Nghiên cứu tỷ lệ rối loạn trầm cảm và các yếu tố liên quan ở học sinh Trung học Phổ thông tại thành phố Quảng Ngãi
Mở đầu: Trầm cảm ở học sinh THPT đang có xu hướng gia tăng và là nguy cơ của nhiều vấn đề nghiêm trọng như tình trạng lệ thuộc và lạm dụng các chất gây nghiện, ảnh hưởng đến kết quả học tập, tình trạng thất nghiệp và tự sát ở học sinh [12].
Mục tiêu: 1. Xác định tỷ lệ hiện mắc rối loạn trầm cảm (RLTC) ở học sinh trung học phổ thông tại thành phố Quảng Ngãi. 2. Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến RLTC ở đối tượng nghiên cứu
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu tỷ lệ rối loạn trầm cảm và các yếu tố liên quan ở học sinh Trung học Phổ thông tại thành phố Quảng Ngãi", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu tỷ lệ rối loạn trầm cảm và các yếu tố liên quan ở học sinh Trung học Phổ thông tại thành phố Quảng Ngãi
5 V IỆN SỨ C K HỎE CỘNG ĐỒNG SỐ 39- Tháng 7+8/2017 Website: yhoccongdong.vn NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TÓM TẮT Mở đầu: Trầm cảm ở học sinh THPT đang có xu hướng gia tăng và là nguy cơ của nhiều vấn đề nghiêm trọng như tình trạng lệ thuộc và lạm dụng các chất gây nghiện, ảnh hưởng đến kết quả học tập, tình trạng thất nghiệp và tự sát ở học sinh [12]. Mục tiêu: 1. Xác định tỷ lệ hiện mắc rối loạn trầm cảm (RLTC) ở học sinh trung học phổ thông tại thành phố Quảng Ngãi. 2. Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến RLTC ở đối tượng nghiên cứu. Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang, chọn mẫu xác suất tỷ lệ với kích thước quần thể. 2335 học sinh ở 6 trường THPT (16-20 tuổi) ở thành phố Quảng ngãi được chọn ngẫu nhiên theo phương pháp chọn mẫu xác suất tỷ lệ với kích thước quần thể. Sàng lọc RLTC bằng thang đo BDI-II, chẩn đoán xác định RLTC bằng khám lâm sàng dựa trên tiêu chuẩn chẩn đoán của ICD-10. Kết quả: Tỷ lệ hiện mắc RLTC ở học sinh là 9,2 %. Trong đó, RLTC mức độ nhẹ chiếm 3,7%, RLTC mức độ trung bình chiếm 3,0%, RLTC mức độ nặng chiếm 2,5%. Các yếu tố môi trường gia đình: Không sống chung với bố mẹ, bố mẹ không hòa thuận, bố mẹ thường xuyên la mắng đối với trẻ; môi trường nhà trường không thân thiện; áp lực học tập, mắc bệnh cơ thể mạn tính, không có thói quen tham gia hoạt động thể dục thể thao là những yếu tố liên quan đến RLTC ở học sinh. Kết luận: RLTC là phổ biến ở học sinh trung học phổ thông tại thành phố Quảng Ngãi. Phát triển chương trình chăm sóc sức khỏe tâm thần học đường, trong đó chương trình khám sàng lọc, phát hiện bệnh sớm và điều trị kịp thời RLTC ở học sinh là rất cần thiết. Từ khóa: Rối loạn trầm cảm, tỷ lệ hiện mắc, yếu tố liên quan, học sinh THPT. ABSTRACT PREVALENCE OF MAJOR DEPRESSIVE DISORDER AND ASSOCIATED FACTORS AMONG HIGH SCHOOL STUDENTS IN QUANG NGAI CITY, VIETNAM Introduction: Depression among high school students has been found to significantly increase the risk of many serious consequences including Nicotine dependence, alcohol dependence and abuse, Educational underachievement, unemployment, early parenthood and Suicide attempts [12]. Objectives: To examine the prevalence of Major depressive disorder (MDD) among high school students and its related factors in Quang Ngai city, Vietnam. Methodology: A total of 2335 students in 6 high schools (aged 16-20) in Quang Ngai city was selected by multi stage probability sampling method. The Beck Depression Inventory-II (BDI-II) was used for screening possible cases of MDD. Diagnosis of MDD was then undertaken by clinical psychiatrist using ICD-10 criteria. Multilogistic regression was undertaken for exploring associated factors of Major depressive disorder. Results: Prevalence of MDD among high school students was 9.2%, among which 3.7% was classified as mild depressive episode, 3.0% was moderate depressive episode and 2.5% was severe depressive episode. Students who were not currently lived with parents, who had parents usually quarreled, who perceived their school environments not friendly, those with high academic pressure, got chronic diseases and those without habit of playing sport activities were associated with more risk of major depressive episode. Conclusion: In this population, prevalence of MDD is common. Early detection and care delivery for high NGHIÊN CỨU TỶ LỆ RỐI LOẠN TRẦM CẢM VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN Ở HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TẠI THÀNH PHỐ QUẢNG NGÃI Nguyễn Thanh Quang Vũ1, Đoàn Vương Diễm Khánh2 1. Bệnh viện tâm thần tỉnh Quảng Ngãi 2. Khoa Y tế công cộng, Đại học Y dược Huế. Email: [email protected] Ngày nhận bài: 07/03/2017 Ngày phản biện: 15/03/2017 Ngày duyệt đăng: 05/05/2017 SỐ 39 - Tháng 7+8/2017 Website: yhoccongdong.vn6 2017JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE school students are urgently needed in Vietnam. Key words: Major depressive disorder, prevalence, related factors, high school students. I. ĐẶT VẤN ĐỀ RLTC chiếm một vị trí quan trọng trong ngành tâm thần học, là rối loạn thường gặp trong lĩnh vực thực hành của các thầy thuốc chuyên khoa tâm thần cũng như thầy thuốc đa khoa. Vai trò RLTC ngày càng quan trọng trong việc gây nên gánh nặng bệnh tật cho nhân loại. Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO dự báo đến năm 2020 trầm cảm đứng hàng thứ hai về nguyên nhân gây ảnh hưởng đến gánh nặng bệnh tật, tử vong của nhân loại và sẽ chiếm vị trí đầu tiên vào năm 2030 [12]. Theo ước tính của Tổ chức Y tế thế giới có 5% dân số thế giới có RLTC[12]. Ở Việt Nam, ngành tâm thần ước tính khoảng 3 – 5% dân số mắc RLTC [9]. Đặc biệt trong khoảng 20 năm trở lại đây tỷ lệ RLTC ở vị thành niên đang tăng lên nhanh chóng. Trẻ vị thành niên mắc RLTC sẽ gây ra sự bất an, xa lánh gia đình bạn bè và suy giảm sự tập trung trong học tập, dẫn đến cách ly xã hội tăng lên, đặc biệt làm tăng nguy cơ tự sát [4]. RLTC ở trẻ vị thành niên thường được chẩn đoán và điều trị muộn, còn rất nhiều trường hợp chưa được phát hiện, do vậy cần quan tâm phát hiện và điều trị RLTC ở lứa tuổi này và cần có nhiều công trình nghiên cứu để tìm hiểu các yếu tố nguy cơ RLTC ở trẻ vị thành niên để có thể phát hiện, dự phòng, điều trị có hiệu quả nhất, tránh thiệt thòi cho trẻ và gia đình trẻ [2]. Thành phố Quảng Ngãi là trung tâm chính trị, văn hóa, xã hội của tỉnh Quảng Ngãi. Trên địa bàn thành phố Quảng Ngãi có 06 trường trung học phổ thông, với tổng cộng 5744 học sinh. Công tác chăm sóc bảo vệ sức khỏe tâm thần cho các em học sinh trung học phổ thông tại thành phố Quảng Ngãi là rất cần thiết, đặc biệt thực hiện công tác dự phòng, phát hiện sớm RLTC trong lứa tuổi này sẽ giúp cho giảm các hậu quả do căn bệnh này gây ra cho các em cũng như gia đình và xã hội. Trong khi đó, đến nay chưa có nghiên cứu nào về RLTC ở học sinh trung học phổ thông trên địa bàn thành phố Quảng Ngãi. Chính vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài này với các mục tiêu sau: 1. Xác định tỷ lệ hiện mắc RLTC ở học sinh trung học phổ thông tại thành phố Quảng Ngãi. 2. Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến RLTC ở đối tượng nghiên cứu. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Đối tượng nghiên cứu Học sinh lớp 10, 11 và 12 của các trường THPT trên địa bàn thành phố Quảng Ngãi. 2.2. Phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu sử dụng thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang. Cỡ mẫu: Tính theo công thức ước tính tỷ lệ trong quần thể: p (1-p) n = Z2 (1-α/2) ---------------------- =2167 d2 - Trong đó: p: Tỷ lệ RLTC ở lứa tuổi từ 15 – 18, theo nghiên cứu của Trần Viết Nghị năm 1999 cho thấy tỷ lệ trẻ vị thành niên bị RLTC chiếm tỷ lệ từ 4,2% đến 8,35% [5]. Chúng tôi chọn p = 0,06 (6%). Z=1,96 với độ tin cậy 95%. d: là sai số tương đối, chúng tôi chọn sai số ở ngưỡng 1% = 0,01. Thay vào công thức tính được: n= 2167. Cỡ mẫu thực tế được chọn là 2335 đối tượng học sinh trung học phổ thông. Cách chọn mẫu: Thành phố Quảng Ngãi có 06 trường THPT với tổng số học sinh là 5744 học sinh với tổng cộng có 144 lớp. Chọn tất cả 06 trường vào mẫu theo nguyên tắc chọn mẫu xác suất tỷ lệ với kích thước quần thể, trường có số học sinh nhiều hơn sẽ có số học sinh được chọn vào mẫu lớn hơn. Phương pháp thu thập số liệu: Thu thập số liệu theo 02 phương pháp tự điền có hướng dẫn và thăm khám lâm sàng. - Thang ESSA (Educational Stress Scale Adolescents) để đánh giá áp lực học tập trẻ vị thành niên. Thang ESSA có 16 câu hỏi, mỗi câu hỏi có 5 mức độ từ hoàn toàn không đồng ý đến hoàn toàn đồng ý. Tổng số điểm của tất cả các câu trả lời được cộng lại và đánh giá như sau: < 50 điểm: căng thẳng học tập mức độ nhẹ; 50 - 58 điểm: căng thẳng học tập mức độ trung bình; ≥ 59 điểm: căng thẳng học tập mức độ nặng. - Phương pháp thăm khám lâm sàng được thực hiện ngay sau khi thực hiện xong phương pháp tự điền có hướng dẫn. Chẩn đoán xác định RLTC qua 2 giai đoạn: Sàng lọc bằng thang điểm BDI-II, những học sinh nào có số điểm ≥ 13 điểm sẽ được khám lâm sàng bởi bác sĩ chuyên ngành tâm thần để chẩn đoán xác định RLTC dựa theo tiêu chuẩn chẩn đoán RLTC của ICD-10. Xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 21.0. Mô hình hồi quy đa biến logistic được sử dụng để kiểm định các yếu tố liên quan đến RLTC ở học sinh. III. KẾT QUẢ 7 V IỆN SỨ C K HỎE CỘNG ĐỒNG SỐ 39- Tháng 7+8/2017 Website: yhoccongdong.vn NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 3.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu Tuổi thấp nhất là 16 tuổi và tuổi lớn nhất là 20 tuổi. Học sinh 18 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất (33,9%), với tuổi trung bình của mẫu nghiên cứu là 17 tuổi. Tỷ lệ nam giới chiếm 50,4% và nữ giới chiếm 49,6%. Số học sinh dân tộc Kinh chiếm đa số (92%). Đa số học sinh không theo tôn giáo nào (73,1%). Tỷ lệ học sinh lớp 12 trong mẫu nghiên cứu chiếm tỷ lệ cao nhất (35,1%), tiếp đến là học sinh lớp 11 (33,0%), học sinh lớp 10 chiếm tỷ lệ thấp nhất (31,9%). Nơi ở của học sinh trong nghiên cứu chủ yếu là ở thành thị, chiếm 64,5%. 3.2.Tỷ lệ hiện mắc RLTC ở đối tượng nghiên cứu Tỷ lệ hiện mắc RLTC chung Bảng 3.1. Tỷ lệ hiện mắc RLTC của đối tượng nghiên cứu Rối loạn trầm cảm Số lượng Tỷ lệ (%) Có 214 9,2 Không 2121 90,8 Tổng cộng 2335 100,0 Nhận xét: Tỷ lệ hiện mắc RLTC là 9,2% Tỷ lệ hiện mắc RLTC theo mức độ Bảng 3.2 Phân loại mức độ RLTC của đối tượng nghiên cứu Mức độ RLTC Số lượng Tỷ lệ (%) Không mắc RLTC 2121 90,8 RLTC mức độ nhẹ 86 3,7 RLTC mức độ trung bình 70 3,0 RLTC mức độ nặng 58 2,5 Tổng cộng 2335 100,0 Nhận xét: Trong các mức độ RLTC, RLTC nhẹ trong nghiên cứu chiếm tỷ lệ cao nhất (3,7%), tiếp đến là RLTC trung bình (chiếm 3,0%) và RLTC nặng chiếm tỷ lệ thấp nhất (2,5%). Tỷ lệ mức độ RLTC theo giới tính của đối tượng nghiên cứu. Ở nam giới, tỷ lệ RLTC nhẹ chiếm 2,6%, RLTC trung bình chiếm 2,6% và tỷ lệ RLTC nặng chiếm 2%. Ở nữ giới, tỷ lệ RLTC nhẹ chiếm 4,8%,RLTC trung bình chiếm 3,4% và tỷ lệ RLTC nặng chiếm 3%. Tỷ lệ mức độ RLTC theo khối lớp của đối tượng nghiên cứu. Ở khối lớp 10, tỷ lệ RLTC nhẹ chiếm 3,5%, RLTC trung bình 3,6% và RLTC nặng là 2,8%. Ở khối lớp 11, tỷ lệ RLTC nhẹ chiếm 3,3%, RLTC trung bình 2,3% và RLTC nặng là 2,6%. Ở khối lớp 12, tỷ lệ RLTC nhẹ chiếm 4,3%, RLTC trung bình 3% và RLTC nặng là 2,1%. Tỷ lệ mức độ RLTC theo nơi ở của đối tượng nghiên cứu. Ở thành thị, tỷ lệ RLTC nhẹ chiếm 3,3%, RLTC trung bình 2,9% và RLTC nặng là 2,5%. Ở nông thôn, tỷ lệ RLTC nhẹ chiếm 4,5%, RLTC trung bình 3,1% và RLTC nặng là 2,4%. 3.3. Các yếu tố liên quan đến RLTC ở đối tượng nghiên cứu Phân tích đơn biến: Các yếu tố liên quan đến RLTC bao gồm: Giới tính, hoàn cảnh kinh tế gia đình, hoàn cảnh sống hiện tại (sống chung với bố me hoặc không), môi trường gia đình (tình trạng hôn nhân của bố mẹ, nghề nghiệp của bố mẹ, mối quan hệ giữa bố mẹ, sự la mắng của bố mẹ. Môi trường nhà trường (mức độ thân thiện, kết quả học tập, áp lực học tập), môi trường bạn bè (số lượng bạn thân, mâu thuẫn xung đột với bạn bè, sự bắt nạt của bạn bè), bệnh mạn tính, thói quen giải trí, thói quen hoạt động thể dục. Phân tích đa biến: Bảng 3.3: Mô hình hồi quy đa biến logistic kiểm định các yếu tố liên quan đến RLTC ở học sinh THPT* Yếu tố liên quan OR 95% KTC p Hoàn cảnh sống hiện tại Sống chung với bố mẹ 1 Không sống chung với bố mẹ 1,6 1,1-2,3 <0,01 Mối quan hệ giữa bố mẹ Hòa thuận 1 Không hòa thuận/ hay cãi nhau 2,5 1,7-3,7 <0,001 Sự la mắng của bố mẹ Không thường xuyên 1 Thường xuyên 1,5 1.0-2,3 <0,05 Môi trường nhà trường Thân thiện 1 Không thân thiện 2,1 1,4-3,1 <0.01 Áp lực học tập Nhẹ /không 1 Trung bình/ nặng 2,4 1,6-3,5 <0,001 SỐ 39 - Tháng 7+8/2017 Website: yhoccongdong.vn8 2017JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE Yếu tố liên quan OR 95% KTC p Bệnh mạn tính Không 1 Có 2,3 1,7-3,2 <0,001 Thói quen hoạt động thể dục Có 1 Không 1,8 1,2-2,6 <0.01 * Lưu ý: Chỉ những biến số có liên quan có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) trong mô hình đa biến mới được trình bày trong bảng trên. Sau khi đã hiệu chỉnh với các yếu tố khác, kết quả cho thấy: Nhóm học sinh hiện không sống cùng bố mẹ có tỷ lệ RLTC cao hơn nhóm học sinh hiện đang sống cùng bố mẹ. Những học sinh mà bố mẹ sống không hòa thuận bị RLTC cao gấp 2,5 lần nhóm học sinh có bố mẹ sống hòa thuận. Những học sinh thường xuyên bị bố mẹ la mắng nguy cơ mắc RLTC cao gấp 1,5 lần nhóm học sinh không bị bố mẹ thường xuyên la mắng. Ngoài ra áp lực học tập, bệnh mạn tính và không có thói quen luyện tập thể dục là các yếu tố gia tăng nguy cơ mắc RLTC ở học sinh. IV. BÀN LUẬN 4.1. Tình hình RLTC ở học sinh THPT tại thành phố Quảng Ngãi 4.1.1. Tỷ lệ hiện mắc RLTC ở học sinh Tỷ lệ hiện mắc RLTC ở học sinh THPT thành phố Quảng Ngãi chiếm 9,2%. Theo các nghiên cứu của các tác giả ở trong nước, như báo cáo của Nguyễn Văn Thọ RLTC ở tuổi vị thành niên với tỷ lệ hiện mắc là 3- 8% [8], tương tự như nghiên cứu của Trần Viết Nghị năm 1999 cho thấy tỷ lệ mắc RLTC ở trẻ vị thành niên chiếm từ 4,2% đến 8,35% [5]. Theo Nguyễn Thọ năm 2005 tỷ lệ RLTC ở học sinh THPT là 10% [7]. Tuy nhiên cũng có nhiều tác giả ở trong nước cho thấy tỷ lệ RLTC ở vị thành niên và học sinh THPT là rất cao như tác giả Lã Thị Bưởi năm 2004 cho thấy tỷ lệ RLTC tại một trường học ở Việt Bắc theo thang Beck là 61,67%, tỷ lệ RLTC theo lâm sàng là 23,33% [1]. Theo nghiên cứu của Ngô Thanh Phong năm 2008 thì tỷ lệ RLTC ở học sinh THPT là 27,49% [6]. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu của Nguyễn Thọ, tuy nhiên cao hơn nghiên cứu của Trần Viết Nghị, nhưng thấp hơn so với các nghiên cứu của Ngô Thanh Phong và Lã Thị Bưởi. Sở dĩ có sự khác biệt này do nghiên cứu của chúng tôi là các đối tượng học sinh THPT tập trung hầu hết lứa tuổi từ 16 – 18 tuổi, trong khi đó nghiên cứu của Trần Viết Nghị tập trung ở lứa tuổi 15 tuổi ở tại cộng đồng, điều này phù hợp vì theo các số liệu nghiên cứu gần đây cho thấy tỷ lệ RLTC đang tăng lên ở tuổi dưới 20 và đặc biệt tỷ lệ RLTC tăng theo độ tuổi và sự phát triển của dậy thì. Riêng đối với các nghiên cứu của Lã Thị Bưởi và Ngô Thanh Phong thì RLTC cao hơn có lẽ do đối tượng nghiên cứu là học sinh dân tộc nội trú và khối lớp 12 của một trường THPT, riêng nghiên cứu của chúng tôi là các học sinh THPT (từ lớp 10 đến lớp 12) của thành phố. Theo các nghiên cứu của các tác giả nước ngoài, như theo Kaplan & Sadock tỷ lệ mắc RLTC chung của trẻ vị thành niên lớn tuổi ước tính nằm trong khoảng 14 – 25% [4]. Theo Vivek Bansal năm 2012 tại Ấn Độ cho thấy trong một thời điểm có đến 18,4% học sinh bị RLTC theo thang BECK [10]. Như vậy nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn các nghiên cứu trên do nghiên cứu của chúng tôi thực hiện đánh giá tỷ lệ hiện mắc và sử dụng đánh giá RLTC theo khám lâm sàng sau khi đã sàng lọc theo thang BDI-II. 4.1.2. Mức độ RLTC của đối tượng nghiên cứu Trong nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỷ lệ mắc RLTC theo các mức độ nhẹ, trung bình và nặng là 3,7%, 3% và 2,5%. Như vậy tỷ lệ mức độ RLTC nhẹ cao hơn mức độ RLTC trung bình và nặng, phù hợp với các nghiên cứu của các tác giả như: Nghiên cứu của Ngô Thanh Phong năm 2008 tỷ lệ RLTT ở học sinh THPT theo mức độ nhẹ 14,93%, trung bình 8,29% và nặng là 4,27% [6]. Theo nghiên cứu của Lã Thị Bưởi năm 2004 thì tỷ lệ RLTC tại một trường học ở Việt Bắc các mức độ nhẹ, trung bình, nặng theo thang Beck là 36,67%, 23,33%, 1,67% và theo lâm sàng là nhẹ 13,33%, trung bình 10% [1]. Qua so sánh trên cho thấy tỷ lệ mắc RLTC mức độ nặng thường chiếm tỷ lệ thấp nhất trong các mẫu nghiên cứu, điều này cũng phù hợp với nghiên cứu của Nguyễn Thọ năm 2005 tỷ lệ RLTC ở học sinh THPT là 10% trong đó RLTC nặng chiếm thấp nhất 1,30% [7]. Tỷ lệ mức độ RLTC nhẹ chiếm tỷ lệ cao trong học sinh THPT có ý nghĩa rất lớn, vì hầu hất các em học sinh khi có các biểu hiện RLTC nhẹ thường chủ quan không đi khám bệnh, hoặc tại các phòng khám nội khoa thường không phát hiện được. Bên cạnh đó mặc dù RLTC nặng chiếm tỷ lệ thấp nhất nhưng đây là RLTC có nguy cơ tự sát rất cao và gây ra các hậu quả nghiêm trọng cho bản thân, gia đình và xã hội. 4.2. Các yếu tố liên quan đến RLTC ở học sinh THPT tại thành phố Quảng Ngãi Hoàn cảnh sống Nghiên cứu này cho thấy tỷ lệ RLTC ở nhóm học sinh 9 V IỆN SỨ C K HỎE CỘNG ĐỒNG SỐ 39- Tháng 7+8/2017 Website: yhoccongdong.vn NGHIÊN CỨU KHOA HỌC không ở chung với bố mẹ cao gấp 1,6 lần tỷ lệ RLTC của nhóm ở chung với bố mẹ (8,2%) (p<0,05). Như vậy hoàn cảnh sống chung với bố mẹ có liên quan đến RLTC ở học sinh THPT. Theo nghiên cứu của RG Maharaj năm 2008 ở học sinh trung học từ 13 – 19 tuổi tại Trinidad, cho thấy tỷ lệ mắc RLTC ở học sinh không sống chung với bố mẹ cao gấp 1,5 lần so với học sinh ở chung với bố mẹ [11]. Học sinh trung học phổ thông thuộc lứa tuổi sau của vị thành niên, đây là giai đoạn các em học sinh có sự phát triển nhanh về thể chất và có xu hướng tự lập. Tuy nhiên trong giai đoạn này trẻ vẫn còn sự phụ thuộc của gia đình để dần hình thành nên nhân cách của người lớn. Trong giai đoạn này, trẻ thường gặp nhiều khó khăn trong việc trải nghiệm các sự kiện sang chấn trong cuộc sống. Chính vì thế, vai trò của sự quan tâm, động viên và hướng dẫn của gia đình là rất cần thiết và quan trọng. Tình trạng hòa thuận của bố mẹ Mối liên quan của tình trạng hòa thuận của bố mẹ đối với RLTC của chúng tôi phù hợp với nhiều nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước. Theo Vivek Bansal năm 2012 tại Ấn Độ cho thấy các yếu tố xung đột bố mẹ, mâu thuẫn của bố mẹ liên quan đến RLTC có ý nghĩa thống kê (p<0,05) [10]. Nghiên cứu của Cao Vũ Hùng năm 2010 cho thấy trẻ vị thành niên sống trong gia đình có cấu trúc không hoàn thiện, thường có các xung đột, mâu thuẫn có nguy cơ bị RLTC cao gấp 3,63 lần [2]. Tình trạng bố mẹ hay cãi nhau, không hòa thuận tác động đến RLTC thông qua cơ chế tăng căng thẳng gia đình, vì vậy cần có một môi trường gia đình lành mạnh sẽ đem lại lợi ích về sức khỏe tâm thần cho trẻ vị thành niên. Sự la mắng của bố mẹ Nghiên cứu này cho thấy tỷ lệ RLTC ở nhóm học sinh thường xuyên bị bố mẹ la mắng gấp 1,6 lần tỷ lệ RLTC của nhóm không thường xuyên bị bố mẹ la mắng, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Kết qủa nghiên cứu của Vivek Bansal năm 2012 tại Ấn Độ cũng cho thấy trẻ vị thành niên bị la mắng ở nhà liên quan đến RLTC có ý nghĩa thống kê (p<0,05) [10]. Theo nghiên cứu của RG Maharaj năm 2008 ở học sinh trung học từ 13 – 19 tuổi tại Trinidad cho thấy tỷ lệ mắc RLTC ở học sinh bị bố mẹ la mắng cao gấp 3,1 lần so với học sinh không bị bố mẹ la mắng, tỷ lệ mắc RLTC ở học sinh thường xuyên có cảm giác lo sợ bố mẹ cao gấp 3 lần so với học sinh không thường xuyên có cảm giác lo sợ bố mẹ [11]. Mức độ thân thiện với nhà trường Nghiên cứu này cho thấy đối tượng học sinh cảm thấy môi trường nhà trường không thân thiện có tỷ lệ RLTC cao gấp 2,1 lần nhóm học sinh cảm thấy môi trường nhà trường thân thiện (p<0,05). Như vậy sự thân thiện của nhà trường có liên quan đến RLTC ở học sinh THPT. Điều này có thể được lý giải là tại môi trường nhà trường khi các yếu tố mối quan hệ bạn bè, thầy cô không tích cực thì những học sinh sẽ có cảm giác không an tâm khi đến với môi trường nhà trường. Hơn nữa, hàng ngày học sinh phải trải qua hơn nửa ngày sống của chúng trong môi trường nhà trường, đồng thời ở môi trường này không những vừa có sự yêu cầu của nhà trường mà còn có sự gia tăng những đòi hỏi về mặt xã hội đối với học sinh. Chính những điều này sẽ gây áp lực rất lớn và gây nguy cơ mắc RLTC ở học sinh. Áp lực học tập Kết quả nghiên cứu của chúng tôi về mối liên quan giữa áp lực học tập và RLTC ở học sinh phù hợp với các nghiên cứu khác như: Nghiên cứu của tác giả Trần Viết Nghị ở mẫu học sinh trường dân tộc nội trú (tuổi từ 14 – 19 tuổi) cho thấy tỷ lệ RLTC cao có liên quan nhiều đến áp lực học tập [5]. Theo nghiên cứu của Cao Vũ Hùng năm 2010 cũng cho thấy có 57,5% trường hợp khởi phát bệnh có liên quan đến các biến cố về áp lực học tập và vấn đề học tập căng thẳng, thất bại trong thi cử làm tăng nguy cơ bị RLTC ở trẻ vị thành niên lên gấp 5 lần so với những trẻ khá [2]. Bệnh lý mạn tính Theo Bùi Quang Huy năm 2008 cho rằng RLTC chủ yếu có thể được phối hợp với các bệnh lý cơ thể mạn tính, có khoảng 20 – 25% trong số các bệnh nhân RLTC có một bệnh cơ thể (đái đường, nhồi máu cơ tim, ung thư...). RLTC chủ yếu có thể xuất hiện trong thời gian phát triển của bệnh cơ thể [3]. Nghiên cứu của chúng tôi nhận thấy sự khác biệt về tỷ lệ RLTC ở học sinh có bệnh mạn tính và nhóm học sinh không có bệnh mạn tính có ý nghĩa thống kê (p<0,05); nhóm học sinh có bệnh mạn tính có tỷ lệ RLTC cao gấp 2,3 lần nhóm học sinh không có bệnh mạn tính. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Cao Vũ Hùng năm 2010 cho thấy ở trẻ vị thành niên có tiền sử mắc bệnh tâm thần, thần kinh, các bệnh cơ thể nặng, mạn tính làm tăng nguy cơ mắc RLTC gấp 3,63 lần so với trẻ khỏe mạnh [2]. Thói quen tham gia thể dục thể thao Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỷ lệ RLTC ở nhóm học sinh không có thói quen tham gia thể dục thể thao cao hơn nhóm có thói quen tham gia thể dục thể thao (p<0,05). Điều này được lý giải như sau: thói quen luyện tập thể thao vừa nâng cao sức khỏe thể chất và tinh thần để chống đối với các nguy cơ gây RLTC, vừa còn có khả năng làm tăng tính tự tin do cơ chế sự gia tăng chấp nhận xã hội và thỏa mãn về hình thể, từ đó giúp trẻ đủ tự tin, tự chủ, đủ sức bảo vệ tránh được những căng thẳng, những áp lực và tác động của các sự kiện sang chấn của môi trường sống, SỐ 39 - Tháng 7+8/2017 Website: yhoccongdong.vn10 2017JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE giúp cho trẻ hạn chế được khả năng gây RLTC. V. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 5.1. Tỷ lệ hiện mắc RLTC ở học sinh trung học phổ thông tại thành phố Quảng Ngãi Tỷ lệ hiện mắc RLTC là 9,2%. Trong đó: RLTC mức độ nhẹ chiếm 3,7%. RLTC mức độ trung bình chiếm 3,0%. RLTC mức độ nặng chiếm 2,5%. 5.2. Các yếu tố liên quan đến RLTC ở học sinh trung học phổ thông tại thành phố Quảng Ngãi - Môi trường gia đình: Không sống chung với bố mẹ, bố mẹ không hòa thuận, bố mẹ thường xuyên la mắng đối với trẻ; môi trường nhà trường không thân thiện; áp lực học tập, mắc bệnh cơ thể mạn tính, không có thói quen tham gia hoạt động thể dục thể thao là những yếu tố liên quan đến RLTC ở học sinh trung học phổ thông (p<0,05). - Kết quả nghiên cứu này cung cấp bằng chứng quan trọng góp phần đánh giá tình hình RLTC ở các em học sinh. Phát triển chương trình chăm sóc sức khỏe tâm thần học đường, trong đó chương trình khám sàng lọc, phát hiện bệnh sớm và điều trị kịp thời RLTC ở học sinh là rất cần thiết. Ngoài ra, cần có chính sách xây dựng môi trường nhà trường thân thiện và môi trường gia đình hòa thuận, cải cách chương trình giáo dục, giảm tải áp lực học tập, tuyên truyền nâng cao nhận thức của học sinh về rối loạn trầm cảm, nhằm giúp các em có ý thức phòng bệnh và tổ chức nhiều hoạt động ngoại khóa như câu lạc bộ thể dục thể thao. TÀI LIỆU THAM KHẢO: 1. Lã Thị Bưởi và cộng sự (2004), "Trầm cảm ở thanh thiếu niên dân tộc thiểu số", Nội san tâm thần học, Số 6/2001, trang 88 - 91. 2. Cao Vũ Hùng(2010), Nghiên cứu rối loạn trầm cảm ở trẻ vị thành niên điều trị tại Bệnh viện Nhi Trung ương, Luận án tiến sỹ y học - Mã số 62.72.16.20. 3. Bùi Quang Huy(2008), "Trầm cảm", Nhà xuất bản Y học. 4. Kaplan & Sadock (2013), “Rối loạn cảm xúc và tự sát”, Tóm lược tâm thần học trẻ em và thanh thiếu niên, trang 242 - 262. 5. Trần Viết Nghị; Nguyễn Văn Siêm (2001), "Nghiên cứu dịch tễ lâm sàng các rối loạn trầm cảm tại một số quần thể cộng đồng", Y học Việt Nam - Số 4/2002, trang 18 - 21. 6. Ngô Thanh Phong(2008), "Đánh giá tỷ lệ mắc bệnh trầm cảm của học sinh khối lớp 12 trường PTTH Nguyễn Trãi huyện Châu Đức - Bà Rịa Vũng Tàu", Kỷ yếu hội nghị khoa học trẻ lần thứ I về chăm sóc và điều trị bệnh tâm thần, trang 2-11. 7. Nguyễn Thọ và cộng sự (2005), "Khảo sát về vấn đề rối loạn phát triển tâm lý, hành vi và cảm xúc ở học sinh phổ thông", Kỷ yếu công trình nghiên cứu khoa học - Bệnh viện Tâm thần Trung ương II, trang 48 - 55. 8. Nguyễn Văn Thọ (2007), "Trầm cảm trẻ em", Thông tin chuyên ngành: Các vấn đề liên quan đến tâm thần – Bệnh viện Tâm thần Trung ương II, trang 4 - 8. 9. Lương Hữu Thông(2005), “Trầm cảm”, Sức khỏe tâm thần - các rối loạn tâm thần thường gặp, trang 141- 204. 10. BansalVivek, Sunil Goyal, and Kalpana Srivastava (2012), Study of prevalence of depression in adolescent students of a public school, Industrial Psychiatry Journal, Vol 18(1), p. 43-46. 11. Maharaj R.G, F Alli, K Cumberbatch et al (2008), Depression among adolescents, aged 13–19 years, attending secondary schools in trinidadprevalence and associated factors, West Indian Medical Journal, Vol 57 (4), p. 352-359. 12. Marcus Marina, M. Taghi Yasamy, Mark van Ommeren et al (2012), Depression: A global public health concern, Depression: A Global Crisis World Mental Health Day, October 10 2012, p. 6 - 8.
File đính kèm:
nghien_cuu_ty_le_roi_loan_tram_cam_va_cac_yeu_to_lien_quan_o.pdf

