Nghiên cứu và triển khai linked data cho các ứng dụng Web ngữ nghĩa

TÓM TẮT

Web ngữ nghĩa là xu thế phát triển trong việc biểu diễn dữ liệu để khắc phục các hạn

chế của Web hiện tại và hướng đến một thế hệ Web đáp ứng tốt hơn nhu cầu của con người và

các ứng dụng. Linked Data là thuật ngữ chỉ cách thức liên kết các nguồn dữ liệu trên Web hay

đơn giản là sử dụng Web để kết nối các dữ liệu từ nhiều nguồn khác nhau, là một trong những

cách tạo dựng nền tảng cho Web ngữ nghĩa. Vấn đề đặt ra là làm sao để chúng ta có thể chia sẻ

các dữ liệu trên Web dễ dàng như chia sẻ các tài liệu trên Web ngày nay. Bài báo này trình bày

các khái niệm và các kỹ thuật nền tảng của Linked Data, mô tả cách xuất bản Linked Data lên

Web. Phần cuối đưa ra ví dụ minh họa việc xuất bản Linked Data và liên kết đến các nguồn dữ

liệu khác trên Web.

pdf 14 trang phuongnguyen 8340
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu và triển khai linked data cho các ứng dụng Web ngữ nghĩa", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu và triển khai linked data cho các ứng dụng Web ngữ nghĩa

Nghiên cứu và triển khai linked data cho các ứng dụng Web ngữ nghĩa
179
TẠP CHÍ KHOA HỌC, Đại học Huế, Số 65, 2011 
NGHIÊN CỨU VÀ TRIỂN KHAI LINKED DATA 
CHO CÁC ỨNG DỤNG WEB NGỮ NGHĨA 
Lê Thị Thanh Tâm, Trường Cao đẳng Công nghiệp Huế 
Hoàng Hữu Hạnh, Lê Mạnh Thạnh 
Đại học Huế 
TÓM TẮT 
Web ngữ nghĩa là xu thế phát triển trong việc biểu diễn dữ liệu để khắc phục các hạn 
chế của Web hiện tại và hướng đến một thế hệ Web đáp ứng tốt hơn nhu cầu của con người và 
các ứng dụng. Linked Data là thuật ngữ chỉ cách thức liên kết các nguồn dữ liệu trên Web hay 
đơn giản là sử dụng Web để kết nối các dữ liệu từ nhiều nguồn khác nhau, là một trong những 
cách tạo dựng nền tảng cho Web ngữ nghĩa. Vấn đề đặt ra là làm sao để chúng ta có thể chia sẻ 
các dữ liệu trên Web dễ dàng như chia sẻ các tài liệu trên Web ngày nay. Bài báo này trình bày 
các khái niệm và các kỹ thuật nền tảng của Linked Data, mô tả cách xuất bản Linked Data lên 
Web. Phần cuối đưa ra ví dụ minh họa việc xuất bản Linked Data và liên kết đến các nguồn dữ 
liệu khác trên Web. 
1. Giới thiệu 
Mặc dù Web đã mang lại những lợi ích to lớn cho đến tận hôm nay. Tuy nhiên, 
những công nghệ đó chỉ áp dụng cho Web của tài liệu như hiện tại mà không thể áp 
dụng cho một thế hệ Web mới, Web dữ liệu (Web of Data). Thông thường, dữ liệu được 
xuất bản lên Web đã được định sẵn dưới dạng thô XML hay bằng HTML, mà bỏ qua 
nhiều cấu trúc và ngữ nghĩa của nó, dẫn đến thông tin thu được thiếu chính xác và đầy 
đủ. Trong Web siêu văn bản, tính tự nhiên của các mối quan hệ giữa hai tài liệu liên kết 
không rõ ràng vì định dạng dữ liệu HTML không hiệu quả khi biểu diễn các hạng mục 
riêng biệt được mô tả trong một tài liệu cụ thể và kết nối bởi liên kết định kiểu đến các 
mục liên quan. [1, 3] 
Xuất phát từ ý tưởng của Tim Berner-Lee năm 1998: “Web ngữ nghĩa không chỉ 
đưa dữ liệu lên Web. Nó còn là những liên kết để người hay máy có thể duyệt được dữ 
liệu trên Web. Với các dữ liệu được liên kết, khi bạn có một vài thứ bạn có thể tìm thấy 
những dữ liệu khác liên quan” [3]. Vấn đề đặt ra là làm sao để chúng ta có thể chia sẻ 
các dữ liệu (có cấu trúc) trên web dễ dàng như chia sẻ các tài liệu trên web ngày nay. 
Thuật ngữ Linked Data được Tim Berner-Lee đưa ra trong các ghi chép về kiến 
trúc Linked Data Web của mình. Thuật ngữ này chỉ cách thức (kiểu) để xuất bản và liên 
kết các dữ liệu có cấu trúc trên web. Giả định cơ bản của Linked Data là lợi ích và giá 
trị của dữ liệu tăng lên khi nó được liên kết với các dữ liệu khác [3, 9]. 
180
Trong khi thành phần chính của Web hiện nay (hay còn gọi là web siêu liên kết) 
là tài liệu HTML được kết nối bởi các siêu liên kết không định kiểu (không xác định 
kiểu dữ liệu hay kiểu quan hệ), Linked Data dựa vào tài liệu chứa dữ liệu dạng RDF 
[19]. Tuy nhiên, tốt hơn các tài liệu kết nối đơn giản, Linked Data sử dụng RDF để làm 
các câu định kiểu liên kết các tài nguyên trong thế gới thực. Kết quả, những gì chúng ta 
tham chiếu trong Web của dữ liệu, có thể thực sự được mô tả như trong thế giới thực 
(Web of things), được mô tả bởi dữ liệu trên Web. [7, 8] 
Hình 1. Mô hình liên kết dữ liệu trong Web ngữ nghĩa 
2. Một số khái niệm và thuật ngữ 
2.1. Các nguyên lý của Linked Data 
Tim Berner Lee đã đưa ra 4 nguyên lý cơ bản của Linked Data như sau [3,7,11]: 
- Dùng URI để đặt tên cho mọi thứ, không chỉ là các tài liệu; 
- Sử dụng HTTP URI để tìm kiếm tên tài nguyên; 
- Khi tìm kiếm phải cung cấp thêm các thông tin hữu ích, sử dụng các kỹ thuật 
đã được chuẩn hóa (RDF, SPARQL); 
- Có những liên kết đến URI khác cho phép khám phá thêm những tài nguyên 
(tri thức) khác. 
Linked Data sử dụng mô hình dữ liệu RDF để xuất bản dữ liệu có cấu trúc trên 
Web và sử dụng liên kết RDF để kết nối các dữ liệu từ nhiều nguồn dữ liệu khác nhau. 
Điều đó tạo ra các nguồn dữ liệu chung trên Web nơi mà các cá nhân hay tổ chức có thể 
đưa dữ liệu lên hay sử dụng dữ liệu về bất cứ thứ gì [2, 8]. 
2.2. Tài nguyên 
Để xuất bản dữ liệu trên Web, đầu tiên chúng ta phải đặt tên hay định danh các 
thứ quan tâm trong lĩnh vực của ứng dụng. Khi mô tả chúng, ta cần quan tâm đến các 
thuộc tính và mối quan hệ của chúng với những thứ khác. Trong thuật ngữ của kiến trúc 
Web, tất cả các thứ quan tâm được gọi là tài nguyên [8]. 
Tài nguyên 
Tài nguyên 
Tài nguyên 
Tài nguyên 
Tài nguyên 
Tài nguyên 
Tài nguyên 
Tài nguyên 
Tài nguyên 
Tài nguyên 
Liên kết Liên kết Liên kết Liên kết 
A B C D E 
181
Có hai loại tài nguyên là tài nguyên thông tin và tài nguyên phi thông tin (tài 
nguyên thế giới thực hay còn gọi là thực thể thế giới thực) [8]. Tất cả tài nguyên trong 
Web tài liệu như các tệp tài liệu, hình ảnh và các tệp phương tiện khác đều là tài nguyên 
thông tin. Nhưng nhiều thứ mà chúng ta muốn chia sẻ dữ liệu thì không phải chẳng hạn 
như con người, sản phẩm vật lý, nơi chốn, chất đạm, các khái niệm khoa học, v.v 
Tóm lại, tất cả các đối tượng thế giới thực tồn tại bên ngoài Web là các tài nguyên phi 
thông tin [8]. 
2.3. Định danh tài nguyên 
Tài nguyên được định danh bằng URI (Uniform Resource Identifier - định danh 
tài nguyên đồng nhất). URI là một chuỗi các ký tự dùng để định danh tài nguyên trên 
Internet. Những dịnh danh này có khả năng tương tác với sự biểu diễn của tài nguyên 
trên mạng sử dụng giao thức cụ thể và phổ biến nhất là HTTP, do đó, thường gọi là lược 
đồ HTTP URI [15, 18]. 
2.4. Biểu diễn tài nguyên 
Tài nguyên thông tin có sự biểu diễn (hiển thị). Một biểu diễn là chuỗi các byte 
trong một định dạng cứng như HTML, RDF, XML hay JPEG. Ví dụ: hóa đơn là một tài 
nguyên thông tin, nó có thể được biểu diễn như một trang HTML, một tài liệu PDF in 
được hay một tài liệu RDF. Một tài nguyên thông tin đơn có thể có nhiều biểu diễn khác 
nhau, như định dạng khác nhau về chất lượng phân giải hay ngôn ngữ tự nhiên. Tài 
nguyên phi thông tin không thể được biểu diễn một cách trực tiếp từ URI mà phải thông 
qua một tài nguyên thông tin biểu diễn mô tả của chúng [8, 15]. 
Hình 2. Mối quan hệ giữa một tài nguyên và sự biểu diễn nó 
Có hai dạng mẫu HTTP URI để định danh URI là Hash URI (sử dụng phân đoạn #) 
và Slash URI (sử dụng dấu / ) để tách việc định danh với sự biểu diễn tài nguyên [8, 15]. 
2.4.1. Bí danh URI 
Trong một môi trường mở như Web thì thường xảy ra vấn đề nhiều người cung 
cấp những thông tin khác nhau cùng chỉ đến một tài nguyên phi thông tin, ví dụ như vị 
trí địa lý hay các nhân vật nổi tiếng. Vì họ không biết về nhau nên họ đưa ra những URI 
khác nhau cho cùng một đối tượng thế giới thực. Các URI tham chiếu đến cùng một tài 
Trình duyệt Web Ứng dụng Web ngữ nghĩa 
ID 
Định danh tài nguyên (URI) 
RDF 
URI tài liệu RDF 
HTML 
URI tài liệu HTML 
182
nguyên phi thông tin, chúng được gọi là các bí danh. 
2.4.2. Tham chiếu URI 
Tham chiếu URI hay tham chiếu tài nguyên là tiến trình tìm kiếm một URI trên 
Web để lấy thông tin về tài nguyên được tham chiếu [8]. 
Với tài nguyên thông tin, khi một URI định danh của một tài nguyên thông tin 
được tham chiếu, máy chủ của URI đó thường sẽ sinh ra một biểu diễn mới, một hình 
ảnh chụp nhanh về trạng thái hiện tại của tài nguyên thông tin và gửi trở lại máy trạm 
dùng giao thức HTTP [8, 9, 15]. 
Tài nguyên phi thông tin không thể được tham chiếu trực tiếp. Vì vậy, kiến trúc 
Web sử dụng một bí quyết để làm cho URI định danh các tài nguyên phi thông tin được 
tham chiếu. Thay vì gửi một biểu diễn của tài nguyên, máy chủ gửi đến máy trạm một 
tài nguyên thông tin mô tả tài nguyên phi thông tin sử dụng mã HTTP 303 See Other. 
Điều này gọi là chuyển tiếp 303 (redirect). Bước thứ 2, máy trạm sẽ tham chiếu đến 
URI mới này và lấy thông tin mô tả biểu diễn tài nguyên phi thông tin [15]. 
3. Xuất bản Linked Data 
Web ngữ nghĩa đã tạo nên một lớp ứng dụng mới sử dụng công nghệ Web ngữ 
nghĩa và gọi là các ứng dụng Web ngữ nghĩa [8, 13, 15]. Linked Data là cách thức liên 
kết dữ liệu trên Web. Vậy để tạo nên ứng dụng Linked Data, cần tìm hiểu cách xuất bản 
Linked Data lên Web như thế nào. 
Hình 3. Ứng dụng Web ngữ nghĩa sử dụng Linked Data 
Các ứng dụng Web ngữ nghĩa sử dụng Linked Data đều cần xuất bản dữ liệu lên 
Web. Sau đây là tiến trình chung cho việc xuất bản dữ liệu lên Web theo nguyên lý 
Linked Data. 
Tài nguyên 
Tài nguyên 
Tài nguyên 
Tài nguyên 
Tài nguyên 
Tài nguyên 
Tài nguyên 
Tài nguyên 
Tài nguyên 
Tài nguyên 
Liên kết Liên kết Liên kết Liên kết 
A B C D E 
Trình duyệt Linked 
Data 
Máy tìm kiếm Linked 
Data 
Ứng dụng Linked 
Data 
183
3.1. Chuẩn bị dữ liệu 
Bước đầu tiên để xuất bản Linked Data là chuẩn bị dữ liệu cho ứng dụng. Dữ 
liệu của ứng dụng chính là các tài nguyên trên Web, do đó chuẩn bị dữ liệu trước hết 
chính là việc thiết kế không gian tên URI cho tập dữ liệu, có thể hiểu đó là cách tạo ra 
URI cho dữ liệu của ứng dụng. Và sau đó sẽ tạo mới hoặc chọn để sử dụng lại các bộ từ 
vựng có sẵn [8, 15]. 
Hình 4. Tiến trình xuất bản Linked Data lên Web 
3.2. Chọn URI 
Có hai mẫu HTTP URI dùng để định danh cho đối tượng là slash URI và hash 
URI. Vậy có thể chọn một trong hai mẫu HTTP URI để xác định các thực thể trong ứng 
dụng. Cả hai mẫu này đều đảm bảo rằng các máy trạm có thể phân biệt giữa URI xác 
định thực thể thế giới thực và URI định danh tài liệu Web mô tả những thực thể thế giới 
thực tức là tài nguyên thông tin và tài nguyên phi thông tin. Một số tiêu chí thông 
thường được đưa ra cho việc định danh đối tượng như sau: 
- Đặt tên dễ nhớ, ngắn gọn. 
- Định danh trong không gian tên của mình. (Tên miền có thể chính là không 
gian tên). 
- Quan tâm đến tính mềm dẻo và nhất quán của URI vì việc thay đổi URI sẽ 
làm vỡ các liên kết đã thiết lập. 
Tài nguyên thông tin thì thường có một địa chỉ Web cụ thể để biểu diễn. Nhưng 
một tài nguyên phi thông tin thì không. Một tài nguyên phi thông tin cần xác định 3 
định danh URI liên quan: 
- 1 định danh cho tài nguyên. 
- 1 định danh cho tài nguyên thông tin mô tả tài nguyên đó phù hợp cho trình 
TIẾN TRÌNH XUẤT BẢN LINKED DATA 
Chuẩn bị dữ liệu 
Tạo và sinh liên kết 
Xuất bản dữ liệu 
Kiểm thử và gỡ lỗi 
184
duyệt HTML (biểu diễn bởi trang web). 
- 1 định danh cho tài nguyên thông tin mô tả tài nguyên đó phù hợp cho trình 
duyệt RDF (biểu diễn dạng RDF/XML). 
Có nhiều ý tưởng trong việc chọn URI, sau đây là một số ví dụ dùng slash URI: 
Cách 1: 
-  
-  
-  
Cách 2: 
-  
-  
-  
Tuy vậy, thường cần phải có một vài từ khóa chính trong URI của ứng dụng để 
chắc chắn cho nó là duy nhất. Từ khóa này cần có ý nghĩa trong lĩnh vực của ứng dụng. 
Ví dụ: một phần số ISBN trong lĩnh vực sách và xuất bản được đưa vào định danh URI 
là tốt hơn như làm khóa cho các bản ghi CSDL, điều này cũng làm việc khai phá các 
liên kết RDF cũng dễ hơn. 
3.3. Chọn bộ từ vựng RDF 
Khi xuất bản dữ liệu lên Web, nhiều tổ chức, cá nhân khác nhau sử dụng các bộ 
từ vựng khác nhau để tham chiếu cho các tài nguyên của ứng dụng tùy theo sở thích hay 
mối quan tâm của họ. Web dữ liệu là một môi trường mở, chúng ta có thể dùng bất kỳ 
bộ từ vựng nào và có thể dùng cùng lúc hoặc không, tùy ý. Mặc dù vậy, tốt nhất chúng 
ta nên sử dụng lại những thuật ngữ từ những bộ từ vựng RDF phổ biến như FOAF, 
SIOC, SKOS, DOAP, vCard, Dublin Core, OAI-ORE hay GoodRelations để làm cho 
các ứng dụng máy trạm dễ dàng xử lý Linked Data. Khi những bộ từ vựng đó không đủ 
cung cấp các thuật ngữ cho ứng dụng, người xuất bản dữ liệu cần phải định nghĩa thuật 
ngữ mới và được định nghĩa bởi các URI xác định [8,13]. 
Tóm lại, để máy trạm dễ dàng xử lý dữ liệu, các bộ từ vựng thông dụng có thể 
được sử dụng lại. Chỉ nên định nghĩa những từ mới nếu như không tìm thấy từ nào 
trong các bộ từ vựng đã có. 
Khi không tìm được bộ từ vựng nào sẵn có phù hợp cho các lớp và thuộc tính 
của ứng dụng thì cần phải định nghĩa ra chúng. Định nghĩa một thuật ngữ mới không 
khó. Chúng ta có thể định nghĩa những từ vựng sử dụng lược đồ RDF hay OWL. 
185
3.4. Tạo liên kết dữ liệu 
Liên kết dữ liệu (typed link) chính là điều cốt lõi của Web dữ liệu. Nếu không có 
liên kết hay chỉ có những liên kết ở mức nội bộ, dữ liệu bị giới hạn trong những phạm vi 
nhất định. Liên kết dữ liệu cho phép con người hay các ứng dụng duyệt qua những 
nguồn dữ liệu khác nhau và khám phá thêm dữ liệu, thông tin hữu ích. Trong các ứng 
dụng Linked Data, đó chính là các liên kết RDF dựa trên các lượt đồ RDF (RDFS). 
Để ứng dụng là một phần của Web dữ liệu, nguồn dữ liệu của chúng ta cần thiết 
lập các liên kết RDF đến các thực thể liên quan trong các nguồn dữ liệu khác. Các 
nguồn dữ liệu của các ứng dụng khác nhau nên có các liên kết RDF qua lại lẫn nhau 
giữa các tài nguyên tương tự hay có liên quan [2]. Khi có quá nhiều thực thể trong các 
nguồn dữ liệu cung cấp thông tin, thì việc tạo ra các liên kết RDF bằng thủ công khó 
khăn hơn, dẫn đến các cách tiếp cận tự động hoặc bán tự động sinh liên kết RDF. 
3.4.1. Tạo liên kết thủ công 
Để tạo các liên kết thủ công thì chúng ta phải biết trước một số thông tin về tập 
dữ liệu chúng ta muốn liên kết. Một khi xác định được tập dữ liệu cụ thể phù hợp để 
liên kết, chúng ta có thể tự tìm các tham chiếu URI muốn liên kết. Nếu nguồn dữ liệu 
không cung cấp giao diện tìm kiếm, chẳng hạn như điểm cuối SPARQL hay một mẫu 
HTML, và có thể dùng trình duyệt Linked Data như Tabulator hay Marbles để duyệt tập 
dữ liệu và tìm ra URI đúng [8]. 
Chúng ta cũng có thể sử dụng dịch vụ Sindice để tìm các URI tồn tại hay để 
chọn một thứ phổ biến nhất khi có nhiều lựa chọn. Uriqr cho phép tìm URI về người 
bạn biết, đơn giản tìm theo tên. Kết quả sắp xếp theo cách URI cụ thể được tham chiếu 
trong tài liệu RDF trên Web nhưng chúng ta cần một ít thông minh của con người để lấy 
được URI phù hợp nhất để sử dụng. Sindice chỉ mục Web ngữ nghĩa và có thể nói cho 
bạn biết nguồn nào là URI chắc chắn. Vì vậy, dịch vụ này có thể giúp chúng ta chọn 
URI phổ biến nhất cho một khái niệm.[8] 
3.4.2. Tự động sinh liên kết 
Cách tiếp cận thủ công mô tả trên không mềm dẻo đối với tập dữ liệu lớn. Trong 
trường hợp này, người ta sử dụng thuật toán sinh liên kết tự động để sinh ra các liên kết 
RDF giữa các nguồn dữ liệu. Đây là vấn đề phổ biến trong cộng đồng CSDL. Dự án liên 
kết dữ liệu mở (LOD-Linking Open Data Project) tập hợp các tài nguyên liên quan để 
sử dụng thuật toán sinh liên kết trong ngữ cảnh Linked Data. Hiện nay, vẫn còn thiếu 
các công cụ sử dụng để dễ dàng sinh liên kết RDF [8]. Vì vậy, người ta thường cài đặt 
thuật toán này với những tập dữ liệu cụ thể. 
3.5. Xuất bản dữ liệu 
Việc xuất bản lên Web như thế nào hiệu quả phụ thuộc nhiều yếu tố. Đầu tiên 
phải kể đến là dữ liệu của chúng ta lớn bao nhiêu? Nếu chỉ xuất bản vài trăm bộ ba RDF, 
186
chúng ta có thể cung cấp chúng trong 1 tệp RDF tĩnh và tải lên Web. Nếu dữ liệu nhiều 
hơn, chúng ta có thể đưa vào trong kho lưu trữ RDF và dùng các công cụ giao tiếp như 
Pubby để xuất bản chúng. Tiếp đến, chúng ta cần xem xét hiện nay dữ liệu đang được 
lưu trữ như thế nào? Nếu thông tin hiện đang lưu trữ trong CSDL quan hệ, chúng ta có 
thể dùng D2R Server để chuyển đổi và xuất bản kiểu khung nhìn RDF. Nếu thông tin là 
có sẵn thông qua API, bạn có thể cài đặt một bao bọc quanh các API. Nếu thông tin của 
bạn ở dạng khác như MS Excel, CSV hay BibTeX, bạn cần chuyển qua RDF trước. Và 
một yếu tố nữa cần quan tâm là sự thay đổi hay cập nhật của dữ liệu. Nếu dữ liệu phải 
thay đổi thường xuyên, chúng ta có thể thích cách tiếp cận mà sinh ra khung nhìn RDF 
trên dữ liệu như D2R Server [8,9,15]. 
Hiện nay, đã có nhiều công cụ hỗ trợ xuất bản Linked Data đã và đang được phát 
triển. Các công cụ này vừa cung cấp kho nội dung RDF cho Linked Data trên Web vừa 
cung cấp khung nhìn Linked Data trên nguồn dữ liệu không RDF. Công cụ cho phép 
người xuất bản từ việc giải quyết với chi tiết kỹ thuật như dàn xếp nội dung và đảm bảo 
rằng dữ liệu được xuất bản phụ thuộc thực tiễn cộng đồng Linked Data. Tất cả công cụ 
hỗ trợ tham chiếu lại URI trong mô tả RDF. Thêm vào đó, một vài công cụ cung cấp 
truy cập truy vấn SPARQL đến tập dữ liệu và hỗ trợ xuất bản RDF. Một số công cụ phổ 
biến hiện nay như D2R Server, Virtuoso Universal Server, Talis Platform, Pubby, 
Triplify, SparqlPlug, OAI2LOD Server, SIOC Exporters [8,13,15]. 
3.5.1. Cung cấp tệp RDF tĩnh 
Cách đơn giản nhất cung cấp Linked Data là tạo ra tệp RDF tĩnh và tải chúng 
lên một Web server. Trên Web thông thường, các trang HTML lớn sẽ tải rất chậm và sử 
dụng băng thông không cần thiết. Điều này cũng đúng khi xuất bản Linked Data: Tệp 
RDF của chúng ta không nên quá lớn. Nếu tệp dữ liệu lớn và mô tả nhiều tài nguyên, 
chúng ta nên chia chúng thành nhiều tệp RDF. Khi có nhiều tệp RDF, chắc chắn rằng 
chúng được liên kết đến những tệp khác thông qua bộ ba RDF mà bao gồm các tài 
nguyên được mô tả trong nhiều tệp khác nhau [8]. Chúng ta sử dụng dạng tệp tĩnh khi 
cấu trúc và kích thước của tập dữ liệu là không thay đổi nhiều trong tương lai. 
3.5.2. Cung cấp CSDL quan hệ 
Nếu dữ liệu của chúng ta được lưu trữ trong một CSDL quan hệ, ý tưởng tốt là 
để yên nó ở đó và xuất bản Linked Data trên CSDL đã tồn tại của chúng ta. 
Một công cụ để cung cấp Linked Data từ CSDL quan hệ là D2R Server. D2R 
Server dựa trên ánh xạ khai báo giữa lược đồ CSDL và thuật ngữ RDF đích. Dựa trên 
ánh xạ này, D2R cung cấp Linked Data trên CSDL của bạn và cung cấp một điểm cuối 
SPARQL cho CSDL [8,15]. 
3.5.3. Cung cấp các kiểu thông tin khác 
Nếu dữ liệu đang được biểu diễn ở các định dạng khác như CSV, MS Excel hay 
187
BibTEX thì chúng ta cần chuyển đổi dữ liệu qua RDF. Một số công cụ hỗ trợ việc này 
là: ConverterToRdf của ESW Wiki, và RDFizers của nhóm SIMILE [8,9]. 
3.6. Kiểm thử và gỡ lỗi 
Sau khi xuất bản thông tin dạng Linked Data trên Web, chúng ta cần kiểm tra 
thông tin có được truy cập đúng chưa. Chúng ta có thể kiểm tra các URI với dịch vụ 
kiểm tra Linked Data sử dụng Vapour Linked validation service tại địa chỉ 
 Dịch vụ này sinh ra các báo cáo chi tiết cách URI hoạt 
động với các yêu cầu HTTP như thế nào. Thêm vào đó, để xem dữ liệu Linked Data của 
chúng ta đã hiển thị đúng trong các trình duyệt và các liên kết có hoạt động đúng như 
mong muốn không, chúng ta có thể nhập các URI vào trong các trình duyệt Linked Data 
như Tabulator, Marbles, OpenLink RDF Brower, Disco [6,8]. 
4. Ví dụ minh họa 
4.1. Bài toán 
Dữ liệu cá nhân của tác giả được thiết kế và lưu trữ ở dạng tệp foaf.rdf, sau đó 
được xuất bản lên web tại host  Trong hồ sơ này, tác giả 
liên kết đến một số hồ sơ hay tài nguyên của người khác đã biết và sẵn có trên Web. 
Sau khi xuất bản lên Web, duyệt dữ liệu với trình duyệt hỗ trợ Linked Data. Từ 
đó, khám phá thêm các thông tin hữu ích từ các liên kết sẵn có trong tài liệu. Các móc 
xích liên kết sẽ dẫn người dùng đi sâu vào các thông tin liên quan. 
4.2. Triển khai ứng dụng 
4.2.1. Tạo và xuất bản hồ sơ FOAF cá nhân 
Hồ sơ cá nhân của tác giả được tạo ra, lưu thành tệp foaf.rdf và tải lên một máy 
chủ web miễn phí trên mạng, địa chỉ:  
4.2.2. Kiểm tra tính hợp lệ của dữ liệu 
Dữ liệu RDF trên được kiểm tra tính hợp lệ tại địa chỉ 
4.2.3. Duyệt và khám phá liên kết 
Trình duyệt Linked Data duyệt hồ sơ FOAF của Lê Thị Thanh Tâm: 
188
Liên kết đến hồ sơ Tim Berners-Lee. 
189
Liên kết, khám phá các tài nguyên khác: 
Liên kết đến CSDL lưu trữ các bài báo của thầy Hoàng Hữu Hạnh và các thông 
tin hữu ích khác cũng hiển thị. 
Và nhiều thông tin khác hữu ích theo các liên kết RDF cũng được khám phá. 
190
4.2.4. Tìm kiếm 
Dùng Marbles để tìm kiếm URI của Lê Thị Thanh Tâm: 
Xem một kết quả được tìm thấy: 
191
5. Kết luận 
Tim Berners-Lee đã từng nói: “Chúng ta cần dữ liệu trên Web để làm việc cùng 
nhau tốt hơn” (We need data on the Web to work better together) [4]. Thế giới mà mọi 
người đều đưa dữ liệu lên Web và rồi để mọi người có thể sáng tạo trên Web là ý tưởng 
về Linked Data của ông. Và theo định nghĩa của ông, Linked Data là cách thức để xuất 
bản và liên kết các dữ liệu có cấu trúc trên Web. 
“Nếu mọi người đưa dữ liệu lên Web, dữ liệu của chính phủ, của khoa học, của 
cộng đồng hay bất kỳ thứ gì, sẽ có người khác dùng nó để tạo ra những điều tuyệt diệu 
bằng cách mà chúng ta có thể không bao giờ tưởng tượng được”. Tim Berners-Lee đã 
nói trong bài trình bày “Năm dữ liệu mở được đưa ra toàn cầu” (The year open data 
went worldwide) tại Hội thảo TED (Technology, Entertainment, Design) năm 2010 như 
vậy [5]. Và ngày hôm nay, ngay bây giờ trên Internet đã có một phong trào về dữ liệu 
mở đang được diễn ra trên khắp thế giới. Linked Data đã tạo nên một lớp các ứng dụng 
mới trên Web cũng như tạo ra nhiều cơ hội và thách thức cho các nhà nghiên cứu. 
Linked Data cũng đang dần trở thành một phương cách để tạo dữ liệu cho Web dựa trên 
RDF và các công nghệ Web ngữ nghĩa. Bài bài này trình bày các ý tưởng cơ bản cho 
việc xuất bản dữ liệu Linked Data cho các tài nguyên thông tin cho thế hệ Web mới - 
Web of Data. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Hoàng Hữu Hạnh, Web ngữ nghĩa: Những thách thức và hướng tiếp cận mới, Tạp chí 
Khoa học, Đại học Huế, Số 48, (2008), 31-40. 
[2]. Hoàng Nguyễn Tuấn Minh, Tìm hiểu các ngôn ngữ truy vấn trong Web ngữ nghĩa và 
ứng dụng trong truy xuất thông tin, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Khoa học Huế, 
2009. 
[3]. Berners-Lee, T., Linked Data - Design Issues, Retrieved July 23, 2006, 
[4]. Berners-Lee, T., The next Web of open: Linked Data, Video in TED2009 Conference, 
2009. 
[5]. Berners-Lee, T., The year open data went worldwide, Video in TED2010 Conference, 
2010. 
[6]. Berners-Lee, T., et. al., Tabulator: Exploring and Analyzing Linked Data on the 
Semantic Web, Procedings of the 3rd International Semantic Web User Interaction 
Workshop (SWUI06), 2006. 
[7]. Berrueta, D., Phipps, J., Best Practice Recipes for Publishing RDF Vocabularies - W3C 
Working Group Note, Retrieved June 14, 2009, 
pub. 
[8]. Christian Bizer, R. Cyganiak, and Tom Heath, How to Publish Linked Data on the Web, 
192
 2007. 
[9]. Christian Bizer, Tom Heath, Tim Berners-Lee, Linked Data-The Story So Far, Special 
Issue on Linked Data, International Journal on Semantic Web and Information Systems 
(IJSWIS), 2009. 
[10]. Christian Bizer, Tom Heath, Kingsley Idehen, Tim Berners-Lee, Linked Data on the 
Web (LDOW2008), WWW 2008 / Workshop Summary, 2008. 
[11]. Christian Bizer, Tom Heath, Tim Berners-Lee, Linked Data: Principles and State of 
the Art, 17th International World Wide Web Conference W3C Track @ WWW2008, 
Beijing, China, 2008. 
[12]. Georgi Kobilarov, Chris Bizer, Sören Auer, Jens Lehmann, Querying Wikipedia like a 
Database, Freie Universität Berlin, Universität Leipzig, 2009. 
[13]. Michael Hausenblas, Linked Data Applications, DERI Technical Report 2009-07-26. 
[14]. Michael Hausenblas, Wolfgang Halb, Interlinking of Resources with Semantics, 
Institute of Information Systems & Information Management, JOANNEUM 
RESEARCH, Steyrergasse 17, 8010 Graz, Austria, 2009. 
[15]. OpenLink Software, Deploying Linked Data, v1.3 (Virtuoso 5.0), 2008. 
[16]. Paul Miler, Does Linked Data need RDF?, Paul Miler, Cloud of data. 
 2009. 
[17]. Tom Heath, An Introduction to Linked Data, Talis Information Ltd, 2009. 
[18]. W. Halb, Y. Raimond, and M. Hausenblas, Building Linked Data For Both Humans 
and Machines, WWW 2008 Workshop: Linked Data on the Web (LDOW2008), 
(Beijing, China), 2008. 
[19]. Resource Description Framework, Website:  . 
RESEARCH AND DEPLOYMENT LINKED DATA FOR 
SEMANTIC WEB APPLICATIONS 
Le Thi Thanh Tam, Hue College of Industry 
Hoang Huu Hanh, Le Manh Thanh 
Hue University 
SUMMARY 
Semantic Web is used as an important trend of data engineering in order to tackle the 
traditional Web’s weakness and move towards the furture Web that can satisfy the application 
revolution. Linked Data is a term refering to a way of publishing and interlinking structured 
data on the Web using Semantic Web technologies. In other words, Linked Data is simply about 
using the Web to create typed links between data from different resources. The research question 
is how to share data on the Web easily as document now. This paper presents some concepts and 
Linked Data technologies and show how to publish Linked Data which sets up a foundation for 
Semantic Web applications on the Web. 

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_va_trien_khai_linked_data_cho_cac_ung_dung_web_ng.pdf