Nghiên cứu ứng dụng sóng cao tần trong điều trị suy tĩnh mạch mạn tính chi dưới tại Bệnh viện Quốc tế Minh Anh

Bệnh nhân suy tĩnh mạch mạn tính chi dưới được điều trị bằng sóng cao tần tại Bệnh viện Quốc tế Minh Anh. Tỷ lệ nữ/nam là 3/1 (nữ chiếm 74,9%), tuổi trung bình là 56 ± 4,8 tuổi, phân độ CEAP cho thấy độ C2, C3 chiếm đa số. Tĩnh mạch hiển lớn tắc hoàn toàn trên siêu âm doppler kiểm tra sau 1 tháng chiếm tỷ lệ là 95%. Biến chứng: không có biến chứng huyết khối tĩnh mạch sâu, dị cảm 20 trường hợp (8%), xuất huyết khu trú vùng đùi 38 trường hợp (15%), xuất huyết rộng vùng đùi 1 trường hợp (0,4%). 226 trường hợp (90%) đau rất ít hoặc không đáng kể, 20 trường hợp (8%) đau trung bình và 5 trường hợp (2%) đau nhiều sau can thiệp. Đa số bệnh nhân đều hài lòng sau thủ thuật 96,2%

pdf 5 trang phuongnguyen 120
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu ứng dụng sóng cao tần trong điều trị suy tĩnh mạch mạn tính chi dưới tại Bệnh viện Quốc tế Minh Anh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu ứng dụng sóng cao tần trong điều trị suy tĩnh mạch mạn tính chi dưới tại Bệnh viện Quốc tế Minh Anh

Nghiên cứu ứng dụng sóng cao tần trong điều trị suy tĩnh mạch mạn tính chi dưới tại Bệnh viện Quốc tế Minh Anh
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 21 - THÁNG 5/2018 
 86 
NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG SÓNG CAO TẦN TRONG ĐIỀU TRỊ 
SUY TĨNH MẠCH MẠN TÍNH CHI DƯỚI TẠI BỆNH VIỆN QUỐC TẾ MINH ANH 
Nguyễn Hoài Nam*, Đào Duy Phương*, Trần Minh Bảo Luân* 
TÓM TẮT 
Bệnh nhân suy tĩnh mạch mạn tính chi 
dưới được điều trị bằng sóng cao tần tại Bệnh 
viện Quốc tế Minh Anh. Tỷ lệ nữ/nam là 3/1 
(nữ chiếm 74,9%), tuổi trung bình là 56 ± 4,8 
tuổi, phân độ CEAP cho thấy độ C2, C3 chiếm 
đa số. Tĩnh mạch hiển lớn tắc hoàn toàn trên siêu 
âm doppler kiểm tra sau 1 tháng chiếm tỷ lệ là 
95%. Biến chứng: không có biến chứng huyết 
khối tĩnh mạch sâu, dị cảm 20 trường hợp (8%), 
xuất huyết khu trú vùng đùi 38 trường hợp 
(15%), xuất huyết rộng vùng đùi 1 trường hợp 
(0,4%). 226 trường hợp (90%) đau rất ít hoặc 
không đáng kể, 20 trường hợp (8%) đau trung 
bình và 5 trường hợp (2%) đau nhiều sau can 
thiệp. Đa số bệnh nhân đều hài lòng sau thủ thuật 
96,2%. 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Suy tĩnh mạch mạn tính chi dưới là sự suy 
giảm chức năng đưa máu trở về tim của hệ thống 
tĩnh mạch chân, dẫn đến hiện tượng máu ứ đọng 
lại sẽ gây ra những biến đổi về huyết động và 
biến dạng tổ chức mô xung quanh, gây ra dãn lớn 
các tĩnh mạnh nông, viêm tĩnh mạch nông huyết 
khối hay huyết khối tĩnh mạch sâu. 
Suy tĩnh mạch có thể xảy ra ở bất kỳ tĩnh 
mạch nào trên cơ thể, nhưng trên thực tế phần lớn 
các trường hợp mắc phải đều xảy ra ở chi dưới do 
chịu ảnh hưởng của trọng lực khi người bệnh phải 
đứng nhiều. Suy tĩnh mạch mạn tính chi dưới 
thường ít nguy hiểm, nhưng gây cho người mắc 
bệnh cảm giác khó chịu, ảnh hưởng đến chất 
lượng cuộc sống. Đây là bệnh lý khá thường 
gặp ở các nước phương Tây, ước tính khoảng 
5- 30% dân số mắc bệnh, trong đó 70% là nữ giới 
và chiếm 2% ngân sách chi tiêu cho y tế. Bệnh 
hay gặp ở người có thói quen hay nghề nghiệp 
phải đứng hoặc ngồi lâu, phụ nữ mang thai sanh 
nở nhiều, béo phì và người lớn tuổi [5]. Tại 
Việt Nam, theo ghi nhận tại các phòng khám 
khoảng 62% bệnh nhân có biểu hiện của suy tĩnh 
mạch mạn tính chi dưới. [4] * 
Hiện nay, ngoài điều trị nội khoa như thay đổi 
lối sống, mang vớ áp lực, dùng các thuốc trợ tĩnh 
mạch và phẫu thuật stripping, còn áp dụng kỹ 
thuật ít xâm lấn mang lại hiệu quả cao đó là can 
thiệp tĩnh mạch bằng sóng cao tần gọi tắt là RFA 
(Radio Frequency Ablation). Nguyên lý của 
phương pháp này là nhiệt độ cao tác dụng trực 
tiếp lên thành tĩnh mạch (1200C) để làm teo và xơ 
hóa lòng tĩnh mạch, từ đó gây tắc tĩnh mạch hiển 
lớn và loại bỏ dòng trào ngược. Năm 1998, can 
thiệp tĩnh mạch hiển bằng sóng cao tần được giới 
thiệu đầu tiên tại Châu Âu [7]. Đến năm 2011, 
RFA tĩnh mạch hiển được ứng dụng lần đầu tại 
Việt Nam và bệnh viện quốc tế Minh Anh cũng 
đã thực hiện kỹ thuật này từ 2014 đến nay. Tuy 
nhiên, chưa có số liệu thống kê cụ thể về hiệu quả 
của việc ứng dụng phương pháp này tại đây. Vì 
vậy, chúng tôi tiến hành thực hiện nghiên cứu 
ứng dụng sóng cao tần trong điều trị suy tĩnh 
mạch chi dưới tại Bệnh viện Quốc tế Minh Anh. 
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU 
Thiết kế nghiên cứu: mô tả loạt ca. 
Đối tượng nghiên cứu: bệnh nhân được 
chẩn đoán suy tĩnh mạch mạn tính chi dưới và 
* Bệnh viện quốc tế Minh Anh 
Người chịu trách nhiệm khoa học: PGS.TS. Nguyễn Hoài Nam 
Ngày nhận bài: 01/05/2018 - Ngày Cho Phép Đăng: 20/05/2018 
Phản Biện Khoa học: PGS.TS. Đặng Ngọc Hùng 
 GS.TS. Lê Ngọc Thành 
NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG SÓNG CAO TẦN TRONG ĐIỀU TRỊ SUY TĨNH MẠCH MẠN TÍNH CHI DƯỚI  
 87
được điều trị bằng phương pháp đốt sóng cao tần 
tại Bệnh viện quốc tế Minh Anh từ tháng 
01/2014 đến tháng 01/2018. 
Tiêu chuẩn chọn bệnh: 
Bệnh nhân suy tĩnh mạch chi dưới có triệu 
chứng ảnh hưởng chất lượng cuộc sống và có 
dòng trào ngược tĩnh mạch hiển lớn trên siêu âm 
Doppler, đã được điều trị bằng thuốc trợ tĩnh 
mạch và vớ áp lực nhưng không cải thiện. [8] 
Suy tĩnh mạch chi dưới từ độ 2 trở lên theo 
phân loại lâm sàng CEAP. 
Tiêu chuẩn loại trừ: 
Huyết khối tĩnh mạch sâu. 
Tĩnh mạch hiển lớn ngoằn ngoèo, nằm sát da 
và/hoặc có huyết khối bên trong. 
Đường kính tĩnh mạch hiển lớn <3mm và/hoặc 
>12mm. [8] 
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Từ tháng 01/2014 đến 01/2018, có 251 bệnh 
nhân tại Bệnh viện quốc tế Minh Anh được chẩn 
đoán suy tĩnh mạch mạn tính chi dưới và can 
thiệp điều trị bằng sóng cao tần. 
Đặc điểm chung 
Giới tính: Nữ: 188 trường hợp (74,9%); Nam: 
63 trường hợp (25,1%) 
Tuổi: trung bình là 56 ± 4,8 tuổi (25 - 74), 
trong đó độ tuổi 40 - 60 chiếm 75%. 
Nghề nghiệp đứng lâu, ngồi nhiều (trên 6-8h/ 
ngày): 81% 
Bệnh nhân nữ sanh ≥ 3 con: 60%. 
Tiền sử gia đình suy tĩnh mạch hay huyết khối 
tĩnh mạch chi dưới: 28% 
Đặc điểm lâm sàng 
Phân loại lâm sàng CEAP: độ C2 chiếm tỷ lệ 
cao nhất là 76,9%. Độ C3, C4, C5, C6 chiếm tỷ 
lệ lần lượt là 14,33%, 7,17%, 1,2% và 0,4% 
Triệu chứng lâm sàng 
Triệu chứng Số bệnh nhân Tỷ lệ % 
Đau, nặng chân 251 100 
Vọp bẻ, chuột 128 50,1 
Dãn tĩnh mạch 89 35,5 
Phù chân 55 21,9 
Tê bàn chân 36 14,3 
Chàm hóa 21 8,4 
Loét chân 1 0,4 
Bảng 1. Phân bố bệnh nhân theo triệu chứng 
lâm sàng 
Kết quả can thiệp bằng đốt sóng cao tần 
Trong 251 trường hợp của chúng tôi: 
Nhóm 1: có 162 bệnh nhân được thực hiện 
can thiệp tĩnh mạch hiển lớn bằng sóng cao tần 
kết hợp lấy bỏ tĩnh mạch nông dãn tại chổ theo 
phương pháp Muller. 
Nhóm 2: có 89 bệnh nhân chỉ can thiệp TM 
hiển lớn bằng sóng cao tần đơn thuần. 
Kết quả RFA Nhóm 1 Nhóm 2 
Đau vết mổ: 
Đau ít 90% 58,4% 
Đau vừa 8% 30,2% 
Đau nhiều 2% 11,4% 
Tai biến-biến chứng: 
Dị cảm - tổn thương TK 8% 13,6% 
 Xuất huyết da 
XH khu trú 15% 81,3% 
XH lan rộng 0,4% 6,5% 
Thời gian nằm viện 
24 giờ 86,5% 47,9% 
24 - 48 giờ 13,5% 52,1% 
Bảng 2: kết quả sau thủ thuật RFA tĩnh mạch 
hiển lớn 
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 21 - THÁNG 5/2018 
 88 
Kết quả sau 01 tháng 
Hiệu quả xơ hóa: tắc hoàn toàn tĩnh mạch 
hiển lớn và không còn dòng chảy chiếm tỷ lệ 
cao nhất là 95%, có 5% tắc không hoàn toàn, 
còn dòng chảy nhỏ. 
Mức độ hài lòng của bệnh nhân: tương đối 
hài lòng chiếm tỷ lệ cao nhất là 75%, hoàn toàn 
hài lòng chiếm 21,2%, không hài lòng chiếm 
3,8%, không có trường hợp phản đối hay hối tiếc. 
IV. BÀN LUẬN 
* Đặc điểm chung: 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, giới nữ 
chiếm 74,9% nhiều hơn so với giới nam là 
25,1%. Kết quả này tương tự như y văn và 
cũng gần giống như ghi nhận của chúng tôi trong 
nghiên cứu trước đây nam chiếm 20%, nữ chiếm 
80% [4]. 
Về các yếu tố nguy cơ: số liệu của chúng tôi 
ghi nhận 81% số trường hợp có nghề nghiệp 
đứng lâu hay ngồi nhiều, bệnh nhân nữ sanh 
nhiều hơn 3 con chiếm 60% và tiền sử gia đình 
bệnh tĩnh mạch 28% trường hợp. Theo nghiên 
cứu của Nguyễn Trung Anh, cho thấy giới nữ 
chiếm ưu thế với 75,7%; trong đó yếu tố nguy 
cơ liên quan nghề nghiệp 87,1%, sanh hơn 3 
con 73,6% và tiền sử gia đình 30,7%. Nghiên 
cứu của chúng tôi cũng như tác giả trên đều cho 
thấy: nghề nghiệp đòi hỏi đứng lâu, ngồi nhiều 
và vấn đề thai sản ở nữ giới là yếu tố nguy cơ 
thường gặp nhất. [1] 
Nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận tuổi cao 
nhất là 74 tuổi, thấp nhất là 25 tuổi, trung bình là 
56 ± 4,8 tuổi, trong đó độ tuổi 40 - 60 chiếm 75%. 
So với nghiên cứu của Cao Việt Cường ghi nhận 
tuổi trung bình là 50,9 tuổi, cao nhất là 76 tuổi, 
thấp nhất là 25 tuổi [2], kết quả này cũng tương 
tự với báo cáo của nhiều tác giả khác. Điều này 
cho thấy, dù bệnh nhân có các yếu tố nguy cơ 
như: nghề nghiệp đòi hỏi phải đứng lâu, ngồi 
nhiều và nữ giới sinh nở nhiều lần chiếm tỷ lệ cao, 
nhưng bệnh vẫn chủ yếu gặp nhiều ở độ tuổi 40-
60 tuổi. Nên có thể cho rằng bệnh nhân có các yếu 
tố nguy cơ cần thời gian đủ dài nhất định mới biểu 
hiện bệnh. 
* Đặc điểm lâm sàng 
Hai triệu chứng là đau, nặng chân và vọp 
bẻ, chuột rút chiếm tỷ lệ cao nhất lần lượt là 
100% và 50,1%, kế đến là biểu hiện dãn tĩnh 
mạch nông ngoài da với tỷ lệ 35,5%. Trong khi 
đó, nghiên cứu về các đặc điểm lâm sàng trước 
đây của chúng tôi ghi nhận triệu chứng dãn tĩnh 
mạch chiếm tỷ lệ cao nhất là 100%, kế đến là 
đau, nặng mõi chân 86% và phù chân chiếm 
69,2% [4]. So với nghiên cứu của tác giả S. 
Subramonia cho thấy đau, nặng mõi chân luôn 
luôn hiện diện ở bệnh nhân đến khám bệnh và phù 
chân 97,9%.[9] 
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi và tác giả 
khác cho thấy tỷ lệ các triệu chứng thay đổi khá 
nhiều. Tuy nhiên, điểm chung vẫn là: triệu chứng 
đau, nặng mõi chân gặp nhiều nhất, kế đến có thể 
là biểu hiện dãn tĩnh mạch nông ngoài da và phù 
chân là ít nhất. 
* Kết quả can thiệp tĩnh mạch hiển lớn bằng 
sóng cao tần 
182 bệnh nhân ở nhóm chỉ thực hiện RFA tĩnh 
mạch hiển đa số đau ít không đáng kể 90% và chỉ 
2% đau nhiều. Trong khi 89 bệnh nhân được kết 
hợp phẫu thuật Muller lấy bỏ tĩnh mạch dãn tại 
chổ thì mức độ đau thay đổi đáng kể chỉ 58,4% 
đau ít và 30,2% đau vừa, đau nhiều tăng đáng kể 
đến 11,4%. 
Tác giả Lê Phi Long cũng như một số tác giả 
khác đều ghi nhận mức độ đau ít trên nhóm bệnh 
nhân RFA tĩnh mạch hiển đơn thuần chiếm tỷ lệ 
rất cao, nhóm kết hợp phẫu thuật Muller có mức 
độ đau trung bình và nhiều cao hơn; Và khi so 
sánh cả hai nhóm này với phẫu thuật stripping 
NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG SÓNG CAO TẦN TRONG ĐIỀU TRỊ SUY TĨNH MẠCH MẠN TÍNH CHI DƯỚI  
 89
kinh điển đều cho thấy mức độ đau ít hơn đáng kể 
(p < 0,05) [3]. Điều này có vẽ được xem như là 
hiển nhiên về mặt kỹ thuật thực hiện thủ thuật, 
tuy nhiên cũng đã được chứng minh thêm qua số 
liệu nghiên cứu của chúng tôi cũng như các tác 
giả khác. 
Tai biến-biến chứng Merchant R. F. [8] Lê Phi Long [3] Chúng tôi 
Huyết khối tĩnh mạch sâu 1% (3/286) 0% (0/70) 0% (0/251) 
Dị cảm 15% (43/286) 16,9%(23/70) 8%(4/251) 
Xuất huyết lan rộng mặt trong đùi 2,1% (6/286) 3% (2/70) 0,4% (1/251) 
Bảng 3: So sánh tai biến và biến chứng 
Rõ ràng can thiệp tĩnh mạch hiển lớn bằng 
sóng cao tần (RFA) với tai biến và biến chứng rất 
ít và nếu có cũng chỉ là các biến chứng nhẹ thoáng 
qua. Rất ít báo cáo cho thấy có biến chứng nguy 
hiểm đó là huyết khối tĩnh mạch chậu - đùi. Các 
báo cáo gần đây cũng như nghiên cứu của chúng 
tôi và tác giả Lê Phi Long cũng không ghi nhận 
biến chứng này. Nhờ siêu âm doppler khảo sát và 
tầm soát để lựa chọn bệnh nhân không có huyết 
khối trong lòng tĩnh mạch nông cũng như tĩnh 
mạch hiển và về mặt kỹ thuật thực hiện cần tuân 
thủ tuyệt đối chỉ đốt cách xa chỗ nối tĩnh mạch 
hiển - đùi 2cm. 
Ngoài ra, để hạn chế biến chứng dị cảm, xuất 
huyết thì việc tiêm dung dịch cách nhiệt phải 
được quan sát kỹ trên siêu âm, phải bao bọc được 
toàn bộ tĩnh mạch và tránh đâm thũng tĩnh mạch 
khi tiêm dung dịch cách nhiệt 
Về thời gian nằm viện sau thủ thuật, nghiên 
cứu của chúng tôi cũng như tác giả ElKaffas K. 
H. đều cho thấy nhóm RFA tĩnh mạch hiển đơn 
thuần có thời gian nằm viện ngắn hơn nhóm có 
kết hợp phẫu thuật Muller. Và khi tác giả này so 
sánh với nhóm được phẫu thuật stripping sự khác 
biệt này càng rõ ràng hơn (p=0,01). [7] 
Qua đó, chúng tôi nhận thấy với những ưu 
điểm vượt trội về kết quả sớm ngay sau thủ thuật 
của RFA so với phẫu thuật stripping kinh điển: ít 
đau, ít tai biến và biến chứng, rút ngắn thời gian 
nằm viện. Điều này góp phần làm giảm chi phí 
điều trị, nhanh chóng đưa bệnh nhân trở về hoạt 
động lao động hàng ngày và cũng góp phần làm 
giảm quá tải bệnh viện. 
Kết quả 01 tháng sau can thiệp tĩnh mạch 
hiển lớn 
Trong 251 trường hợp của chúng tôi, siêu âm 
doppler kiểm tra 1 tháng sau thủ thuật cho thấy 
95% tắc hoàn toàn tĩnh mạch hiển lớn, chỉ 5% 
còn dòng chảy nhỏ và không có hiện tượng trào 
ngược. Tác giả Lê Phi Long ghi nhận tắc tĩnh 
mạch hoàn toàn đạt 90% [3]. Tác giả Alan M. 
Dietzet ghi nhận 100% tắc tĩnh mạch hoàn toàn 
trong nghiên cứu của mình [5]. Kết quả của chúng 
tôi cũng như các tác giả trên cho thấy hiệu quả rất 
tốt của RFA trong việc loại bỏ dòng trào ngược 
tĩnh mạch hiển - đùi. 
Về mức độ hài lòng của bệnh nhân sau thủ 
thuật: chúng tôi ghi nhận 21,2% hoàn toàn hài 
lòng và 75% tương đối hài lòng, chỉ 3,8% không 
hài lòng vì vẫn còn dị cảm do tổn thương thần 
kinh cảm giác nông do phẫu thuật Mulller hay 
cảm giác căng tức dọc đường đi tĩnh mạch hiển. 
So với nghiên cứu của tác giả S Subramonia, ghi 
nhận số điểm trung bình về mức độ hài lòng ở 
nhóm RFA là 10 điểm cao hơn so với 8,7 điểm ở 
nhóm mổ Stripping (p=0,016) [9]; nghiên cứu của 
tác giả Lê Phi Long cũng cho thấy 76% bệnh nhân 
hài lòng [3]. Như vậy, can thiệp tĩnh mạch hiển 
bằng sóng cao tần (RFA) có hiệu quả cao về 
điều chỉnh rối loạn chức năng tĩnh mạch cũng 
như mức độ hài lòng của bệnh nhân. 
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 21 - THÁNG 5/2018 
 90 
V. KẾT LUẬN 
Phương pháp can thiệp tĩnh mạch hiển lớn 
bằng sóng cao tần (RFA) nhằm loại bỏ dòng trào 
ngược tĩnh mạch hiển - đùi có hiệu quả cao về 
mặt điều trị. Bên cạnh đó, thủ thuật được thực 
hiện chỉ với vết rạch da rất nhỏ nên ít đau, tính 
thẫm mỹ cao, an toàn và giúp cải thiện các triệu 
chứng lâm sàng, góp phần nâng cao chất lượng 
sống cho bệnh nhân nên đạt được tỷ lệ hài lòng 
của bệnh nhân khá cao. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Nguyễn Trung Anh (2016). "Nghiên cứu 
đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng, kết quả 
điều trị suy tĩnh mạch chi dưới mạn tính của 
phương pháp gây xơ bằng thuốc và Laser nội 
tĩnh mạch". Luận án Tiến sĩ Y học. Viện 
nghiên cứu Khoa học Y Dược lâm sàng 108. 
Hà Nội. 
2. Cao Việt Cường (2012). "Nghiên cứu ứng 
dụng phương pháp gây xơ tĩnh mạch bằng 
chất tạo bọt dưới hướng dẫn của siêu âm 
trong điều trị suy tĩnh mạch mạn tính chi 
dưới". Luận văn Thạc sĩ Y học. Trường 
Đại học Y Hà Nội. Hà Nội. 
3. Lê Phi Long (2011). "Đánh giá kết quả ứng 
dụng kỹ thuật đốt sóng cao tần trong điều trị 
dãn tĩnh mạch chân". Luận văn Thạc sĩ Y học. 
Đại học Y Dược TPHCM. TP Hồ Chí Minh. 
4. Nguyễn Hoài Nam (2012). "Nghiên cứu 
biểu hiện dịch tể học lâm sàng của bệnh 
suy tĩnh mạch chi dưới mạn tính". Tạp chí 
Y học Thành phố Hồ Chí Minh. 16(1). tr. 
202-205. 
5. Alan M. Dietzek (2007). "Endovenous 
Radiofrequency Ablation for the 
Treatment of Varicose Veins". Vascular. 
15(5). pp. 255-261. 
6. Jose I. Almeida and Jeffrey K. Raines 
(2012). "Varicose Veins". Haimovici’ 
Vascular Surgery Sixth Edition. pp. 1121-
1130. 
7. Khaled Helmy ElKaffas, et al (2010). 
"Great saphenous vein radiofrequency 
ablation versus standard stripping in the 
management of primary varicose veins—a 
randomized clinical trial". Angiology. 62(1). 
pp. 49-54. 
8. Robert F. Merchant and Robert F. 
Kistner (2009). "Radiofrequency treatment 
of the incompetent saphenous vein ". 
Handbook of venous disorders. 3rd edition. 
pp. 409-417. 
9. S. Subramonia and T. Lees (2010). 
"Randomized clinical trial of 
radiofrequency ablation or conventional 
high ligation and stripping for great 
saphenous varicose veins". British Journal of 
Surgery. 97. pp. 328–336. 

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_ung_dung_song_cao_tan_trong_dieu_tri_suy_tinh_mac.pdf