Nghiên cứu tỷ lệ và mức độ rối loạn chức năng tâm trương thất trái trên bệnh nhân cao tuổi bị đái tháo đường típ 2

Cơ sở: Rối loạn chức năng tâm trương thất trái là một yếu tố nguy cơ dẫn đến suy tim tâm trương, là một

yếu tố dự báo diễn tiến nặng của bệnh tim mạch và tử vong trong dân số chung. Tỷ lệ bệnh nhân đái tháo đường

(ĐTĐ) ngày càng gia tăng, trong đó có gia tăng theo tuổi. Ở người cao tuổi bị bệnh ĐTĐ, khả năng có ảnh

hưởng trên tim mạch rất cao, trong đó có chức năng tâm trương thất trái. Việt Nam chưa có nghiên cứu nào sử

dụng siêu âm Doppler mô để đánh giá chức năng tâm trương thất trái ở bệnh nhân cao tuổi bị bệnh ĐTĐ típ 2.

Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỷ lệ, mức độ rối loạn chức năng tâm tương thất trái trên bệnh nhân cao

tuổi bị đái tháo đường típ 2.

pdf 7 trang phuongnguyen 280
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu tỷ lệ và mức độ rối loạn chức năng tâm trương thất trái trên bệnh nhân cao tuổi bị đái tháo đường típ 2", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu tỷ lệ và mức độ rối loạn chức năng tâm trương thất trái trên bệnh nhân cao tuổi bị đái tháo đường típ 2

Nghiên cứu tỷ lệ và mức độ rối loạn chức năng tâm trương thất trái trên bệnh nhân cao tuổi bị đái tháo đường típ 2
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013 164
NGHIÊN CỨU TỶ LỆ VÀ MỨC ĐỘ RỐI LOẠN CHỨC NĂNG  
TÂM TRƯƠNG THẤT TRÁI TRÊN BỆNH NHÂN CAO TUỔI  
BỊ ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TÍP 2 
Nguyễn Văn Tân*, Trần Ngọc Mạnh* 
TÓM TẮT 
Cơ sở: Rối loạn chức năng tâm trương thất trái là một yếu tố nguy cơ dẫn đến suy tim tâm trương, là một 
yếu tố dự báo diễn tiến nặng của bệnh tim mạch và tử vong trong dân số chung. Tỷ lệ bệnh nhân đái tháo đường 
(ĐTĐ) ngày càng gia tăng, trong đó có gia tăng theo tuổi. Ở người cao tuổi bị bệnh ĐTĐ, khả năng có ảnh 
hưởng trên tim mạch rất cao, trong đó có chức năng tâm trương thất trái. Việt Nam chưa có nghiên cứu nào sử 
dụng siêu âm Doppler mô để đánh giá chức năng tâm trương thất trái ở bệnh nhân cao tuổi bị bệnh ĐTĐ típ 2. 
Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỷ lệ, mức độ rối loạn chức năng tâm tương thất trái trên bệnh nhân cao 
tuổi bị đái tháo đường típ 2. 
Phương pháp nghiên cứu: Tiền cứu, cắt ngang mô tả trên 227 bệnh nhân từ 60 tuổi trở lên đến khám tại 
trung tâm y khoa Medic  thành phố Hồ Chí Minh  từ  tháng 11/2010 đến  tháng 4/2011 và được chia  thành 2 
nhóm: nhóm nghiên cứu (n=150, nhóm I)  là những bệnh nhân ≥ 60 tuổi được chẩn đoán ĐTĐ típ 2 có hoặc 
không có bệnh tăng huyết áp, bệnh tim thiếu máu cục bộ đi kèm; nhóm chứng (n= 77, nhóm II) là những bệnh 
nhân ≥ 60 tuổi không có bệnh đái tháo đường và bệnh tim mạch, đồng ý làm siêu âm tim. 
Kết quả: Tuổi trung bình trong 2 nhóm nghiên cứu là 67,58 ± 6,6 (nhóm I), 68,16 ± 6,16 (nhóm II). LVMI 
(g/m2) trung bình trong nhóm I là 77,30 ± 20,69, nhóm II là 62,64 ± 14,65 (p < 0,001); vận tốc sóng A tăng 
(86,91 ± 10,5 ở nhóm I so với 82,92 ± 11,5 ở nhóm II với p = 0,012). Nhóm bệnh có sự giảm vận tốc sóng e’m 
(7,39 ± 1,95 so với 8,23 ± 1,95, p = 0,003) và tăng tỷ số E/e’m (9,75 ± 2,74 so với 8,86 ± 2,41, p = 0,013) so với 
nhóm chứng; còn e’l (9,68 ± 2,25 so với 10,24 ± 2,18 với p = 0,056) và tỷ số E/e’l (7,35 ± 1,89 so với 7,0 ± 1,6, p = 
0,16) thì không có sự khác biệt giữa 2 nhóm. Tỷ lệ rối loạn chức năng tâm trương thất trái qua khảo sát bằng 
siêu âm Doppler qua phổ van 2 lá ở nhóm I là 50% (n = 75), nhóm II là 35,1% (n = 27) với p = 0,032; bằng 
Doppler mô ở nhóm I là 68,7% (n = 103), nhóm II là 39% (n = 30) với p < 0,001. Tỷ lệ các mức độ rối loạn chức 
năng tâm trương ở nhóm I thường gặp nhất là độ I (rối loạn dạng thư giãn) với tỷ  lệ 50,3%, trong khi đó ở 
nhóm II có rối loạn dạng thư giãn là 33,8%, với p < 0,05. Không ghi nhận rối loạn chức năng tâm trương thất 
trái độ III ở cả hai nhóm nghiên cứu.  
Kết luận: Tỷ lệ rối loạn chức năng tâm trương thất trái ở nhóm bệnh nhân cao tuổi bị đái tháo đường típ 2 
cao hơn nhóm bệnh nhân cao tuổi không bị đái tháo đường típ 2 qua đánh giá bằng siêu âm Doppler phổ qua van 
2 lá và Doppler mô. Mức độ rối loạn chức năng tâm trương thất trái thường gặp nhất trên bệnh nhân cao tuổi bị 
đái tháo đường típ 2 là dạng rối loạn thư giãn. Siêu âm Doppler mô cải thiện khả năng phát hiện rối loạn chức 
năng tâm trương thất trái của siêu âm ở bệnh nhân cao tuổi bị bệnh đái tháo đường típ 2. 
Từ khóa: siêu âm tim, rối loạn chức năng tâm trương, người cao tuổi, đái tháo đường típ 2. 
* Bộ môn Lão khoa – ĐHYD TP.HCM 
Tác giả liên lạc: Ths.BS.Nguyễn Văn Tân   ĐT: 0903739273   Email: [email protected]  
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013  Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013  165
ABSTRACT 
THE RATE AND THE LEVEL OF LEFT VENTRICULAR DIASTOLIC DYSFUNCTION ON ELDERLY 
TYPE 2 DIABETES PATIENTS 
Nguyen Van Tan, Tran Ngoc Manh 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 3‐ 2013: 164 ‐ 170 
Background: Left ventricular diastolic dysfunction is a factor that leads to diastolic heart failure, as well as a 
factor  that  precedes  the  deterioration  of  heart  disease  and  death  in  the  population. The  prevalence  of  type  2 
diabetes  is  increasing,  in which  there  is  an  increase  being  proportionate  to  the  ageing.  In  the  elderly  type  2 
diabetes  patients,  the  probability  of  its  having  the  effects  on  the  heart  is  very  high,  in which  case  the  left 
ventricular diastolic  function  is  affected.  In Viet Nam,  there has not been  any  research using  tissue Doppler 
ultrasonography to evaluate the left ventricular function on the elderly type 2 diabetes patients. 
Objects: To  define  the  rate  and  level  of  left  ventricular  diastolic  dysfunction  on  elderly  type  2  diabetes 
patients. 
Research method: Prospectively, cross description of 227 patients from 60 years of age or above checked up 
at the Ho Chi Minh City Medic medical center over the period 11/2010 to 4/2011, divided into 2 groups: research 
group (n = 150, group  I) was  the patients ≥ 60 years old and who were diagnosed as  type 2 diabetes with or 
without hypertension, ischemic heart disease accompanied; control group (n = 77, group II) was the patients ≥60 
years old who were without diabetes and heart disease, and agreed to undergo ultrasonography.  
Results: The mean age  in the 2 groups was 67.58 ± 6.6 (group I), 68.16 ± 6.16 (group II). Mean LVMI 
(g/m2)  in group I was 77.30 ± 20.69,  in group II being 62.64 ± 14.65 (p < 0.001);  increased A wave velocity 
(86.91 ± 10.5 in group I compared to 82.92 ± 11.5 in group II, p = 0.012). Group I had the decrease in e’m wave 
velocity  (7.39 ± 1.95  compared  to 8.23 ± 1.95, p = 0.003)  and had  the  increase  in E/e’m  ratio  (9.75 ± 2.74 
compared to 8.86 ± 2.41, p = 0.013) compared to the control group; while e’l (9.68 ± 2.25 compared to 10.24 ± 
2.18, p= 0.056) and E/e’l ratio (7.35 ± 1.89 compared to 7.0 ± 1.6, p = 0.16) had no significant difference between 
2 groups. Left ventricular diastolic dysfunction rate on the investigation by Doppler ultrasonography over mitral 
valvular spectrum in the group I was 50% (n = 75), in group II being 35.1% (n = 27) with p = 0.032; by tissue 
Doppler ultrasonography in group I was 68.7% (n = 103), in group II being 39% (=30), p < 0.001. The most 
prevalent  diastolic  dysfunction  level  in  group  I was  level  I  (relax  type  dysfunction) with  the  rate  of  50.3%, 
meanwhile the rate of relax type dysfunction in group II was 33.8%, p < 0.05. There was no level III ventricular 
diastolic dysfunction in 2 groups. 
Conclusions: The rate of  left ventricular diastolic dysfunction  in the elderly type 2 diabetes patients was 
higher than those without type 2 diabetes by Doppler ultrasonography over mitral valvular spectrum and tissue 
Doppler ultrasonography. The most prevalent level of left ventricular diastolic dysfunction in the elderly type 2 
diabetes  patients  was  relax  type  dysfunction.  Tissue  Doppler  ultrasonography  improves  the  probability  of 
detection of left ventricular diastolic dysfunction in elderly type 2 diabetes patients. 
Key words: Doppler ultrasonography, diastolic dysfunction, elderly, type 2 diabetes. 
MỞ ĐẦU 
Rối  loạn  chức năng  tâm  trương  thất  trái  là 
một yếu tố nguy cơ dẫn đến suy tim tâm trương, 
là một yếu  tố dự báo diễn  tiến nặng  của bệnh 
tim mạch và  tử vong  trong dân số chung(1). Có 
nhiều nguyên nhân gây rối loạn chức năng tâm 
trương,  trong  số đó  có  đái  tháo  đường và  tuổi 
cao.  Siêu  âm  tim Doppler  là một  trong những 
công  cụ  đánh  giá  chức  năng  tâm  trương  khá 
chính  xác,  không  xâm  lấn,  chi  phí  không  cao. 
Đặc biệt là siêu âm Doppler mô (đo vận tốc vận 
động  vòng  van  2  lá)  đánh  giá  chức  năng  tâm 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013 166
trương  ít  phụ  thuộc  vào  tiền  tải  hơn  siêu  âm 
Doppler qui ước. Ngày nay, các khuyến cáo đã 
sử dụng siêu âm Doppler mô để đánh giá chức 
năng tâm trương thất trái và kết hợp với siêu âm 
Doppler qui ước để phân  loại mức  độ  rối  loạn 
chức năng  tâm  trương(2,5). Tỷ  lệ bệnh nhân  đái 
tháo đường (ĐTĐ) ngày càng gia tăng, trong đó 
có gia  tăng  theo  tuổi. Ở người cao  tuổi bị bệnh 
đái tháo đường, khả năng có ảnh hưởng trên tim 
mạch rất cao, trong đó có chức năng tâm trương 
thất trái. Ở Việt Nam chưa có nghiên cứu nào sử 
dụng  siêu  âm  Doppler mô  để  đánh  giá  chức 
năng tâm trương thất trái ở bệnh nhân cao tuổi 
bị bệnh ĐTĐ  típ 2. Xuất phát  từ những vấn đề 
đã nêu trên, chúng tôi sử dụng siêu âm Doppler 
mô kết hợp với siêu âm Doppler qui ước để thực 
hiện  nghiên  cứu  này  nhằm  xác  định  tỷ  lệ  và 
đánh giá mức độ rối loạn chức năng tâm trương 
thất  trái ở bệnh nhân cao  tuổi bị bệnh đái  tháo 
đường típ 2. 
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thiết kế nghiên cứu 
Tiền cứu, cắt ngang mô tả. 
Dân số nghiên cứu 
Bệnh nhân từ 60 tuổi trở  lên đến khám tại 
trung  tâm  y  khoa Medic  thành  phố Hồ  Chí 
Minh  từ  tháng  11/2010  đến  tháng  4/2011  và 
được chia thành 2 nhóm: nhóm nghiên cứu (n 
= 150, nhóm  I)  là những bệnh nhân  ≥ 60  tuổi 
được  chẩn  đoán ĐTĐ  típ 2  có hoặc không  có 
bệnh tăng huyết áp, bệnh tim thiếu máu cục bộ 
đi  kèm;  nhóm  chứng  (n  =  77,  nhóm  II)  là 
những bệnh nhân ≥ 60 tuổi không có bệnh đái 
tháo  đường  và  bệnh  tim mạch,  đồng  ý  làm 
siêu âm tim. Chúng tôi loại ra khỏi nghiên cứu 
những trường hợp thỏa tiêu chuẩn chọn bệnh 
nhưng có bệnh van tim nặng, bệnh cơ tim phì 
đại,  bệnh màng  ngoài  tim,  rối  loạn  nhịp  tim 
(nhịp  tim  nhanh,  rung  nhĩ,  cuồng  nhĩ),  phân 
suất  tống máu  (EF) < 50%, những bệnh nhân 
có cửa sổ siêu âm quá kém. 
Cỡ mẫu 
77 bệnh nhân khỏe mạnh không bệnh ĐTĐ 
và bệnh tim mạch, 150 bệnh nhân ĐTĐ típ 2 có 
hoặc  không  có  bệnh  tăng  huyết  áp,  bệnh  tim 
thiếu máu cục bộ đi kèm. 
Phương pháp thu thập số liệu 
Những bệnh nhân  thỏa  tiêu  chuẩn  đồng ý 
tham gia nghiên  cứu  sẽ  được  thăm  khám  lâm 
sàng,  đo  điện  tâm  đồ  và  làm  siêu  âm  tim. Về 
siêu  âm,  chúng  tôi  sử  dụng  máy  siêu  âm 
ALOKA PROSOUND £6 với các số liệu cần thu 
thập như chỉ số siêu âm tim TM: EF, khối lượng 
cơ thất trái (LVM), chỉ số Doppler xung đánh giá 
lưu lượng qua van hai lá: VE, VA, E/A, thời gian 
giảm  tốc  sóng E  (DT),  thời gian giãn  đồng  thể 
tích  (IVRT),  chỉ  số Doppler mô  sóng  xung  cơ 
tim: e’m, e’l (e’: vận tốc cơ tim đầu thời kỳ tâm 
trương; e’m: e’ medial = e’ septal, e’l: e’ lateral). 
Định nghĩa các biến số 
Tuổi là một biến số liên tục, được tính bằng 
cách  lấy năm bệnh nhân  tham gia nghiên  cứu 
trừ đi năm sinh, đơn vị tính là năm. Người cao 
tuổi là người từ 60 trở lên (theo WHO 1998). Cân 
nặng  là một biến số  liên  tục, được xác định  tại 
thời điểm khám, đơn vị đo là kilogram (kg). Chỉ 
số khối cơ thể (BMI) là một biến số liên tục, được 
tính  bằng  công  thức:  cân  nặng  x  10000/(chiều 
cao)2, đơn vị đo là kg/m2. 
Tăng huyết áp (THA)  là một biến số không 
liên tục, có 2 giá trị là có và không. Một người bị 
bệnh  THA  khi  có  tiền  căn  chẩn  đoán  bị  bệnh 
THA và đang dùng  thuốc hạ áp hoặc có huyết 
áp  tâm  thu  (HATThu)  ≥  140 mmHg  và  hoặc 
huyết áp  tâm  trương  (HATTr)  ≥ 90 mmHg ở 2 
lần  đo  cách nhau  ít nhất  30 phút và không  có 
dùng  chất  kích  thích  thần  kinh  trước  đó  (JNC 
VII). Huyết áp tâm thu, huyết áp tâm trương là 
những biến số  liên tục, được đo  lúc khám, đơn 
vị đo là mmHg. Đái tháo đường là một biến số 
không liên tục, có 2 giá trị là có hoặc không. Một 
người bị bệnh ĐTĐ típ 2 khi đã được chẩn đoán 
bị ĐTĐ  típ 2  trước  đó và  đang dùng  thuốc hạ 
đường  huyết  hoặc  có  đường  huyết  đói  ≥  126 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013  Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013  167
mg/dl  ở  2  lần  đo  khác nhau  và  có  những  đặc 
điểm của ĐTĐ típ 2(6). 
Bệnh  tim  thiếu máu  cục bộ  là một biến  số 
không  liên  tục,  có  2  giá  trị  là  không  và  có. 
Những  bệnh  nhân  được  xem  là  có  bệnh  tim 
thiếu máu cục bộ khi có  triệu chứng đau ngực 
điển hình  (đau  sau  xương  ức  với  tính  chất  và 
thời gian điển hình và xảy ra khi gắng sức hoặc 
stress  và  giảm  khi  nghỉ  hoặc  khi  sử  dụng 
nitroglycerine)  hoặc  có  triệu  chứng  đau  ngực 
không điển hình và có thay đổi đoạn ST‐T trên 
điện tim (ST chênh lên ≥ 2 mm ít nhất 2 chuyển 
đạo liên tiếp ở chuyển đạo trước ngực, ≥ 1 mm ít 
nhất 2 chuyển đạo ở chuyển đạo ngoại biên hoặc 
ST chênh xuống > 0,5 mm kiểu ngang hoặc lõm 
xuống trong cơn đau, và/ hoặc T đảo trên 3mm 
ở ít nhất 5 chuyển đạo), và/ hoặc có sóng Q của 
NMCT cũ (rộng ≥ 0,4 giây hoặc cao > 1/4 sóng R 
cùng chuyển đạo) và/hoặc bệnh nhân có tiền sử 
NMCT phải nằm viện và hoặc có bằng chứng bị 
thiếu máu cơ tim qua siêu âm tim gắng sức, điện 
tâm đồ gắng sức, chụp mạch vành, siêu âm tim 
có hình ảnh của NMCT cũ(8). 
Phân suất tống máu là một biến số liên tục, 
có  đơn  vị  đo  là %. Vận  tốc  sóng  đổ  đầy  tâm 
trương  sớm  (VE),  vận  tốc  sóng  đổ  đầy  tâm 
trương muộn (VA) là những biến số liên tục, có 
đơn vị đo là cm/s. Tỷ số E/A là một biến số liên 
tục, được  tính bằng công  thức VE/VA. Vận  tốc 
của  sóng vận  động  thành  cơ  tim  trong kỳ  tâm 
trương sớm (e’m, e’l)  là những biến số  liên tục, 
có đơn vị đo  là cm/s. Tỷ số E/e’  là một biến số 
liên tục, được tính bằng công thức VE/Ve’. 
Khối lượng cơ thất trái (LVM) là một biên số 
liên tục, được tính theo công thức qui ước Penn: 
LVM = 1,04 [(Dd+IVSd+LPWP)3‐Dd3]‐13,6 đơn vị 
tính bằng gram  (g). Chỉ  số  khối  lượng  cơ  thất 
trái  (LVMI)  là một  biến  số  liên  tục,  được  tính 
theo công  thức: LVMI = LVM/BSA, đơn vị  tính 
bằng g/m2. Dày  thất  trái  là một biến  số không 
liên tục, có 2 giá trị là có và không. Bệnh nhân có 
dày  thất  trái  khi  LVMI  >95  g/m2  ở  nữ,  LVMI 
>115 g/m2 ở nam(6). 
Phân độ rối loạn chức năng tâm trương dựa 
vào  siêu  âm  tim Doppler(9):  Độ  I:  rối  loạn  thư 
giãn (impaired relaxation), e’m <8 cm/s và E/A < 
0,8  hoặc DT  >  200 ms;  Độ  II:  giả  bình  thường 
(pseudonormal), e’m < 8 cm/s và 0,8  ≤ E/A  ≤ 2 
hoặc 160 ≤ DT ≤200 ms; Độ  III: đổ đầy hạn chế 
(restrictive filling), e’m  2 hoặc 
DT < 160 ms. 
Phân tích số liệu 
Các số  liệu sẽ được mã hóa, nhập và xử  lý 
bằng phần mềm SPSS 11.5. Các số liệu thu thập 
được trình bày dưới dạng  trung bình ± độ  lệch 
chuẩn đối với biến số liên tục. Biến số không liên 
tục được  trình bày dưới dạng  tỷ  lệ phần  trăm. 
Những biến số  liên  tục có phân phối chuẩn sử 
dụng  phép  kiểm  T,  ANOVA  để  so  sánh  các 
trung  bình,  các  biến  số  có  giá  trị  phân  phối 
không  chuẩn  thì  sử  dụng  phép  kiểm MANN‐
WHITNEY  WILCOXON,  KRUSKAL‐WALLIS 
để  so  sánh. Những  biến  số  không  liên  tục  thì 
dùng phép kiểm χ2 để so sánh. Các phép kiểm 
có ý nghĩa khi p < 0,05. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Đặc điểm chung của dân số nghiên cứu 
Từ  tháng 11/2010  đến  tháng 04/2011  chúng 
tôi thu thập được 150 bệnh nhân đái tháo đường 
típ  2  từ  60  tuổi  trở  lên  thỏa  tiêu  chuẩn  nhóm 
nghiên cứu (nhóm I = nhóm bệnh) và 77 người 
không bị bệnh tim mạch và ĐTĐ từ 60 tuổi trở 
lên thỏa tiêu chuẩn nhóm chứng (nhóm II). Một 
số  đặc  điểm  về  dịch  tễ  và  lâm  sàng  của  hai 
nhóm được trình bày trong bảng 1. 
Bảng 1. Đặc điểm dịch tễ, lâm sàng của 2 nhóm 
nghiên cứu: 
 Nhóm chứng 
n=77 
Nhóm ĐTĐ 
n=150 
p 
Tuổi (năm) 68,16±6,16 67,58±6,6 p > 0,05 
Giới (nam/nữ) 33/44 12/26 p > 0,05 
BMI (kg/m2) 20,45±2.8 22,89±2.4 p < 0,001
BSA (m2) 1,49±0.12 1,56±0.14 p = 0,009
HATThu (mmHg) 121,06±10.1 123,24±9.6 p > 0,05 
Thời gian ĐTĐ 
(năm) 
 3,66±0.63 
Tỷ lệ bệnh nhân 
thừa cân (%) 
3,9 15,8 p = 0,026
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013 168
 Nhóm chứng 
n=77 
Nhóm ĐTĐ 
n=150 
p 
Tỷ lệ dày thất trái 
(%) 
0 2,6 p > 0,05 
BMI  trung bình và  tỷ  lệ  thừa cân ở nhóm  I 
cao hơn nhóm II một cách có ý nghĩa thống kê. 
Tỷ  lệ  dày  thất  trái  ở  nhóm  I  cao  hơn  nhưng 
không có ý nghĩa thống kê. Tuy nhiên, tỷ lệ dày 
thất trái ở phân nhóm ĐTĐ là 2,6%, phân nhóm 
ĐTĐ+THA là 14,7% và phân nhóm ĐTĐ + THA 
+ bệnh tim thiếu máu cục bộ là 30%. 
Đặc  điểm  siêu  âm  tim  của  hai  nhóm 
nghiên cứu 
Bảng 2. Giá trị các thông số siêu âm Doppler phổ qua 
van 2 lá giữa 2 nhóm: 
 Nhóm chứng 
n = 77 
Nhóm ĐTĐ 
n = 150 
p 
LVM (g) 93±22,9 104±24,7 0,15 
LVMI (g/m2) 62,64± 14,65 77,30± 20,69 <0,001 
EF (%) 70,57± 7,02 72,51± 7,30 >0,05 
VE (cm/s) 69,13±11,2 67,96±10,2 0,44 
VA (cm/s) 82,92±11,5 86,91±10,5 0,012 
E/A 0,84±0,13 0,80±0,11 0,18 
DT (ms) 199,12±31,45 206,47±26,98 0,1 
IVRT (ms) 96,88±17,22 97,73±16,67 0,71 
Kết  quả phân  tích  cho  thấy  chỉ  có  vận  tốc 
sóng A tăng và tỷ lệ E/A giảm ở nhóm bệnh so 
với  nhóm  chứng  là  có  ý  nghĩa  thống  kê.  Các 
thông số VE, DT,  IVRT không khác biệt giữa 2 
nhóm (bảng 2). Nhóm bệnh của chúng tôi có sự 
giảm vận tốc sóng e’m và tăng tỷ số E/e’m so với 
nhóm chứng có ý nghĩa thống kê, còn e’l và tỷ số 
E/e’l  thì  không  có  sự  khác  biệt  giữa  2  nhóm 
(bảng 3). 
Bảng 3. Các thông số siêu âm Doppler mô giữa 2 
nhóm 
 Nhóm bệnh 
 (n = 150) 
Nhóm chứng 
(n = 77) 
p 
e’m 7,39±1,95 8,23±1,95 0,003 
e’l 9,68±2,25 10,24±2,18 0,056 
E/e’m 9,75±2,74 8,86±2,41 0,013 
E/e’l 7,35±1,89 7,0±1,6 0,16 
Đặc điểm rối loạn chức năng tâm trương 
Bảng 4. Tỷ lệ rối loạn chức năng tâm trương thất 
trái ở 2 nhóm 
 Nhóm bệnh 
(n = 150) 
Nhóm chứng 
(n = 77) 
p 
Siêu âm Doppler 
phổ qua van 2 lá 
50% (n = 75) 35,1% (n = 27) 0,032 
Siêu âm Doppler 
mô 
68,7% (n = 
103) 
39% (n = 30) <0,001
Tỷ lệ rối loạn chức năng tâm trương ở nhóm 
bệnh  cao  hơn  nhóm  chứng  dù  sử  dụng  tiêu 
chuẩn siêu âm Doppler phổ qua van 2 lá (50% so 
với  35,1%) hay  siêu  âm Doppler mô  (68,7%  so 
với 39%). Từ kết quả này cũng cho thấy siêu âm 
Doppler mô phát hiện  rối  loạn  chức năng  tâm 
trương nhiều hơn siêu âm Doppler phổ qua van 
2 lá ở cả nhóm bệnh (68,7% so với 50%) và nhóm 
chứng (39% so với 35,1%). 
Bảng 5. Tỷ lệ các mức độ rối loạn chức năng tâm 
trương 
 Nhóm bệnh 
(n = 150) 
Nhóm chứng 
(n = 77) 
p 
Bình thường 31,6% 61% <0,05
Độ I 50,3% 33,8% 
Độ II 18,1% 5,2% 
Độ III 0 0 
Qua số liệu trên cho thấy, ở cả 2 nhóm mức 
độ RLCNTTr chủ yếu là nhẹ (rối loạn thư giãn), 
không có ghi nhận trường hợp nào có RLCNTTr 
mức độ nặng. 
BÀN LUẬN 
Độ tuổi trung bình của nhóm nghiên cứu là 
68,85 ± 7,41, thấp nhất là 60 tuổi, cao nhất là 91 
tuổi. Độ  tuổi  trung bình  trong nghiên  cứu  của 
chúng  tôi hơi  thấp hơn nghiên cứu của  tác giả 
Châu Trần Phương Tuyến (70,3 ± 7,2) và tác giả 
Russo C (70,4 ± 9,6)(9,3), cao hơn tác giả Boyer JK 
(46,63 ± 7,7)( ). Điều này có thể do sự khác biệt ở 
địa điểm lấy mẫu. Nghiên cứu của tác giả Châu 
Trần Phương Tuyến và Russo, dân số chọn mẫu 
là  những  bệnh  nhân  nằm  viện,  những  bệnh 
nhân này có tuổi cao hơn nhóm nghiên cứu của 
chúng tôi có thể là vì tuổi càng cao thì tỷ lệ mắc 
nhiều  bệnh  và  bị  biến  chứng  của  những  bệnh 
mạn tính nhiều hơn nên tỷ lệ nằm viện cao hơn. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013  Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013  169
Nghiên cứu của chúng tôi cao hơn tác giả Boyer 
vì  tác  giả  chỉ  nghiên  cứu  ở  những  người  <60 
tuổi. 
LVMI  của  nhóm  nghiên  cứu  trung  bình  là 
77,3  ±  20,6  thấp  hơn  nghiên  cứu  của  tác  giả 
CTPTuyến( ).(110 ± 31,45) và tác giả Russo() (95,2 
± 22,2). Sự khác về LVMI sẽ làm ảnh hưởng đến 
sự khác biệt về tỷ lệ dày thất trái giữa các tác giả. 
Tỷ  lệ dày  thất  trái  trong nhóm nghiên cứu của 
chúng  tôi  là  12,67%.  THA  là  nguyên  nhân 
thường gặp gây phì đại thất trái. Thời gian THA 
càng  dài,  tỷ  lệ  dày  thất  trái  càng  cao.  Trong 
nghiên cứu của chúng  tôi,  tỷ  lệ dày  thất  trái  ở 
phân  nhóm  ĐTĐ  là  2,6%,  phân  nhóm 
ĐTĐ+THA là 14,7% và phân nhóm ĐTĐ + THA 
+ bệnh  tim  thiếu máu cục bộ  là 30%. Tỷ  lệ dày 
thất trái ở nhóm nghiên cứu của chúng tôi thấp 
hơn  so  với  nghiên  cứu  của  tác  giả CTPTuyến 
(39,8%) điều này có thể do sự khác biệt về  thời 
gian bị  ĐTĐ, mức  độ  kiểm  soát  đường huyết, 
mức độ kiểm soát huyết áp, do kỹ thuật và chủ 
quan của người làm siêu âm. 
Các chỉ số VE, VA, E/A, DT  là kết quả của 
siêu  âm Doppler  phổ  qua  van  2  lá,  phản  ánh 
chức năng tâm trương thất trái, sự thay đổi của 
những  chỉ  số  này  phản  ảnh  sự  thay  đổi  chức 
năng tâm trương theo các mức độ. Ở giai đoạn 
rối loạn chức năng tâm trương nhẹ (rối loạn thư 
giãn), khi  thất  trái  thư giãn  chậm  làm  cho  lưu 
lượng  đổ đầy  tâm  trương  sớm  chậm hơn bình 
thường, biểu hiện  trên siêu âm  là VE giảm, DT 
kéo dài. Do sự chậm  trễ  trong pha  tâm  trương 
sớm  làm  cho máu  ứ  lại nhĩ  trái  ở pha nhĩ  thu 
nhiều hơn bình thường, tim sẽ bù trừ bằng cách 
tăng co bóp nhĩ để tống lượng máu dư về thất, 
kết quả này cho  thấy  trên siêu âm  là VA  tăng. 
VE giảm, VA tăng kéo theo tỷ lệ E/A giảm (giai 
đoạn  I). Với  tiến  triển  của  rối  loạn  chức  năng 
tâm  trương  làm  cho  độ  chênh  áp  lực giữa nhĩ 
trái và thất trái ngày càng tăng lên, kết quả làm 
tăng  lưu  lượng  qua  van  2  lá  đầu  thời  kỳ  tâm 
trương, biểu hiện  trên  siêu  âm  là  tăng vận  tốc 
sóng E, điều này làm cho tỷ lệ E/A tăng dần trở 
lại  giống  với  lúc  chức  năng  tâm  trương  bình 
thường, DT cũng trở về bình thường (giai đoạn 
II  hay  giai  đoạn  giả  bình  thường).  Kết  quả 
nghiên cứu  trình bày ở bảng 2, chúng  tôi nhận 
thấy ở nhóm nghiên cứu có sự tăng vận tốc sóng 
A, tỷ lệ E/A giảm, điều này cho thấy bệnh nhân 
ĐTĐ có RLCNTTr kiểu rối loạn thư giãn. 
Ở phân nhóm ĐTĐ, chúng tôi nhận thấy có 
sự giảm vận tốc sóng E, tăng vận tốc sóng A và 
tỷ  lệ E/A  giảm, DT  kéo dài  (kiểu  rối  loạn  thư 
giãn)  so  với  nhóm  chứng.  Tuy  nhiên  sự  khác 
biệt này không có ý nghĩa (bảng 2), có  lẽ do cỡ 
mẫu ở phân nhóm ĐTĐ của chúng tôi còn thấp, 
cũng  có  thể  là  ĐTĐ  không  làm  thay  đổi  các 
thông số siêu âm Doppler phổ qua van 2  lá so 
với người cao tuổi. Do đó cần cỡ mẫu lớn hơn để 
xác định giả thuyết này. Kết quả của nghiên cứu 
chúng tôi cũng tương tự tác giả Russo. 
Kết quả nghiên cứu của chúng  tôi cho  thấy 
siêu âm Doppler mô phát hiện RLCNTTr nhiều 
hơn  Doppler  phổ  qua  van  2  lá  ở  cả  2  nhóm 
(bảng 4). Kết quả nghiên cứu của  tác giả Boyer 
JK cũng đã cho thấy điều này (63% so với 46%). 
Ở nhóm nghiên cứu thì e’m và tỷ lệ E/e’m giảm 
hơn nhóm chứng có ý nghĩa. Điều này cho thấy 
rằng  dù  tuổi  cao  thì  ĐTĐ,  THA  vẫn  có  ảnh 
hưởng  lớn  trên  các  thông  số  siêu  âm Doppler 
mô  đánh  giá  chức  năng  tâm  trương.  Kết  quả 
nghiên  cứu  của  tác  giả  Russo  cũng  tương  tự 
chúng tôi(). 
Hiện nay các khuyến cáo về siêu âm hướng 
dẫn  đánh  giá  chức  năng  tâm  trương  đều  sử 
dụng siêu âm Doppler mô để chẩn đoán và kết 
hợp với  siêu âm Doppler phổ qua van 2  lá  để 
phân loại mức độ RLCNTTr, điều này đã khẳng 
định lợi ích của siêu âm Doppler mô trong đánh 
giá chức năng tâm trương thất trái. 
Tỷ  lệ  RLCNTTr  của  nhóm  nghiên  cứu  là 
68,7%.  Nhìn  chung,  kết  quả  nghiên  cứu  của 
chúng  tôi  tương  tự  so với  tác giả C.T.PTuyến() 
(68,7%  so với 71%). Kết quả  của  chúng  tôi  cao 
hơn tác giả Russo (68,7% so với 60%) do sự khác 
biệt ở  tiêu chuẩn chẩn đoán RLCNTTr. Tác giả 
chọn mốc e’m <7 cm/s để chẩn đoán RLCNTTr 
còn chúng  tôi chọn mốc e’m < 8 cm/s. Kết quả 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013 170
phân nhóm ĐTĐ của chúng tôi tương tự kết quả 
nghiên  cứu  của  tác giả Boyer  JK  (63,2%  so với 
63%)  phải  chăng  tỷ  lệ RLCNTTr  ở  bệnh  nhân 
ĐTĐ  típ 2 ở người cao  tuổi không khác biệt so 
với người trẻ tuổi. Để khẳng định điều này cần 
có cỡ mẫu lớn hơn để so sánh. 
Về mức  độ RLCNTTr,  trong  nhóm  nghiên 
cứu chúng tôi tỷ lệ bệnh nhân rối loạn thư giãn 
(độ  I)  chiếm  50,3%  dân  số,  những  bệnh  nhân 
RLCNTTr  độ  II  chiếm 18,1% dân  số, không  có 
bệnh nhân nào bị rối loạn kiểu hạn chế, điều này 
phù hợp với những  thay  đổi  của  các  thông  số 
đánh  giá  chức  năng  tâm  trương  như  đã  phân 
tích ở trên chủ yếu là rối loạn thư giãn. 
Hạn chế của nghiên cứu 
Do những bệnh nhân trong nghiên cứu của 
chúng tôi có nguy cơ cao bị bệnh tim mạch, hơn 
nữa do điều kiện ở phòng khám nên chúng  tôi 
chỉ  phân  loại  những  bệnh  nhân  bị  bệnh  tim 
thiếu máu cục bộ chủ yếu dựa vào tiền sử nhồi 
máu  cơ  tim,  chụp mạch  vành  trước  đó,  triệu 
chứng khám hiện  tại và hình  ảnh  trên siêu âm 
nên có thể còn bỏ sót nhiều trường hợp. Do đó 
kết quả nghiên  cứu  của  chúng  tôi  có  thể khác 
biệt  so với những nghiên  cứu  của  tác giả khác 
khi họ giải quyết tốt yếu tố này. Kết quả siêu âm 
cũng chịu ảnh hưởng bởi người làm siêu âm. Do 
cơ sở chỉ có 1 máy siêu âm có chức năng TDI nên 
chúng tôi khó có thể so sánh tính khách quan về 
kết quả  siêu âm giữa người  lấy mẫu và bác  sĩ 
siêu âm khác. Tuy nhiên, chúng  tôi đã cố gắng 
tránh  sai  số  do  tính  chủ  quan  này  bằng  cách 
chúng  tôi  đã  chọn  người  có  kinh  nghiệm  làm 
siêu âm nhiều năm và đã từng làm nhiều trường 
hợp về siêu âm Doppler mô để thực hiện. 
KẾT LUẬN 
Tỷ lệ rối loạn chức năng tâm trương thất trái 
ở nhóm bệnh nhân cao  tuổi bị đái  tháo  đường 
típ 2 cao hơn nhóm bệnh nhân cao tuổi không bị 
đái tháo đường típ 2 qua đánh giá bằng siêu âm 
Doppler phổ qua van 2 lá và Doppler mô. Mức 
độ  rối  loạn  chức  năng  tâm  trương  thất  trái 
thường gặp nhất trên bệnh nhân cao tuổi bị đái 
tháo đường típ 2 là dạng rối loạn thư giãn. Siêu 
âm Doppler mô cải thiện khả năng phát hiện rối 
loạn chức năng tâm trương thất trái của siêu âm 
ở bệnh nhân cao tuổi bị bệnh đái tháo đường típ 
2. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Aurigemma  GP,  Gottdiener  JS,  Shemanski  L  ,  Gardin  J, 
Kitzman D  (2001),  ʺPredictive value of systolic and diastolic 
function  for  incident  congestive heart  failure  in  the  elderly: 
the Cardiovascular Health Studyʺ. J Am Coll Cardiol (37), pp. 
1042‐1048. 
2. Boyer JK, Thanigaraj S, et al. (2004). ʺPrevalence of Ventricular 
Diastolic  Dysfunction  in  Asymptomatic,  Normotensive 
Patients  With  Diabetes  Mellitusʺ.  American  Journal  of 
Cardiology, 93(1), pp. 870‐874. 
3. Châu Trần Phương Tuyến (2008). Khảo sát hình thái và chức 
năng tâm trương thất trái bằng siêu âm tim ở bệnh nhân đái 
tháo đường týp 2. Luận văn tốt nghiệp bác sĩ nội trú, Đại Học 
Y Dược TP.Hồ Chí Minh. 
4. Ho  YC  (2007),  ʺEchocardiographic Assessment  of Diastolic 
Function.  In:  Solomon  D  Scott,  ed.  Essential 
Echocardiographyʺ. New Jersey: Humana Press, pp. 119‐131. 
5. Hunt SA, Baker DW, Chin MH (2001), ʺACC/AHA guidelines 
for the evaluation and management of chronic heart failure in 
the  adult:  executive  summary.  A  report  of  the  American 
College  of  Cardiology/American  Heart  Association  Task 
Force on Practice Guidelines  (Committee  to Revise  the 1995 
Guidelines  for  the  Evaluation  and  Management  of  Heart 
Failure);  developed  in  collaboration  with  the  International 
Society for Heart and Lung Transplantation; endorsed by the 
Heart Failure Society of Americaʺ. Circulation, (104), pp. 2996‐
3007. 
6. Lang  RM,  Bierig  M,  et  al  (2005).  ʺRecommendations  for 
chamber quantification: a report from the American Society of 
Echocardiographyʹs  Guidelines  and  Standards  Committee 
and  the Chamber Quantification Writing Group, developed 
in  conjunction  with  the  European  Association  of 
Echocardiography,  a  branch  of  the  European  Society  of 
Cardiologyʺ. J Am Soc Echocardiogr, 18, p. 1440‐1463. 
7. Mai Thế Trạch  , Nguyễn Thy Khuê  (2003). Bệnh  Đái Tháo 
Đường. Nội Tiết Học Đại Cương. Nxb Y Học, tr. 375‐376. 
8. Phạm Nguyễn Vinh (2002). Siêu Âm Tim và Bệnh Học Tim 
Mạch. Nxb Y Học, tr. 161. 
9. Russo  C,  Zhezhen  J  (2010).  ʺEffect  of  diabetes  and 
hypertension on  left ventricular diastolic  function  in a high‐
risk population without evidence of heart diseaseʺ. European 
Journal of Heart Failure, 12, pp. 454‐461. 
10. Sherif  F,  Nagueh  MD,  et  al  (2009).  ʺGuidelines  And 
Standards:  Recommendations  for  the  Evaluation  of  Left 
Ventricular Diastolic Function by Echocardiographyʺ. Journal 
of the American Society of Echocardiography, 22(2), p. 127. 
Ngày nhận bài báo              01‐7‐2013 
Ngày phản biện nhận xét bài báo:  10‐7‐2013 
Ngày bài báo được đăng:  01‐8‐2013 

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_ty_le_va_muc_do_roi_loan_chuc_nang_tam_truong_tha.pdf