Nghiên cứu tỷ lệ rối loạn trầm cảm và các yếu tố liên quan ở học sinh Trung học Phổ thông tại thành phố Quảng Ngãi

Mở đầu: Trầm cảm ở học sinh THPT đang có xu hướng gia tăng và là nguy cơ của nhiều vấn đề nghiêm trọng như tình trạng lệ thuộc và lạm dụng các chất gây nghiện, ảnh hưởng đến kết quả học tập, tình trạng thất nghiệp và tự sát ở học sinh [12].

Mục tiêu: 1. Xác định tỷ lệ hiện mắc rối loạn trầm cảm (RLTC) ở học sinh trung học phổ thông tại thành phố Quảng Ngãi. 2. Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến RLTC ở đối tượng nghiên cứu

pdf 6 trang phuongnguyen 140
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu tỷ lệ rối loạn trầm cảm và các yếu tố liên quan ở học sinh Trung học Phổ thông tại thành phố Quảng Ngãi", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu tỷ lệ rối loạn trầm cảm và các yếu tố liên quan ở học sinh Trung học Phổ thông tại thành phố Quảng Ngãi

Nghiên cứu tỷ lệ rối loạn trầm cảm và các yếu tố liên quan ở học sinh Trung học Phổ thông tại thành phố Quảng Ngãi
5 
 V
IỆN
 SỨ
C K
HỎE CỘNG ĐỒNG
SỐ 39- Tháng 7+8/2017
Website: yhoccongdong.vn
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
TÓM TẮT
Mở đầu: Trầm cảm ở học sinh THPT đang có xu 
hướng gia tăng và là nguy cơ của nhiều vấn đề nghiêm 
trọng như tình trạng lệ thuộc và lạm dụng các chất gây 
nghiện, ảnh hưởng đến kết quả học tập, tình trạng thất 
nghiệp và tự sát ở học sinh [12].
Mục tiêu: 1. Xác định tỷ lệ hiện mắc rối loạn trầm 
cảm (RLTC) ở học sinh trung học phổ thông tại thành 
phố Quảng Ngãi. 2. Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến 
RLTC ở đối tượng nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng thiết kế nghiên 
cứu mô tả cắt ngang, chọn mẫu xác suất tỷ lệ với kích 
thước quần thể. 2335 học sinh ở 6 trường THPT (16-20 
tuổi) ở thành phố Quảng ngãi được chọn ngẫu nhiên theo 
phương pháp chọn mẫu xác suất tỷ lệ với kích thước quần 
thể. Sàng lọc RLTC bằng thang đo BDI-II, chẩn đoán xác 
định RLTC bằng khám lâm sàng dựa trên tiêu chuẩn chẩn 
đoán của ICD-10. 
Kết quả: Tỷ lệ hiện mắc RLTC ở học sinh là 9,2 %. 
Trong đó, RLTC mức độ nhẹ chiếm 3,7%, RLTC mức độ 
trung bình chiếm 3,0%, RLTC mức độ nặng chiếm 2,5%. 
Các yếu tố môi trường gia đình: Không sống chung với bố 
mẹ, bố mẹ không hòa thuận, bố mẹ thường xuyên la mắng 
đối với trẻ; môi trường nhà trường không thân thiện; áp 
lực học tập, mắc bệnh cơ thể mạn tính, không có thói quen 
tham gia hoạt động thể dục thể thao là những yếu tố liên 
quan đến RLTC ở học sinh.
Kết luận: RLTC là phổ biến ở học sinh trung học phổ 
thông tại thành phố Quảng Ngãi. Phát triển chương trình 
chăm sóc sức khỏe tâm thần học đường, trong đó chương 
trình khám sàng lọc, phát hiện bệnh sớm và điều trị kịp 
thời RLTC ở học sinh là rất cần thiết.
Từ khóa: Rối loạn trầm cảm, tỷ lệ hiện mắc, yếu tố 
liên quan, học sinh THPT.
ABSTRACT
PREVALENCE OF MAJOR DEPRESSIVE 
DISORDER AND ASSOCIATED FACTORS 
AMONG HIGH SCHOOL STUDENTS IN QUANG 
NGAI CITY, VIETNAM 
Introduction: Depression among high school students 
has been found to significantly increase the risk of many 
serious consequences including Nicotine dependence, alcohol 
dependence and abuse, Educational underachievement, 
unemployment, early parenthood and Suicide attempts 
[12].
Objectives: To examine the prevalence of Major 
depressive disorder (MDD) among high school students 
and its related factors in Quang Ngai city, Vietnam.
Methodology: A total of 2335 students in 6 high 
schools (aged 16-20) in Quang Ngai city was selected 
by multi stage probability sampling method. The Beck 
Depression Inventory-II (BDI-II) was used for screening 
possible cases of MDD. Diagnosis of MDD was then 
undertaken by clinical psychiatrist using ICD-10 criteria. 
Multilogistic regression was undertaken for exploring 
associated factors of Major depressive disorder.
Results: Prevalence of MDD among high school 
students was 9.2%, among which 3.7% was classified as 
mild depressive episode, 3.0% was moderate depressive 
episode and 2.5% was severe depressive episode. Students 
who were not currently lived with parents, who had 
parents usually quarreled, who perceived their school 
environments not friendly, those with high academic 
pressure, got chronic diseases and those without habit of 
playing sport activities were associated with more risk of 
major depressive episode.
Conclusion: In this population, prevalence of MDD 
is common. Early detection and care delivery for high 
NGHIÊN CỨU TỶ LỆ RỐI LOẠN TRẦM CẢM VÀ CÁC YẾU TỐ 
LIÊN QUAN Ở HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TẠI 
THÀNH PHỐ QUẢNG NGÃI
Nguyễn Thanh Quang Vũ1, Đoàn Vương Diễm Khánh2
1. Bệnh viện tâm thần tỉnh Quảng Ngãi 
2. Khoa Y tế công cộng, Đại học Y dược Huế. Email: [email protected]
Ngày nhận bài: 07/03/2017 Ngày phản biện: 15/03/2017 Ngày duyệt đăng: 05/05/2017
SỐ 39 - Tháng 7+8/2017
Website: yhoccongdong.vn6
2017JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE
school students are urgently needed in Vietnam.
Key words: Major depressive disorder, prevalence, 
related factors, high school students.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
RLTC chiếm một vị trí quan trọng trong ngành tâm 
thần học, là rối loạn thường gặp trong lĩnh vực thực hành 
của các thầy thuốc chuyên khoa tâm thần cũng như thầy 
thuốc đa khoa. Vai trò RLTC ngày càng quan trọng trong 
việc gây nên gánh nặng bệnh tật cho nhân loại. Theo Tổ 
chức Y tế thế giới (WHO dự báo đến năm 2020 trầm cảm 
đứng hàng thứ hai về nguyên nhân gây ảnh hưởng đến 
gánh nặng bệnh tật, tử vong của nhân loại và sẽ chiếm vị 
trí đầu tiên vào năm 2030 [12].
Theo ước tính của Tổ chức Y tế thế giới có 5% dân số 
thế giới có RLTC[12]. Ở Việt Nam, ngành tâm thần ước 
tính khoảng 3 – 5% dân số mắc RLTC [9]. Đặc biệt trong 
khoảng 20 năm trở lại đây tỷ lệ RLTC ở vị thành niên đang 
tăng lên nhanh chóng. Trẻ vị thành niên mắc RLTC sẽ gây 
ra sự bất an, xa lánh gia đình bạn bè và suy giảm sự tập 
trung trong học tập, dẫn đến cách ly xã hội tăng lên, đặc 
biệt làm tăng nguy cơ tự sát [4]. RLTC ở trẻ vị thành niên 
thường được chẩn đoán và điều trị muộn, còn rất nhiều 
trường hợp chưa được phát hiện, do vậy cần quan tâm phát 
hiện và điều trị RLTC ở lứa tuổi này và cần có nhiều công 
trình nghiên cứu để tìm hiểu các yếu tố nguy cơ RLTC ở 
trẻ vị thành niên để có thể phát hiện, dự phòng, điều trị có 
hiệu quả nhất, tránh thiệt thòi cho trẻ và gia đình trẻ [2].
Thành phố Quảng Ngãi là trung tâm chính trị, văn 
hóa, xã hội của tỉnh Quảng Ngãi. Trên địa bàn thành phố 
Quảng Ngãi có 06 trường trung học phổ thông, với tổng 
cộng 5744 học sinh. Công tác chăm sóc bảo vệ sức khỏe 
tâm thần cho các em học sinh trung học phổ thông tại 
thành phố Quảng Ngãi là rất cần thiết, đặc biệt thực hiện 
công tác dự phòng, phát hiện sớm RLTC trong lứa tuổi 
này sẽ giúp cho giảm các hậu quả do căn bệnh này gây ra 
cho các em cũng như gia đình và xã hội. Trong khi đó, đến 
nay chưa có nghiên cứu nào về RLTC ở học sinh trung học 
phổ thông trên địa bàn thành phố Quảng Ngãi. Chính vì 
vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài này với các mục 
tiêu sau: 1. Xác định tỷ lệ hiện mắc RLTC ở học sinh trung 
học phổ thông tại thành phố Quảng Ngãi. 2. Tìm hiểu một 
số yếu tố liên quan đến RLTC ở đối tượng nghiên cứu.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Học sinh lớp 10, 11 và 12 của các trường THPT trên 
địa bàn thành phố Quảng Ngãi.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu sử dụng thiết kế nghiên cứu mô tả cắt 
ngang.
Cỡ mẫu: Tính theo công thức ước tính tỷ lệ trong quần 
thể:
 p (1-p)
 n = Z2
(1-α/2)
---------------------- =2167
 d2
 - Trong đó: p: Tỷ lệ RLTC ở lứa tuổi từ 15 – 18, theo 
nghiên cứu của Trần Viết Nghị năm 1999 cho thấy tỷ lệ trẻ 
vị thành niên bị RLTC chiếm tỷ lệ từ 4,2% đến 8,35% [5]. 
Chúng tôi chọn p = 0,06 (6%). Z=1,96 với độ tin cậy 95%. 
d: là sai số tương đối, chúng tôi chọn sai số ở ngưỡng 1% 
= 0,01.
Thay vào công thức tính được: n= 2167.
Cỡ mẫu thực tế được chọn là 2335 đối tượng học sinh 
trung học phổ thông.
Cách chọn mẫu:
Thành phố Quảng Ngãi có 06 trường THPT với tổng 
số học sinh là 5744 học sinh với tổng cộng có 144 lớp. 
 Chọn tất cả 06 trường vào mẫu theo nguyên tắc chọn 
mẫu xác suất tỷ lệ với kích thước quần thể, trường có số 
học sinh nhiều hơn sẽ có số học sinh được chọn vào mẫu 
lớn hơn.
Phương pháp thu thập số liệu:
Thu thập số liệu theo 02 phương pháp tự điền có hướng 
dẫn và thăm khám lâm sàng.
- Thang ESSA (Educational Stress Scale Adolescents) 
để đánh giá áp lực học tập trẻ vị thành niên. Thang ESSA 
có 16 câu hỏi, mỗi câu hỏi có 5 mức độ từ hoàn toàn không 
đồng ý đến hoàn toàn đồng ý. Tổng số điểm của tất cả các 
câu trả lời được cộng lại và đánh giá như sau: < 50 điểm: 
căng thẳng học tập mức độ nhẹ; 50 - 58 điểm: căng thẳng 
học tập mức độ trung bình; ≥ 59 điểm: căng thẳng học tập 
mức độ nặng.
- Phương pháp thăm khám lâm sàng được thực hiện 
ngay sau khi thực hiện xong phương pháp tự điền có 
hướng dẫn. Chẩn đoán xác định RLTC qua 2 giai đoạn: 
Sàng lọc bằng thang điểm BDI-II, những học sinh nào 
có số điểm ≥ 13 điểm sẽ được khám lâm sàng bởi bác sĩ 
chuyên ngành tâm thần để chẩn đoán xác định RLTC dựa 
theo tiêu chuẩn chẩn đoán RLTC của ICD-10.
Xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 21.0. Mô hình hồi 
quy đa biến logistic được sử dụng để kiểm định các yếu tố 
liên quan đến RLTC ở học sinh.
III. KẾT QUẢ
7 
 V
IỆN
 SỨ
C K
HỎE CỘNG ĐỒNG
SỐ 39- Tháng 7+8/2017
Website: yhoccongdong.vn
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
3.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu 
Tuổi thấp nhất là 16 tuổi và tuổi lớn nhất là 20 tuổi. 
Học sinh 18 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất (33,9%), với tuổi 
trung bình của mẫu nghiên cứu là 17 tuổi. Tỷ lệ nam giới 
chiếm 50,4% và nữ giới chiếm 49,6%. Số học sinh dân tộc 
Kinh chiếm đa số (92%). Đa số học sinh không theo tôn 
giáo nào (73,1%).
Tỷ lệ học sinh lớp 12 trong mẫu nghiên cứu chiếm tỷ lệ 
cao nhất (35,1%), tiếp đến là học sinh lớp 11 (33,0%), học 
sinh lớp 10 chiếm tỷ lệ thấp nhất (31,9%). Nơi ở của học 
sinh trong nghiên cứu chủ yếu là ở thành thị, chiếm 64,5%.
3.2.Tỷ lệ hiện mắc RLTC ở đối tượng nghiên cứu 
Tỷ lệ hiện mắc RLTC chung 
Bảng 3.1. Tỷ lệ hiện mắc RLTC của đối tượng nghiên 
cứu
Rối loạn 
trầm cảm
Số lượng Tỷ lệ (%)
 Có 214 9,2
 Không 2121 90,8
Tổng cộng 2335 100,0
Nhận xét: Tỷ lệ hiện mắc RLTC là 9,2%
Tỷ lệ hiện mắc RLTC theo mức độ 
Bảng 3.2 Phân loại mức độ RLTC của đối tượng 
nghiên cứu
Mức độ RLTC Số lượng Tỷ lệ (%)
Không mắc RLTC 2121 90,8
RLTC mức độ nhẹ 86 3,7
RLTC mức độ 
trung bình
70 3,0
RLTC mức độ nặng 58 2,5
Tổng cộng 2335 100,0
Nhận xét:
Trong các mức độ RLTC, RLTC nhẹ trong nghiên cứu 
chiếm tỷ lệ cao nhất (3,7%), tiếp đến là RLTC trung bình 
(chiếm 3,0%) và RLTC nặng chiếm tỷ lệ thấp nhất (2,5%).
Tỷ lệ mức độ RLTC theo giới tính của đối tượng 
nghiên cứu.
Ở nam giới, tỷ lệ RLTC nhẹ chiếm 2,6%, RLTC trung 
bình chiếm 2,6% và tỷ lệ RLTC nặng chiếm 2%.
Ở nữ giới, tỷ lệ RLTC nhẹ chiếm 4,8%,RLTC trung 
bình chiếm 3,4% và tỷ lệ RLTC nặng chiếm 3%.
Tỷ lệ mức độ RLTC theo khối lớp của đối tượng 
nghiên cứu.
Ở khối lớp 10, tỷ lệ RLTC nhẹ chiếm 3,5%, RLTC 
trung bình 3,6% và RLTC nặng là 2,8%.
Ở khối lớp 11, tỷ lệ RLTC nhẹ chiếm 3,3%, RLTC 
trung bình 2,3% và RLTC nặng là 2,6%.
Ở khối lớp 12, tỷ lệ RLTC nhẹ chiếm 4,3%, RLTC 
trung bình 3% và RLTC nặng là 2,1%.
Tỷ lệ mức độ RLTC theo nơi ở của đối tượng 
nghiên cứu.
Ở thành thị, tỷ lệ RLTC nhẹ chiếm 3,3%, RLTC trung 
bình 2,9% và RLTC nặng là 2,5%.
Ở nông thôn, tỷ lệ RLTC nhẹ chiếm 4,5%, RLTC trung 
bình 3,1% và RLTC nặng là 2,4%.
3.3. Các yếu tố liên quan đến RLTC ở đối tượng 
nghiên cứu 
Phân tích đơn biến: Các yếu tố liên quan đến RLTC 
bao gồm: Giới tính, hoàn cảnh kinh tế gia đình, hoàn cảnh 
sống hiện tại (sống chung với bố me hoặc không), môi 
trường gia đình (tình trạng hôn nhân của bố mẹ, nghề 
nghiệp của bố mẹ, mối quan hệ giữa bố mẹ, sự la mắng của 
bố mẹ. Môi trường nhà trường (mức độ thân thiện, kết quả 
học tập, áp lực học tập), môi trường bạn bè (số lượng bạn 
thân, mâu thuẫn xung đột với bạn bè, sự bắt nạt của bạn 
bè), bệnh mạn tính, thói quen giải trí, thói quen hoạt động 
thể dục. 
Phân tích đa biến:
Bảng 3.3: Mô hình hồi quy đa biến logistic kiểm định 
các yếu tố liên quan đến RLTC ở học sinh THPT*
Yếu tố liên quan OR
95% 
KTC p
Hoàn cảnh sống hiện tại
Sống chung với bố mẹ 1
Không sống chung 
với bố mẹ 
1,6 1,1-2,3 <0,01
Mối quan hệ giữa bố mẹ 
Hòa thuận 1
Không hòa thuận/
hay cãi nhau 
2,5 1,7-3,7 <0,001
Sự la mắng của bố mẹ
Không thường xuyên 1
Thường xuyên 1,5 1.0-2,3 <0,05
Môi trường nhà trường
Thân thiện 1
Không thân thiện 2,1 1,4-3,1 <0.01
Áp lực học tập
Nhẹ /không 1
Trung bình/ nặng 2,4 1,6-3,5 <0,001
SỐ 39 - Tháng 7+8/2017
Website: yhoccongdong.vn8
2017JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE
Yếu tố liên quan OR
95% 
KTC p
Bệnh mạn tính
Không 1
Có 2,3 1,7-3,2 <0,001
Thói quen hoạt động thể dục 
Có 1
Không 1,8 1,2-2,6 <0.01
* Lưu ý: Chỉ những biến số có liên quan có ý nghĩa 
thống kê (p < 0,05) trong mô hình đa biến mới được trình 
bày trong bảng trên.
Sau khi đã hiệu chỉnh với các yếu tố khác, kết quả cho thấy:
Nhóm học sinh hiện không sống cùng bố mẹ có tỷ lệ 
RLTC cao hơn nhóm học sinh hiện đang sống cùng bố mẹ. 
Những học sinh mà bố mẹ sống không hòa thuận bị RLTC 
cao gấp 2,5 lần nhóm học sinh có bố mẹ sống hòa thuận. 
Những học sinh thường xuyên bị bố mẹ la mắng nguy cơ 
mắc RLTC cao gấp 1,5 lần nhóm học sinh không bị bố mẹ 
thường xuyên la mắng. Ngoài ra áp lực học tập, bệnh mạn 
tính và không có thói quen luyện tập thể dục là các yếu tố 
gia tăng nguy cơ mắc RLTC ở học sinh.
IV. BÀN LUẬN 
4.1. Tình hình RLTC ở học sinh THPT tại thành 
phố Quảng Ngãi 
4.1.1. Tỷ lệ hiện mắc RLTC ở học sinh 
Tỷ lệ hiện mắc RLTC ở học sinh THPT thành phố 
Quảng Ngãi chiếm 9,2%.
Theo các nghiên cứu của các tác giả ở trong nước, như 
báo cáo của Nguyễn Văn Thọ RLTC ở tuổi vị thành niên 
với tỷ lệ hiện mắc là 3- 8% [8], tương tự như nghiên cứu 
của Trần Viết Nghị năm 1999 cho thấy tỷ lệ mắc RLTC 
ở trẻ vị thành niên chiếm từ 4,2% đến 8,35% [5]. Theo 
Nguyễn Thọ năm 2005 tỷ lệ RLTC ở học sinh THPT là 
10% [7]. Tuy nhiên cũng có nhiều tác giả ở trong nước cho 
thấy tỷ lệ RLTC ở vị thành niên và học sinh THPT là rất 
cao như tác giả Lã Thị Bưởi năm 2004 cho thấy tỷ lệ RLTC 
tại một trường học ở Việt Bắc theo thang Beck là 61,67%, 
tỷ lệ RLTC theo lâm sàng là 23,33% [1]. Theo nghiên cứu 
của Ngô Thanh Phong năm 2008 thì tỷ lệ RLTC ở học sinh 
THPT là 27,49% [6]. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi 
phù hợp với nghiên cứu của Nguyễn Thọ, tuy nhiên cao 
hơn nghiên cứu của Trần Viết Nghị, nhưng thấp hơn so 
với các nghiên cứu của Ngô Thanh Phong và Lã Thị Bưởi. 
Sở dĩ có sự khác biệt này do nghiên cứu của chúng tôi là 
các đối tượng học sinh THPT tập trung hầu hết lứa tuổi từ 
16 – 18 tuổi, trong khi đó nghiên cứu của Trần Viết Nghị 
tập trung ở lứa tuổi 15 tuổi ở tại cộng đồng, điều này phù 
hợp vì theo các số liệu nghiên cứu gần đây cho thấy tỷ lệ 
RLTC đang tăng lên ở tuổi dưới 20 và đặc biệt tỷ lệ RLTC 
tăng theo độ tuổi và sự phát triển của dậy thì. Riêng đối 
với các nghiên cứu của Lã Thị Bưởi và Ngô Thanh Phong 
thì RLTC cao hơn có lẽ do đối tượng nghiên cứu là học 
sinh dân tộc nội trú và khối lớp 12 của một trường THPT, 
riêng nghiên cứu của chúng tôi là các học sinh THPT (từ 
lớp 10 đến lớp 12) của thành phố.
Theo các nghiên cứu của các tác giả nước ngoài, như 
theo Kaplan & Sadock tỷ lệ mắc RLTC chung của trẻ vị 
thành niên lớn tuổi ước tính nằm trong khoảng 14 – 25% 
[4]. Theo Vivek Bansal năm 2012 tại Ấn Độ cho thấy 
trong một thời điểm có đến 18,4% học sinh bị RLTC theo 
thang BECK [10]. Như vậy nghiên cứu của chúng tôi thấp 
hơn các nghiên cứu trên do nghiên cứu của chúng tôi thực 
hiện đánh giá tỷ lệ hiện mắc và sử dụng đánh giá RLTC 
theo khám lâm sàng sau khi đã sàng lọc theo thang BDI-II.
4.1.2. Mức độ RLTC của đối tượng nghiên cứu
Trong nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỷ lệ mắc 
RLTC theo các mức độ nhẹ, trung bình và nặng là 3,7%, 
3% và 2,5%. Như vậy tỷ lệ mức độ RLTC nhẹ cao hơn 
mức độ RLTC trung bình và nặng, phù hợp với các nghiên 
cứu của các tác giả như: Nghiên cứu của Ngô Thanh Phong 
năm 2008 tỷ lệ RLTT ở học sinh THPT theo mức độ nhẹ 
14,93%, trung bình 8,29% và nặng là 4,27% [6]. Theo 
nghiên cứu của Lã Thị Bưởi năm 2004 thì tỷ lệ RLTC tại 
một trường học ở Việt Bắc các mức độ nhẹ, trung bình, 
nặng theo thang Beck là 36,67%, 23,33%, 1,67% và theo 
lâm sàng là nhẹ 13,33%, trung bình 10% [1]. Qua so sánh 
trên cho thấy tỷ lệ mắc RLTC mức độ nặng thường chiếm 
tỷ lệ thấp nhất trong các mẫu nghiên cứu, điều này cũng 
phù hợp với nghiên cứu của Nguyễn Thọ năm 2005 tỷ 
lệ RLTC ở học sinh THPT là 10% trong đó RLTC nặng 
chiếm thấp nhất 1,30% [7].
Tỷ lệ mức độ RLTC nhẹ chiếm tỷ lệ cao trong học sinh 
THPT có ý nghĩa rất lớn, vì hầu hất các em học sinh khi có 
các biểu hiện RLTC nhẹ thường chủ quan không đi khám 
bệnh, hoặc tại các phòng khám nội khoa thường không 
phát hiện được. Bên cạnh đó mặc dù RLTC nặng chiếm 
tỷ lệ thấp nhất nhưng đây là RLTC có nguy cơ tự sát rất 
cao và gây ra các hậu quả nghiêm trọng cho bản thân, gia 
đình và xã hội.
4.2. Các yếu tố liên quan đến RLTC ở học sinh 
THPT tại thành phố Quảng Ngãi 
Hoàn cảnh sống
Nghiên cứu này cho thấy tỷ lệ RLTC ở nhóm học sinh 
9 
 V
IỆN
 SỨ
C K
HỎE CỘNG ĐỒNG
SỐ 39- Tháng 7+8/2017
Website: yhoccongdong.vn
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
không ở chung với bố mẹ cao gấp 1,6 lần tỷ lệ RLTC của 
nhóm ở chung với bố mẹ (8,2%) (p<0,05). Như vậy hoàn 
cảnh sống chung với bố mẹ có liên quan đến RLTC ở học 
sinh THPT. Theo nghiên cứu của RG Maharaj năm 2008 
ở học sinh trung học từ 13 – 19 tuổi tại Trinidad, cho thấy 
tỷ lệ mắc RLTC ở học sinh không sống chung với bố mẹ 
cao gấp 1,5 lần so với học sinh ở chung với bố mẹ [11]. 
Học sinh trung học phổ thông thuộc lứa tuổi sau của 
vị thành niên, đây là giai đoạn các em học sinh có sự phát 
triển nhanh về thể chất và có xu hướng tự lập. Tuy nhiên 
trong giai đoạn này trẻ vẫn còn sự phụ thuộc của gia đình 
để dần hình thành nên nhân cách của người lớn. Trong giai 
đoạn này, trẻ thường gặp nhiều khó khăn trong việc trải 
nghiệm các sự kiện sang chấn trong cuộc sống. Chính vì 
thế, vai trò của sự quan tâm, động viên và hướng dẫn của 
gia đình là rất cần thiết và quan trọng.
Tình trạng hòa thuận của bố mẹ
Mối liên quan của tình trạng hòa thuận của bố mẹ đối 
với RLTC của chúng tôi phù hợp với nhiều nghiên cứu của 
các tác giả trong và ngoài nước. Theo Vivek Bansal năm 
2012 tại Ấn Độ cho thấy các yếu tố xung đột bố mẹ, mâu 
thuẫn của bố mẹ liên quan đến RLTC có ý nghĩa thống kê 
(p<0,05) [10]. Nghiên cứu của Cao Vũ Hùng năm 2010 
cho thấy trẻ vị thành niên sống trong gia đình có cấu trúc 
không hoàn thiện, thường có các xung đột, mâu thuẫn có 
nguy cơ bị RLTC cao gấp 3,63 lần [2].
Tình trạng bố mẹ hay cãi nhau, không hòa thuận tác 
động đến RLTC thông qua cơ chế tăng căng thẳng gia 
đình, vì vậy cần có một môi trường gia đình lành mạnh sẽ 
đem lại lợi ích về sức khỏe tâm thần cho trẻ vị thành niên.
Sự la mắng của bố mẹ
Nghiên cứu này cho thấy tỷ lệ RLTC ở nhóm học sinh 
thường xuyên bị bố mẹ la mắng gấp 1,6 lần tỷ lệ RLTC 
của nhóm không thường xuyên bị bố mẹ la mắng, sự khác 
biệt này có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Kết qủa nghiên cứu 
của Vivek Bansal năm 2012 tại Ấn Độ cũng cho thấy trẻ 
vị thành niên bị la mắng ở nhà liên quan đến RLTC có ý 
nghĩa thống kê (p<0,05) [10]. Theo nghiên cứu của RG 
Maharaj năm 2008 ở học sinh trung học từ 13 – 19 tuổi 
tại Trinidad cho thấy tỷ lệ mắc RLTC ở học sinh bị bố 
mẹ la mắng cao gấp 3,1 lần so với học sinh không bị bố 
mẹ la mắng, tỷ lệ mắc RLTC ở học sinh thường xuyên có 
cảm giác lo sợ bố mẹ cao gấp 3 lần so với học sinh không 
thường xuyên có cảm giác lo sợ bố mẹ [11]. 
Mức độ thân thiện với nhà trường
Nghiên cứu này cho thấy đối tượng học sinh cảm thấy 
môi trường nhà trường không thân thiện có tỷ lệ RLTC cao 
gấp 2,1 lần nhóm học sinh cảm thấy môi trường nhà trường 
thân thiện (p<0,05). Như vậy sự thân thiện của nhà trường 
có liên quan đến RLTC ở học sinh THPT. Điều này có thể 
được lý giải là tại môi trường nhà trường khi các yếu tố mối 
quan hệ bạn bè, thầy cô không tích cực thì những học sinh 
sẽ có cảm giác không an tâm khi đến với môi trường nhà 
trường. Hơn nữa, hàng ngày học sinh phải trải qua hơn nửa 
ngày sống của chúng trong môi trường nhà trường, đồng 
thời ở môi trường này không những vừa có sự yêu cầu của 
nhà trường mà còn có sự gia tăng những đòi hỏi về mặt xã 
hội đối với học sinh. Chính những điều này sẽ gây áp lực rất 
lớn và gây nguy cơ mắc RLTC ở học sinh. 
Áp lực học tập
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi về mối liên quan 
giữa áp lực học tập và RLTC ở học sinh phù hợp với các 
nghiên cứu khác như: Nghiên cứu của tác giả Trần Viết 
Nghị ở mẫu học sinh trường dân tộc nội trú (tuổi từ 14 – 19 
tuổi) cho thấy tỷ lệ RLTC cao có liên quan nhiều đến áp lực 
học tập [5]. Theo nghiên cứu của Cao Vũ Hùng năm 2010 
cũng cho thấy có 57,5% trường hợp khởi phát bệnh có liên 
quan đến các biến cố về áp lực học tập và vấn đề học tập 
căng thẳng, thất bại trong thi cử làm tăng nguy cơ bị RLTC 
ở trẻ vị thành niên lên gấp 5 lần so với những trẻ khá [2]. 
Bệnh lý mạn tính
Theo Bùi Quang Huy năm 2008 cho rằng RLTC chủ 
yếu có thể được phối hợp với các bệnh lý cơ thể mạn tính, 
có khoảng 20 – 25% trong số các bệnh nhân RLTC có một 
bệnh cơ thể (đái đường, nhồi máu cơ tim, ung thư...). RLTC 
chủ yếu có thể xuất hiện trong thời gian phát triển của bệnh 
cơ thể [3]. Nghiên cứu của chúng tôi nhận thấy sự khác biệt 
về tỷ lệ RLTC ở học sinh có bệnh mạn tính và nhóm học 
sinh không có bệnh mạn tính có ý nghĩa thống kê (p<0,05); 
nhóm học sinh có bệnh mạn tính có tỷ lệ RLTC cao gấp 2,3 
lần nhóm học sinh không có bệnh mạn tính. Kết quả này 
phù hợp với nghiên cứu của Cao Vũ Hùng năm 2010 cho 
thấy ở trẻ vị thành niên có tiền sử mắc bệnh tâm thần, thần 
kinh, các bệnh cơ thể nặng, mạn tính làm tăng nguy cơ mắc 
RLTC gấp 3,63 lần so với trẻ khỏe mạnh [2]. 
Thói quen tham gia thể dục thể thao
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỷ lệ RLTC ở nhóm 
học sinh không có thói quen tham gia thể dục thể thao cao 
hơn nhóm có thói quen tham gia thể dục thể thao (p<0,05). 
Điều này được lý giải như sau: thói quen luyện tập thể 
thao vừa nâng cao sức khỏe thể chất và tinh thần để chống 
đối với các nguy cơ gây RLTC, vừa còn có khả năng làm 
tăng tính tự tin do cơ chế sự gia tăng chấp nhận xã hội và 
thỏa mãn về hình thể, từ đó giúp trẻ đủ tự tin, tự chủ, đủ 
sức bảo vệ tránh được những căng thẳng, những áp lực và 
tác động của các sự kiện sang chấn của môi trường sống, 
SỐ 39 - Tháng 7+8/2017
Website: yhoccongdong.vn10
2017JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE
giúp cho trẻ hạn chế được khả năng gây RLTC.
V. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 
5.1. Tỷ lệ hiện mắc RLTC ở học sinh trung học phổ 
thông tại thành phố Quảng Ngãi
Tỷ lệ hiện mắc RLTC là 9,2%. Trong đó: RLTC mức 
độ nhẹ chiếm 3,7%. RLTC mức độ trung bình chiếm 3,0%. 
RLTC mức độ nặng chiếm 2,5%.
5.2. Các yếu tố liên quan đến RLTC ở học sinh 
trung học phổ thông tại thành phố Quảng Ngãi
- Môi trường gia đình: Không sống chung với bố mẹ, 
bố mẹ không hòa thuận, bố mẹ thường xuyên la mắng đối 
với trẻ; môi trường nhà trường không thân thiện; áp lực 
học tập, mắc bệnh cơ thể mạn tính, không có thói quen 
tham gia hoạt động thể dục thể thao là những yếu tố liên 
quan đến RLTC ở học sinh trung học phổ thông (p<0,05).
- Kết quả nghiên cứu này cung cấp bằng chứng quan 
trọng góp phần đánh giá tình hình RLTC ở các em học 
sinh. Phát triển chương trình chăm sóc sức khỏe tâm thần 
học đường, trong đó chương trình khám sàng lọc, phát 
hiện bệnh sớm và điều trị kịp thời RLTC ở học sinh là 
rất cần thiết. Ngoài ra, cần có chính sách xây dựng môi 
trường nhà trường thân thiện và môi trường gia đình hòa 
thuận, cải cách chương trình giáo dục, giảm tải áp lực học 
tập, tuyên truyền nâng cao nhận thức của học sinh về rối 
loạn trầm cảm, nhằm giúp các em có ý thức phòng bệnh 
và tổ chức nhiều hoạt động ngoại khóa như câu lạc bộ thể 
dục thể thao. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Lã Thị Bưởi và cộng sự (2004), "Trầm cảm ở thanh thiếu niên dân tộc thiểu số", Nội san tâm thần học, Số 6/2001, 
trang 88 - 91.
2. Cao Vũ Hùng(2010), Nghiên cứu rối loạn trầm cảm ở trẻ vị thành niên điều trị tại Bệnh viện Nhi Trung ương, Luận 
án tiến sỹ y học - Mã số 62.72.16.20.
3. Bùi Quang Huy(2008), "Trầm cảm", Nhà xuất bản Y học.
4. Kaplan & Sadock (2013), “Rối loạn cảm xúc và tự sát”, Tóm lược tâm thần học trẻ em và thanh thiếu niên, trang 
242 - 262.
5. Trần Viết Nghị; Nguyễn Văn Siêm (2001), "Nghiên cứu dịch tễ lâm sàng các rối loạn trầm cảm tại một số quần thể 
cộng đồng", Y học Việt Nam - Số 4/2002, trang 18 - 21.
6. Ngô Thanh Phong(2008), "Đánh giá tỷ lệ mắc bệnh trầm cảm của học sinh khối lớp 12 trường PTTH Nguyễn Trãi 
huyện Châu Đức - Bà Rịa Vũng Tàu", Kỷ yếu hội nghị khoa học trẻ lần thứ I về chăm sóc và điều trị bệnh tâm thần, 
trang 2-11.
7. Nguyễn Thọ và cộng sự (2005), "Khảo sát về vấn đề rối loạn phát triển tâm lý, hành vi và cảm xúc ở học sinh phổ 
thông", Kỷ yếu công trình nghiên cứu khoa học - Bệnh viện Tâm thần Trung ương II, trang 48 - 55.
8. Nguyễn Văn Thọ (2007), "Trầm cảm trẻ em", Thông tin chuyên ngành: Các vấn đề liên quan đến tâm thần – Bệnh 
viện Tâm thần Trung ương II, trang 4 - 8.
9. Lương Hữu Thông(2005), “Trầm cảm”, Sức khỏe tâm thần - các rối loạn tâm thần thường gặp, trang 141- 204.
10. BansalVivek, Sunil Goyal, and Kalpana Srivastava (2012), Study of prevalence of depression in adolescent 
students of a public school, Industrial Psychiatry Journal, Vol 18(1), p. 43-46. 
11. Maharaj R.G, F Alli, K Cumberbatch et al (2008), Depression among adolescents, aged 13–19 years, attending 
secondary schools in trinidadprevalence and associated factors, West Indian Medical Journal, Vol 57 (4), p. 352-359. 
12. Marcus Marina, M. Taghi Yasamy, Mark van Ommeren et al (2012), Depression: A global public health concern, 
Depression: A Global Crisis World Mental Health Day, October 10 2012, p. 6 - 8. 

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_ty_le_roi_loan_tram_cam_va_cac_yeu_to_lien_quan_o.pdf