73,47%) 54 (70,13%)
> 0,05Không 10 (35,71%) 13 (26,53%) 23 (29,87%)
Tổng 28 (100%) 49 (100%) 77 (100%)
Có đến 54 trường hợp (chiếm 70,13%) có vôi hóa động mạch đùi và khoeo chi dưới. Tỷ lệ vôi hóa của 
2 giới khác nhau không có ý nghĩa thống kê.
Bảng 2. Loại vôi hóa động mạch đùi và động mạch khoeo hai bên
Loại vôi hóa Nam Nữ Tổng p
Vôi hóa lớp trung mạc 16 (54,14%) 33 (67,35%) 49 (63,64%)
> 0,05Không có vôi hóa lớp trung mạc 12 (42,86%) 16 (32,65%) 28 (36,36%)
Tổng 28 (100%) 49 (100%) 77 (100%)
Có 49 bệnh nhân (chiếm 63,64%) có vôi hóa lớp trung mạc động mạch đùi và động mạch khoeo, 
trong đó nam 16 người và nữ là 33 người. Không có sự khác nhau về tỷ lệ vôi hóa lớp trung mạc giữa 
hai giới.
Bảng 3. Điểm số vôi hóa lớp trung mạc cả hai chân
Thông số Nam (n= 16) Nữ (n=33) Tổng (n = 49) p
Điểm vôi hóa 4,37 ± 1,78 5,12 ± 2,07 4,87 ± 1,99 >0,05
Điểm vôi hóa LTM trung bình của nhóm nghiên cứu là 4,87 ± 1,99. Trong đó, điểm số ở nữ cao hơn 
nam không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).
nghiên cứu lâm sàng
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 68.2014 155
Bảng 4. Mức độ vôi hóa lớp trung mạc
Mức độ Nam (n= 16) Nữ (n=33) Tổng (n=49) p
Nhẹ 8 (50%) 10 (30,30%) 18 (36,73%)
>0,05Nặng 8 (50%) 23 (69,70%) 31 (62,27%)
Tổng 16 (100%) 33 (100%) 49 (100%)
Trong 49 bệnh nhân có vôi hóa lớp trung mạc, có đến 31 bệnh nhân (62,27%) vôi hóa ở mức độ nặng. 
Tỷ lệ mức độ vôi hóa nhẹ và nặng ở hai giới khác nhau không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).
Bảng 5. Tương quan hồi quy đơn biến giữa mức độ vôi hóa và các yếu tố ảnh hưởng
y x r p Phương trình hồi quy
Mức độ 
vôi hóa 
lớp trung 
mạc
Tuổi 0,39 < 0,05 y= 0,060x + 0,602
Thời gian mắc đái tháo 
đường
0,45 < 0,05 y= 0,213x + 3,919
HbA1c 0,44 < 0,05 y = 0,363x + 1,712
Glucose máu đói 0,03 > 0,05 Không tương quan
BMI 0,05 > 0,05 Không tương quan
Cholesterol TP 0,08 > 0,05 Không tương quan
HDL - C 0,10 > 0,05 Không tương quan
LDL - C 0,08 > 0,05 Không tương quan
Triglycerid 0,01 > 0,05 Không tương quan
MLCT - 0,28 < 0,05 Y = 81,99 - 3,34 x X
Nồng độ canxi máu 0,00 > 0,05 Không tương quan
- Có sự tương quan thuận mức độ trung bình giữa 
tuổi và mức độ vôi hóa lớp trung mạc ở động mạch 
đùi và khoeo hai bên với hệ số tương quan r = 0,39 
và p < 0,05.
- Có sự tương quan thuận mức độ trung bình 
giữa thời gian mắc bệnh đái tháo đường và mức độ 
vôi hóa lớp trung mạc ở động mạch đùi và khoeo 
hai bên với hệ số tương quan r = 0,45 và p < 0,05.
- Có sự tương quan thuận mức độ trung bình 
giữa HbA1c và mức độ vôi hóa lớp trung mạc ở 
động mạch đùi và khoeo hai bên với hệ số tương 
quan r = 0,44 và p < 0,05.
- Có sự tương quan mức độ trung bình giữa 
HbA1c và mức độ vôi hóa lớp trung mạc ở động 
mạch đùi và khoeo hai bên với hệ số tương quan r 
= 0,44 và p < 0,05.
- Có sự tương quan nghịch mức độ thấp giữa 
mức lọc cầu thận tính theo công thức MDRD và 
mức độ vôi hóa lớp trung mạc ở động mạch đùi 
và khoeo hai bên với hệ số tương quan - 0,28 và p 
< 0,05.
- Không có sự tương quan giữa nồng độ 
glucose máu đói, chỉ số khối cơ thể, nồng độ 
cholesterol toàn phần, HDL - cholesterol, LDL - 
cholesterol, triglyceride và nồng độ canxi máu với 
mức độ vôi hóa lớp trung mạc động mạch đùi và 
động mạch khoeo hai chân (p>0,05).
- Albumin niệu, ABI, huyết áp tâm thu, chỉ số 
khối cơ thất trái và thời gian QTc có mối liên quan 
có ý nghĩa thống kê với mức độ vôi hóa lớp trung 
mạc với p < 0,05 (Bảng 7 trang 156). 
- Có mối liên quan nghịch giữa huyết áp tâm 
trương và điểm số vôi hóa nhưng không có ý nghĩa 
thống kê với p > 0,05. 
nghiên cứu lâm sàng
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 68.2014156
- Có mối liên quan nghịch giữa chức năng tâm 
thu thất trái với mức độ vôi hóa lớp trung mạc 
nhưng không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05.
BÀN LUẬN
Tỷ lệ và loại vôi hóa động mạch đùi và động 
mạch khoeo
 Năm 1994, tác giả Leo Niskanen và cộng 
sự đã nghiên cứu trên 133 bệnh nhân mới chẩn 
đoán đái tháo đường không phụ thuộc insulin. 
Nhóm tác giả này khảo sát vôi hóa động mạch 
trên phim X quang. Vôi hóa động mạch đùi có ở 
54 bệnh nhân (chiếm 40,6%). Trong đó. vôi hóa 
lớp trung mạc có 23 bệnh nhân chiếm 17.29% 
(gồm 16 nam và 7 nữ) và vôi hóa lớp nội mạc có 
ở 31 bệnh nhân chiếm 23.30% (gồm 23 nam và 8 
nữ) [10]. Năm 1996, tác giả Seppo Lehto và cộng 
sự đã nghiên cứu trên 1059 bệnh nhân đái tháo 
đường không phụ thuộc insulin. tác giả này cũng 
áp dụng phương pháp chụp X quang để phát hiện 
vôi hóa động mạch đùi hai bên. Vôi hóa lớp trung 
mạc gặp trong 439 bệnh nhân (chiếm tỷ lệ 41,4%) 
và vôi hóa lớp nội mạc gặp trong 310 bệnh nhân 
(chiếm 29.3%) [11]. Năm 2008, tác giả Yamada 
S. và cs đã nghiên cứu trên 49 bệnh nhân đái tháo 
đường đang chạy thận nhân tạo. tỷ lệ vôi hóa động 
mạch cánh tay ở nhóm bệnh nhân đái tháo đường 
là 65,3%. cao hơn so với nhóm không có đái tháo 
đường (27,4%) [17]. Cũng trong năm 2008, tác 
giả Christopher David Smith và cs đã nghiên cứu 
vôi hóa động mạch gian đốt 1 - 2 bàn chân bằng 
X quang trên gần 1000 bệnh nhân. Tỷ lệ vôi hóa 
lớp trung mạc động mạch là 1.4%. Trong số những 
bệnh nhân có vôi hóa trung mạc động mạch thì có 
93% bệnh nhân có đái tháo đường và 100% có rối 
loạn dung nạp glucose [14]. Theo tác giả Joon - 
Shik Moon và cs năm 2011. tỷ lệ vôi hóa lớp trung 
mạc động mạch chi dưới là 21,2% ở người có ĐTĐ 
và chỉ có 5% ở những người khỏe mạnh [7]. Năm 
2012. tác giả Kin Hung Liu và cộng sự đã dùng siêu 
âm 2 bình diện để khảo sát vôi hóa động mạch đùi 
trên 289 bệnh nhân đái tháo đường týp 2. vôi hóa 
lớp trung mạc phát hiện được ở 173 bệnh nhân 
Bảng 6. Tương quan hồi quy đa biến giữa mức độ vôi hóa và các yếu tố ảnh hưởng
yếu tố β β hiệu chỉnh t p
Hằng số - 0,07 -0,04 > 0,05
Thời gian phát hiện ĐTĐ 0,17 0,37 2,84 < 0,05
Chỉ số HbA1c 0,33 0,49 3,71 < 0,05
Tuổi 0,03 0,27 1,79 > 0,05
MLCT -0,02 -0,30 -2.02 > 0,05
R= 0,83, R2 = 0,69. Mức độ vôi hóa lớp trung mạc = - 0,07 + 0,17 x (thời gian phát hiện ĐTĐ) + 0,33 
x HbA1c + 0,03 x tuổi - 0,02 x MLCT
Bảng 7. Mối liên quan giữa mức độ vôi hóa với một số yếu tố
yếu tố R p
Albumin niệu 0,24 < 0,05
ABI 0,46 < 0,05
Huyết áp tâm thu 0,23 < 0,05
Huyết áp tâm trương - 0,10 > 0,05
Chỉ số khối cơ thất trái 0,38 < 0,05
Thời gian QTc 0,56 < 0,05
Chức năng tâm thu thất trái -0,01 >0,05
nghiên cứu lâm sàng
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 68.2014 157
chiếm tỷ lệ 65,8% [8]. ]. Trong nghiên cứu của 
chúng tôi, có 54 bệnh nhân (chiếm 70,13%) có 
vôi hóa động mạch đùi và khoeo. Trong 28 bệnh 
nhân nam, có 18 bệnh nhân (chiếm 64,29%) có 
vôi hóa động mạch. Trong 49 bệnh nhân nữ, có 
36 bệnh nhân (chiếm 73,47%) có vôi hóa động 
mạch. Trong 54 bệnh nhân (chiếm 70,13%) có vôi 
hóa động mạch thì có đến 49 bệnh nhân (chiếm 
90,74%) là có vôi hóa lớp trung mạc đơn thuần 
hoặc vôi hóa hỗn hơp và 6 bệnh nhân có vôi hóa 
lớp nội mạc đơn thuần.
Mức độ vôi hóa lớp trung mạc động mạch 
đùi và động mạch khoeo
 Trong nghiên cứu của tác giả Kin Hung Liu 
và cộng sự trên 289 bệnh nhân đái tháo đường 
týp 2 có173 bệnh nhân chiếm tỷ lệ 65,8% có vôi 
hóa lớp trung mạc. Trong số đó có 109 bệnh nhân 
(63%) có vôi hóa lớp trung mạc nhẹ và 64 bệnh 
nhân (37%) có vôi hóa lớp trung mạc nặng [8]. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, vôi hóa lớp trung 
mạc mức độ nhẹ chiếm 36,73% và mức độ nặng là 
62,27%. Tỷ lệ vôi hóa lớp trung mạc mức độ nặng 
trong nghiên cứu của chúng tôi cao hơn của tác giả 
Kin Hung Liu có thể là do nhóm nghiên cứu của 
chúng tôi có độ tuổi cao hơn. mức độ kiểm soát 
glucose kém hơn.
Các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ vôi hóa
Tuổi
 Tác giả Jane A. Leopold [9] có nhận xét là vôi 
hóa động mạch là một quá trình lão hóa theo tuổi. 
Tác giả Leo Niskanen và cs cho thấy nhóm bệnh 
nhân đái tháo đường có vôi hóa lớp trung mạc 
động mạch đùi có độ tuổi cao hơn so với nhóm 
bệnh nhân đái tháo đường mà không có vôi hóa 
lớp trung mạc [11]. Trong nghiên cứu của chúng 
tôi, cũng có sự phù hợp về mặc cơ chế phân tử 
và kết quả nghiên cứu ở trên. Qua 77 đối tượng 
nghiên cứu. có sự tương quan thuận giữa tuổi và 
mức độ vôi hóa lớp trung mạc động mạch với r = 
0,39 và p < 0,05 với phương trình hồi quy là: mức 
độ vôi hóa = 0,060 x tuổi+ 0,602; 
Thời gian phát hiện đái tháo đường 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, có sự tương 
quan thuận mức độ trung bình giữa thời gian mắc 
bệnh đái tháo đường và mức độ vôi hóa lớp trung 
mạc ở động mạch đùi và khoeo hai bên với hệ số 
tương quan r = 0.45 và p < 0.05. Trong một nghiên 
cứu của tác giả Janet K. Snell-Bergeon và cs trên 
109 bệnh nhân đái tháo đường về tình trạng vôi 
hóa động mạch vành theo dõi trong thời gian 2,7 
năm. Tác giả nhận thấy rằng tình trạng tiến triển 
vôi hóa động mạch vành có liên quan đến thời 
gian mắc đái tháo đường với p = 0,02 [15]; 
Chỉ số HbA1c
 Mức độ kiểm soát glucose máu cũng có liên 
quan đến tình trạng vôi hóa lớp trung mạc mạch 
máu. Trong nghiên cứu của chúng tôi, có sự tương 
quan thuận mức độ trung bình giữa HbA1c và 
mức độ vôi hóa lớp trung mạc ở động mạch đùi và 
khoeo hai bên với hệ số tương quan r = 0.44 và p < 
0,05. Tác giả Swain J. và cs đã nghiên cứu trên 74 
bệnh nhân đái tháo đường có bàn chân đái đường 
đã thấy rằng ở những bệnh nhân có vôi hóa động 
mạch chi dưới thì có mức HbA1c cao hơn so với 
những bệnh nhân không có vôi hóa động mạch 
[16]. Tác giả Anand D. V. và cs cũng có kết luận 
tương tự khi nghiên cứu tình trạng vôi hóa động 
mạch vành trên bệnh nhân đái tháo đường. tác giả 
nhận thấy rằng HbA1c > 7% là yếu tố độc lập tiên 
lượng cho sự tiến triển nặng thêm của tình trạng 
vôi hóa động mạch vành. Trong nghiên cứu của 
tác giả Yamada S. và cs đã nghiên cứu trên 49 bệnh 
nhân đái tháo đường đang chạy thận nhân tạo cho 
thấy nhóm bệnh nhân có vôi hóa động mạch cánh 
tay có mức HbA1c cao hơn nhóm không có vôi 
hóa [17]. Năm 2011, tác giả Wen-Sheng Yue và cs 
đã nghiên cứu cho kết quả rằng ở bệnh nhân đái 
tháo đường týp 2. có mối liên quan giữa mức độ 
kiểm soát glucose máu (HbA1c) và độ cứng của 
mạch máu được đánh giá qua vận tốc sóng mạch 
cánh tay - cổ chân [19]; 
Mức lọc cầu thận
Trong nghiên cứu của chúng tôi cho thấy có 
sự tương quan nghịch giữa mức lọc cầu thận và 
nghiên cứu lâm sàng
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 68.2014158
mức độ vôi hóa lớp trung mạc ở động mạch đùi 
và khoeo hai bên với hệ số tương quan - 0,28 và 
p < 0,05. Điều này phù hợp với cơ chế bệnh sinh 
đã biết và một số nghiên cứu khác, mặt dù hệ số 
tương quan còn ở mức thấp. Theo tác giả Cannata 
- Andía J. B. và cs năm 2006. ở những người có 
bệnh thận mạn thì tốc độ cũng như độ lan rộng và 
độ nặng của vôi hóa động mạch cao gấp 20 lần so 
với người không bị bệnh thận mạn [2]. Điều này 
cho thấy các bệnh nhân bị đái tháo đường mà có 
bệnh thận mạn là những người có nguy cơ rất cao 
bị vôi hóa động mạch. Trong nghiên cứu của tác 
giả Yamada S. và cs cho thấy nhóm bệnh nhân có 
vôi hóa động mạch cánh tay có nồng độ creatinin 
máu cao hơn nhóm không có vôi hóa động mạch 
cánh tay [17].
Các yếu tố liên quan đến vôi hóa lớp trung mạc
 Albumin niệu
 Năm 1999, Agathoklis Psyrogiannis và cs đã 
nhận thấy tỷ lệ vôi hóa LTM cao ở nhóm bệnh 
nhân có albumin niệu vi thể (57% so với 13%) và 
microalbumin niệu là yếu tố tiên lượng vôi hóa lớp 
trung mạc mạch máu mạnh độc lập với bệnh thận 
[13]. Năm 2005, K. Yamagami và cs đã nghiên cứu 
thấy rằng chỉ số vôi hóa động mạch vành ở nhóm 
bệnh nhân có ĐTĐ có microalbumin niệu cao 
hơn nhóm có ĐTĐ có albumin niệu bình thường 
và so với nhóm bệnh nhân không ĐTĐ có ý nghĩa 
thống kê. Kết quả cũng tương tự như vậy đối với 
tình trạng vôi hóa động mạch chủ [18]. Tác giả 
Kin Hung Liu năm 2012 đã nghiên cứu thấy rằng 
nhóm bệnh nhân không có vôi hóa LTM động 
mạch đùi có tỷ lệ bệnh thận thấp nhất (35,5%), 
nhóm bệnh nhân có vôi hóa LTM mức độ nhẹ thì 
có tỷ lệ bệnh thận là 47,7% và cao nhất là nhóm 
bệnh nhân có vôi hóa LTM động mạch đùi nặng 
(75,7%) với sự khác nhau giữa 3 tỷ lệ này có ý 
nghĩa thống kê [8]. Trong nghiên cứu của chúng 
tôi, có mối tương quan thuận giữa mức độ vôi hóa 
LTM động mạch đùi và động mạch khoeo với 
mức albumin niệu với R = 0,24. Điều này phù hợp 
với các nghiên cứu trên; 
 Chỉ số huyết áp cổ chân trên cánh tay (ABI)
 Vôi hóa lớp trung mạch động mạch là một 
bệnh lý làm cứng thành động mạch không gây tắc 
nghẽn [8]. Do đó khi mức độ vôi hóa lớp trung 
mạc càng nặng thì chỉ số ABI càng cao. Nghiên 
cứu của chúng tôi cũng phù hợp với lập luận đó. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi cho thấy có mối 
tương quan thuận mức độ trung bình giữa mức độ 
vôi hóa lớp trung mạc động mạch đùi và khoeo với 
chỉ số huyết áp cổ chân trên cánh tay với R = 0,46. 
Năm 2011, Dimitri Aerden và cs đã nghiên cứu 
thấy rằng ở bệnh nhân có vôi hóa động mạch chi 
dưới làm cho việc giảm thấp khả năng chẩn đoán 
bệnh mạch máu ngoại biên của chỉ số ABI vì làm 
tăng chỉ số ABI giả tạo [1]; 
 Huyết áp tâm thu và huyết áp tâm trương
Vôi hóa dẫn đến tình trạng mất tính đàn hồi 
của mạch máu. tăng độ cứng của mạch máu [5] 
từ đó làm gia tăng áp lực động mạch, làm tăng 
huyết áp tâm thu và giảm huyết áp tâm trương 
[4]. Trong nghiên cứu của chúng tôi cho thấy 
có mối tương quan thuận giữa mức độ vôi hóa 
lớp trung mạc động mạch đùi và khoeo với mức 
huyết áp tâm thu với R = 0,288 với p < 0,05. Trong 
khi đó. đối với huyết áp tâm trương thì có môi 
liên quan nghịch giữa mức huyết áp và độ vôi hóa 
nhưng không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05. Kết 
quả này cũng khá giống với nhận xét của tác giả 
Drueke nhưng trị số huyết áp tâm trương thì chưa 
có ý nghĩa thống kê. cần có những nghiên cứu có 
mẫu lớn hơn để khẳng định điều này; 
 Thời gian QTc
 Biến chứng thần kinh tự động và vôi hóa lớp 
trung mạc mạch máu đã từ lâu thấy có mối liên 
quan mật thiết [3]. Öge A. và cs năm 2000 trên 
100 bệnh nhân ĐTĐ cho thấy thời gian QTc ở 
nhóm bệnh nhân ĐTĐ có vôi hóa động mạch cao 
hơn so với nhóm không có vôi hóa động mạch 
(495 ± 10ms so với 460 ± 12ms với p < 0,05) 
[12]. Trong nghiên cứu của chúng tôi thấy thời 
gian QTc ở nhóm có vôi hóa lớp trung mạc cao 
hơn nhóm không có vôi hóa trung mạc, tuy chưa 
nghiên cứu lâm sàng
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 68.2014 159
có ý nghĩa thống kê. Mặc dù vậy nhưng khi phân 
tích thấy có mối liên quan thuận khá chặt chẽ giữa 
thời gian QTc với mức độ vôi hóa lớp trung mạc 
động mạch đùi và khoeo hai bên với R = 0,56 và 
p < 0,05; 
Chỉ số khối cơ thất trái
Trong nghiên cứu của chúng tôi cho thấy có 
mối liên quan thuận giữa mức độ vôi hóa lớp trung 
mạc và chỉ số khối cơ thất trái với R = 0,381 và p < 
0,05. Chỉ số khối cơ thất trái của nhóm có vôi hóa 
lớp trung mạc là 126,72 ± 35,73 (g/m2) cao hơn 
có ý nghĩa thống kê so với nhóm không có vôi hóa 
lớp trung mạc 110,11 ± 27,73 (g/m2). Joachim H. 
Ix và cs năm 2010 cũng cho kết quả tương tự. Tác 
giả nhận thấy có mối liên quan có ý nghĩa thống kê 
giữa chỉ số ABI và chỉ số khối cơ thất trái [6]; 
Chức năng tâm thu thất trái
THA ban đầu sẽ làm rối loạn chức năng tâm 
trương, về sau mới làm rối loạn chức năng tâm thu. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, có mối liên quan 
nghịch giữa chức năng tâm thu thất trái với mức 
độ vôi hóa lớp trung mạc nhưng không có ý nghĩa 
thống kê với p > 0,05. Điều này có thể là trong 
nghiên cứu này số bệnh nhân có mức THA nặng 
không nhiều và thời gian phát hiện THA cũng 
không lâu (5,01 ± 4,11 năm). Do vậy cũng chưa 
ảnh hưởng đến chức năng tâm thu thất trái nhiều. 
Tuy vậy cần có những nghiên cứu có mẫu lớn hơn 
để khẳng định điều này.
KẾT LUẬN
Vôi hóa LTM động mạch ở bệnh nhân ĐTĐ 
týp 2 là tình trạng bệnh lý hay gặp và nó liên quan 
đến nhiều biến chứng của ĐTĐ như THA, phì đại 
thất trái, bệnh cầu thận ĐTĐ, bệnh thần kinh tự 
động tim.
ABSTraTE
Objectives: Evaluating the medial artery 
calcification (MAC) prevalence of femoral and 
politeal artery and some related factors in type 2 
diabetes patients. Methods: A cross sectional of 77 
type 2 diabetes patients. MAC was evaluated by 
2D mode ultrasound. Results: artery calcification 
in 54 patients (70,13%), 49 of them (63,64%) 
was MAC. In 49 patients with MAC, there were 
18 patients (36,73%) with mild severity and 
31 patients (62,27%) with severe severity. Age, 
diabetes duration, HbA1c and GFR were some 
influential factors of MAC. Some unrelated factors 
were fasting glucose, BMI, serum lipids and serum 
calcium. There were a statistically significant 
associated between albuminuria, ABI, systolic 
blood presure, LVMI, QTc with MAC severity. 
Conclusion: MAC in type 2 diabetes patients is a 
common phenomenon. It relates to some diabetic 
complications including hypertension, left 
ventricular hypertrophy, nephropathy and cardiac 
autonomic neuropathy.
TÀi Liệu THAM KHẢO
1. Aerden D., Massaad D., Kemp K., et al (2011), The Ankle - Brachial Index and the Diabetic Foot: A 
Troublesome Marriage, Ann Vasc Surg, 25, pp. 770-777.
2. Cannata - Andía J. B., et al (2006), “Vascular calcifications: pathogenesis, management and impact on 
clinical outcomes”, J Am SocNephrol 17, pp. 267 - 273.
3. Calcification, Calcific Aortic Stenosis and Calcification in a Diabetic Patient with Mitral Annular Severe 
Autonomic Neuropathy, Diabetic Medicine, 13(8), pp. 768-770. 
4. Drueke T. B. (2008), Arterial Intima and Media Calcification: Distinct Entities with Different 
Pathogenesis or All the Same?, Clin J Am Soc Nephrol, 3, pp. 1583-1584.
nghiên cứu lâm sàng
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 68.2014160
5. Guérin A. P., London G. M., Marchais S. J., Metivier F. (2000), Aterial stiffening and vascular 
calcifications in end - stage renal disease, Nepro Dial Trasplant, 15, pp. 1014 - 1021.
6. ix Joachim H., Katz Ronit, Peralta Carmen A., et al (2010), A High Ankle Brachial Index Is Associated 
With Greater Left Ventricular Mass, Journal of the American College of Cardiology, 55(4), pp. 342 - 349.
7. Joon - Shik Moon, Vicki M. Clark, et al (2011), A Controlled Study of Medial Arterial Calcification of 
Legs, Arch Neurol., 68(10), pp.1290-1294.
8. Kin Hung Liu, et al (2012), “US Assessment of Medial Arterial Calcification: A Sensitive Marker of 
Diabetes-related Microvascular and Macrovascular Complications”,  Radiology, 265, pp. 294 - 302. 
9. Leopold J. A. (2013), Vascular Calcification: An Age-Old Problem of Old Age, Circulation, 127, pp. 
2380-2382.
10. Niskanen L., Siitonen O., Suhonen M., usitupa M. i. (1994), Medial Artery Calcification Predicts 
Cardiovascular Mortality in Patients With NIDDM, Diabetes Care, 17(11), pp. 1252 - 1256.
11. Niskanen L., Lehto S., Suhonen M., Rönnemaa T., Laakso M. (1996), Medial Artery Calcification, 
A Neglected Harbinger of Cardiovascular Complications in Non-Insulin-Dependent Diabetes Mellitus, 
Arteriosclerosis, Thrombosis, and Vascular Biology, 16, pp. 978-983.
12. Oge A., Demir S., Muftuglu O. (2000), “Medial arterial calcification is a predictor of cardiac autonomic 
neuropathy in diabetic patients”, Turkish journal of andocrinology and metabolism, 1, pp. 15 - 18.
13. Psyrogiannis A., Kyriazopoulou V., Vagenakis A. G. (1999), Medial Arterial Calcification Is Frequently 
Found in Patients with Microalbuminuria, Angiology, 50(12), pp. 971
14. Smith C. D. et (2008), “Medial Artery Calcification as an Indicator of Diabetic Peripheral Vascular 
Disease”, Foot & Ankle International, 29(2), pp. 185 - 189.
15. Snell-Bergeon J. K., Dabelea D., et al (2003), Progression of Coronary Artery Calcification in Type 1 
Diabetes, Diabetes Care, 26, pp.2923-2928.
16. Swain J., Tiwari S., et al (2012), Vascular calcification in diabetic foot and its association with calcium 
homeostasis, Indian J Endocrinol Metab., 16(Suppl 2), pp. S450-S452.
17. yamada S., inaba M., et al (2008), Association of glycated albumin, but not glycated hemoglobin, with 
peripheral vascular calcification in hemodialysis patients with type 2 diabetes, Life Sciences 83, pp. 516-
519.
18. yamagami K., Hosoi M., yamamoto T. (2005), Coronary arterial calcification is associated with 
albuminuria in type 2 diabetic patient, Diabetes, Obesity and Metabolism,7, pp. 390-396.
19. yue Wen-Sheng, Lau Kui-Kai, Siu Chung-Wah, et al (2011), Impact of glycemic control on circulating 
endothelial progenitor cells and arterial stiffness in patients with type 2 diabetes mellitus, Cardiovascular 
Diabetology,10, pp. 113.

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_voi_hoa_dong_mach_chi_duoi_bang_sieu_am_hai_binh.pdf