Nghiên cứu tình trạng kháng insulin ở bệnh nhân rối loạn glucose máu lúc đói bằng cách theo dõi glucose máu trước và sau truyền glucose-insulin-kaliclorua (GIK)

TÓM TẮT

Cơ sở: Rối loạn glucose máu lúc đói (RLGMLĐ) là yếu tố nguy cơ thường gặp của bệnh đái tháo đường týp 2.

Mục tiêu: Đánh giá tình trạng kháng insulin ở người rối loạn glucose máu lúc đói bằng phương pháp theo

dõi nồng độ glucose trước và sau truyền dung dịch glucosse – insulin ‐ kaliclorua.

Phương pháp nghiên cứu: Tiến cứu, mô tả cắt ngang.

Kết quả: Trong nghiên cứu này, 80 người RLGMLĐ có tuổi trung bình là 64,2 ± 11,1. Kết quả nghiên cứu

cho thấy: Giá trị trung bình của chỉ số kháng insulin G120/G0 là: 1,3 ± 0,6. Tỷ lệ kháng insulin của bệnh nhân

RLGMLĐ được xác định bằng phương pháp theo dõi nồng độ glucose máu trước và sau truyền dung dịch

glucose ‐ insulin – kaliclorua là 52,5%.

Kết luận: Bệnh nhân RLGMLĐ có tỷ lệ kháng insulin cao.

Từ khóa: Rối loạn glucose máu lúc đói, kháng insulin, truyền liên tục, glucose – insulin ‐ kaliclorua.

pdf 5 trang phuongnguyen 6340
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu tình trạng kháng insulin ở bệnh nhân rối loạn glucose máu lúc đói bằng cách theo dõi glucose máu trước và sau truyền glucose-insulin-kaliclorua (GIK)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu tình trạng kháng insulin ở bệnh nhân rối loạn glucose máu lúc đói bằng cách theo dõi glucose máu trước và sau truyền glucose-insulin-kaliclorua (GIK)

Nghiên cứu tình trạng kháng insulin ở bệnh nhân rối loạn glucose máu lúc đói bằng cách theo dõi glucose máu trước và sau truyền glucose-insulin-kaliclorua (GIK)
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013 
108
NGHIÊN CỨU TÌNH TRẠNG KHÁNG INSULIN Ở BỆNH NHÂN  
RỐI LOẠN GLUCOSE MÁU LÚC ĐÓI BẰNG CÁCH THEO DÕI  
GLUCOSE MÁU TRƯỚC VÀ SAU TRUYỀN GLUCOSE – INSULIN – 
KALICLORUA (GIK) 
Hoàng Ngọc Vân*, Nguyễn Đức Công* 
TÓM TẮT 
Cơ sở: Rối loạn glucose máu lúc đói (RLGMLĐ) là yếu tố nguy cơ thường gặp của bệnh đái tháo đường týp 2. 
Mục tiêu: Đánh giá tình trạng kháng insulin ở người rối loạn glucose máu lúc đói bằng phương pháp theo 
dõi nồng độ glucose trước và sau truyền dung dịch glucosse – insulin ‐ kaliclorua. 
Phương pháp nghiên cứu: Tiến cứu, mô tả cắt ngang. 
Kết quả: Trong nghiên cứu này, 80 người RLGMLĐ có tuổi trung bình là 64,2 ± 11,1. Kết quả nghiên cứu 
cho thấy: Giá trị trung bình của chỉ số kháng insulin G120/G0 là: 1,3 ± 0,6. Tỷ lệ kháng insulin của bệnh nhân 
RLGMLĐ được xác  định bằng phương pháp  theo dõi nồng  độ glucose máu  trước và  sau  truyền dung dịch 
glucose ‐ insulin – kaliclorua là 52,5%. 
Kết luận: Bệnh nhân RLGMLĐ có tỷ lệ kháng insulin cao. 
Từ khóa: Rối loạn glucose máu lúc đói, kháng insulin, truyền liên tục, glucose – insulin ‐ kaliclorua. 
ABSTRACT 
STUDY OF THE INSULIN RESISTANCE IN PATIENTS WITH IMPAIRED FASTING GLUCOSE BY 
MONITORING BLOOD GLUCOSE LEVELS WHEN INFUSING GLUCOSE ‐ INSULIN ‐ KALICLORUA 
Hoang Ngoc Van, Nguyen Đuc Cong 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 3‐ 2013: 108 ‐ 112 
Background: Impaired fasting glucose is the major factor of type 2 diabetes mellitus. 
Objective: To  evaluate  insulin  resistance  in patients with  impaired  fasting glucose by monitoring blood 
glucose levels before and after continuous infusion glucose – insulin – kaliclorua. 
Methods: A prospective descriptive cross section. 
Results: In this study, the mean age of 80 patients with impaired fasting glucose is 64.2 ± 11.1. The results 
of the study showed that: The average value of  the  index insulin resistance (G120/G0) were 1.3 ± 0.6, rates 
insulin resistance in patients with impaired fasting glucose were 52.5%. 
Conclusion: The ratio of insulin resistance in patients with impaired fasting glucose is high. 
Key words: impaired fasting glucose, insulin resistance, continuous infusion, glucose – insulin – kaliclorua. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Kháng insulin là yếu tố nguy cơ thường gặp 
trong một số bệnh  lý, bao gồm ĐTĐ týp 2, béo 
phì, tăng huyết áp, rối loạn lipid máu và những 
bệnh lý tim mạch khác. Trong thời gian gần đây 
kháng  insulin  đang  là  vấn  đề  thời  sự  không 
những trên thế giới mà cả ở Việt Nam. 
Có nhiều phương pháp xác định  tình  trạng 
* Bệnh viện Thống Nhất TP Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: BSCKII Hoàng Ngọc Vân  ĐT: 0988.881.789   Email: hoangvan.minh@yahoo.com  
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013  Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013  109
kháng  insulin  Trong  khi  đó  các  phương  pháp 
xác định tình trạng kháng  insulin hiện nay đều 
có những mặt hạn chế. Phương pháp trực tiếp – 
phương pháp kẹp insulin được cho là tiêu chuẩn 
vàng  trong  xác  định  tình  trạng  kháng  insulin. 
Nhưng  phương  pháp  này  khó  thực  hiện. 
Phương  pháp  này  chỉ  thực  hiện  được  trong 
phòng  thí  nghiệm,  khó  ứng  dụng  được  trong 
thực hành lâm sàng. 
Các  phương  pháp  gián  tiếp  (HOMA  1, 
HOMA  2, QUICKY) phần  lớn  xác  định  tình 
trạng kháng insulin dựa vào nồng độ glucose và 
insulin máu  lúc  đói. Nhưng  các phương pháp 
này  có những mặt hạn  chế nhất  định, kết quả 
phụ thuộc vào nồng độ insulin máu và glucose, 
trong khi đó insulin máu bình thường luôn luôn 
biến đổi. Ít có giá trị đánh giá tình trạng kháng 
insulin trên một người cụ thể. 
Xuất phát từ những lý do trên chúng tôi tiến 
hành  “nghiên  cứu  tình  trạng  kháng  insulin  ở 
người  rối  loạn  glucose  máu  lúc  đói  bằng 
phương  pháp  theo  dõi  glucose máu  trước  và 
sau  truyền  dung  dịch  glucose  –  insulin  ‐ 
kaliclorua” nhằm mục  tiêu: Đánh giá tình trạng 
kháng insulin ở bệnh nhân rối loạn glucose máu lúc 
đói. 
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Gồm 80 người rối  loạn glucose máu  lúc đói 
(RLGMLĐ) 
Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân 
Những  người  được  chẩn  đoán  RLGMLĐ 
đến khám và điều trị nội trú tại khoa nội Tổng 
hợp  B1  bệnh  viện  Thống  Nhất,  thời  gian  từ 
tháng 01/2010 ‐ 01/2011. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Người mắc bệnh đái tháo đường (ĐTĐ). 
Người bị  suy  tim,  suy gan,  suy  thận nặng, 
suy kiệt nặng, đang mắc các bệnh ác tính. 
Đang  trong bệnh cảnh cấp  tính như nhiễm 
khuẩn huyết, hôn mê do chuyển hóa hay do một 
nguyên nhân khác (ví dụ như nhồi máu cơ tim, 
hôn mê do tăng áp lực thẩm thấu...). 
Phụ nữ mang thai. 
Đang sử dụng một số thuốc ảnh hưởng đến 
chức  năng  tế  bào  β,  độ  nhạy  insulin  như 
corticoid,  thuốc  ức  chế  beta,  thuốc  tránh  thai 
trong vòng một tháng gần đây... 
Bệnh  nhân  mắc  các  bệnh:  to  đầu  chi, 
Cushing do thuốc, cường chức năng tuyến giáp. 
Bệnh nhân không  đồng ý  tham gia nghiên 
cứu. 
Tiêu  chuẩn  chẩn  đoán  rối  loạn  glucose 
máu lúc đói (RLGMLĐ)  
Chẩn đoán rối loạn glucose máu lúc đói dựa 
theo  tiêu  chuẩn  của  liên  đoàn  đái  tháo  đường 
quốc  tế  (IDF) năm 2005. Rối  loạn glucose máu 
lúc  đói  khi  glucose  huyết  tương  lúc  đói  ≥  5,6 
mmol/L (100mg/dL) và < 7 mmol/L (126mg/dL), 
phải dựa vào 2 lần thử trong vòng 3 ngày và tối 
đa là 1 tuần kể từ lần xét nghiệm đầu tiên(1). 
Đánh giá  tình  trạng kháng  insulin  ở người 
rối loạn glucose máu lúc đói bằng phương pháp 
theo dõi  nồng  độ  glucose  trước  và  sau  truyền 
dung dịch glucosse – insulin ‐ kaliclorua.  
Dung  dịch  dùng  để  đánh  giá  tình  trạng 
kháng  insulin  là: glucose 30% 250ml, kaliclorua 
10%  10ml  và  insulin Actrapid  10  đơn  vị. Thời 
gian truyền liên tục là 90 phút. 
Thời điểm để đánh giá kháng insulin là 120 
phút sau truyền dung dịch GIK. 
Công thức tính chỉ số kháng  insulin  là tỷ  lệ 
giữa  glucose máu  sau  truyền  ở  phút  120  với 
glucose máu trước truyền (chỉ số G120/G0). 
‐ Nếu chỉ số G120/G0 ≤ 0,89 là tăng nhậy cảm 
insulin. 
‐  Nếu  0,90  <  G120/G0  ≤  1,10  là  nhậy  cảm 
insulin bình thường. 
‐ Nếu  chỉ  số G120/G0  >  1,11  là  có  tình  trạng 
kháng insulin(2)  
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013 
110
Phương pháp nghiên cứu 
Thiết kế nghiên cứu 
Tiến cứu, mô tả cắt ngang. 
Nội dung nghiên cứu 
Hỏi  tiền  sử, khám  lâm  sàng,  đo  chiều  cao, 
cân nặng,  chỉ  số khối  cơ  thể  (BMI),  tính  chỉ  số 
vòng  bụng/vòng  mông  (WHR).  Xét  nghiệm 
glucose máu  lúc  đói,  HbA1c,  cholesterol  toàn 
phần, triglyceid, LDL – C, HDL – C. Định lượng 
insulin máu lúc đói. 
Các  đối  tượng  nghiên  cứu  được  tuần  tự 
làm các bước sau: Truyền tĩnh mạch dung dịch 
glucose 30% 250ml, insulin Actrapid 10 đơn vị, 
kaliclocua  10%  10ml,  truyền  qua  máy  đếm 
giọt,  thời  gian  truyền  90  phút.  Trước  khi 
truyền  lấy máu  xét  nghiệm  glucose  (G0),  sau 
khi  kết  thúc  truyền  xét  nghiệm  glucose  tại 
phút 120 (G120)(2). 
Thông qua tỷ lệ G120/G0 xác định được tình 
trạng kháng insulin và mức độ kháng insulin. 
Xử lý số liệu 
Các  thông  số nghiên cứu  được xử  lý  theo 
thuật toán thống kê ứng dụng trong y sinh học 
trên phần mềm SPSS version 16.0. 
So  sánh  sự  khác  biệt  giữa  các  biến  định 
tính bằng phép kiểm chi bình phương, với các 
biến định lượng bằng phép kiểm t ‐ test 
Ngưỡng giá trị p < 0,05 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Đặc điểm đối tương nghiên cứu 
Bảng 1. Tuổi trung bình của đối tượng nghiên cứu 
Nhóm
Tuổi 
Nhóm RLGMLĐ
(n = 80) 
Toàn bộ (năm) 64,2 ± 11,1
Nam (năm) 63,1 ± 11,8
Nữ (năm) 64,8 ± 10,9
p 0,531 
Nhận xét: Tuổi trung bình giữa nam và nữ là 
tương đương 
Bảng 2. Đặc điểm bệnh nền của đối tượng nghiên 
cứu 
Bệnh nền Tần số (n = 80) Tỷ lệ (%) 
Tăng HA 54 67,5
Thiếu máu cơ tim 38 47,5
Thừa cân, béo phì 47 58,8
Rối loạn chuyển hóa lipid 47 58,8
Đột quỵ 13 16,3
Bệnh lý dạ dày 8 10,0
Nhận xét: bệnh nền chủ yếu là THA (67,5%), 
tiếp theo là RLCHLP và thấp nhất là bệnh lý về 
dạ dày (10%).  
Bảng 3. Giá trị trung bình của chỉ số G120/G0 m 
RLGMLĐ (n = 80) Chỉ số G120/G0 p
Toàn nhóm 1,3 ± 0,6 
Tuổi <60 1,15 ± 0,45 
>0,05 
Tuổi ≥60 1,3 ± 0,52 
Nam
Nữ 
1,25 ± 0,45 
1,3 ± 0,5 >0,05 
Sự khác biệt của chỉ số G120/G0 giữa nam và 
nữ không có ý nghĩa (p >0,05). Sự khác biệt của 
chỉ số G120/G0 giữa nhóm tuổi <60 và nhóm tuổi 
≥60 không có ý nghĩa (p >0,05). 
Bảng 4. Tỷ lệ kháng insulin của bệnh nhân 
RLGMLĐ 
Chỉ số G120/G0 Nhóm RLGMLĐ
Kháng, n (%)
Không, n (%) 
42 (52,5)
38 (47,5) 
Nhận xét: Tỷ  lệ kháng  insulin ở bệnh nhân 
RLGMLĐ là 52,5%. 
BÀN LUẬN 
Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu 
Trong bảng 1 cho  thấy:  tuổi của bệnh nhân 
RLGMLĐ  là  64,3  ±  11,1  năm.  Tuổi  trung  bình 
của người RLGMLĐ  trong một  số nghiên  cứu: 
Theo  Lương  Văn  Một,  Nguyễn  Văn  Quýnh 
(2003) nghiên cứu tình trạng rối loạn lipid máu ở 
những người có rối loạn glucose máu lúc đói và 
rối  loạn dung nạp glucose,  tuổi  trung bình của 
người  rối  loạn  glucose máu  lúc  đói  là  56,5  ± 
4,3(3).Theo Nathan MD  và  cộng  sự  (2007),  tuổi 
trung bình của người  rối  loạn glucose máu  lúc 
đói  là  57  tuổi(4). Như  vậy  tuổi  trung  bình  của 
người rối loạn glucose máu lúc đói trong nghiên 
cứu của chúng tôi cao hơn các tác giả trên. Có lẽ 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013  Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013  111
do  những  đối  tượng  phục  vụ  của  bệnh  viện 
Thống Nhất  chủ  yếu  là  người  cao  tuổi  do  đó 
những người được chọn vào nghiên cứu có tuổi 
trung bình  cũng  cao hơn  các nghiên  cứu khác. 
Các tác giả nghiên cứu rối loạn glucose máu lúc 
đói trên các đối tượng có bệnh nền khác nhau. 
Bệnh nền của đối tượng nghiên cứu 
Trong  bảng  2  cho  thấy  bệnh  nền  của  đối 
tượng  nghiên  cứu  chủ  yếu  là  tăng  huyết  áp 
(67,5%),  thừa  cân  và  béo  phì  (58,8%),  rối  loạn 
lipid máu  (58,8%), bệnh mạch vànhĐiều này 
cho  thấy phần  lớn bệnh nền của các đối  tượng 
nghiên  cứu  đều  là  các  yếu  tố  nguy  cơ  cao  và 
chính yếu của bệnh đái tháo đường týp 2. Tất cả 
các yếu tố trên có nhiều nguyên nhân và cơ chế 
bệnh  sinh  khác  nhau  song  chúng  đều  có một 
điểm  chung  cơ  chế bệnh  sinh  đó  là  tình  trạng 
kháng insulin. 
Tình  trạng  kháng  insulin  ở  người 
RLGMLĐ 
Đánh giá  tình  trạng kháng  insulin  ở người 
rối loạn glucose máu lúc đói bằng phương pháp 
theo dõi  nồng  độ  glucose  trước  và  sau  truyền 
dung dịch glucosse – insulin ‐ kaliclorua 
Kháng insulin hay nhạy cảm insulin chỉ một 
tình  trạng  mà  có  thể  đo  được  bằng  nhiều 
phương pháp. Đa số các phương pháp được áp 
dụng hiện nay là phương pháp gián tiếp đều có 
sử dụng nồng độ insulin và glucose máu lúc đói. 
Các phương pháp này  đều  có những mặt hạn 
chế nhất định. Trong nghiên cứu này chúng tôi 
đánh giá  tình  trạng kháng  insulin  bằng phương 
pháp  theo  dõi  glucose  máu  trước  và  sau  truyền 
glucose – insulin – kaliclorua. 
Trong  bảng  3  cho  thấy  chỉ  số  G120/G0  của 
bệnh nhân RLGMLĐ  là  1,3  ±  0,6, không  có  sự 
khác biệt của G120/G0 giữa nam và nữ (p > 0,05). 
Trong  bảng  4  cho  thấy  có  42/80  bệnh  nhân 
(52,5%) có kháng insulin. 
Tỷ lệ kháng insulin ở người rối loạn glucose 
máu  lúc đói của chúng tôi thấp hơn một số  tác 
giả: Novoa  FJ,  Boronat M  (2005)  trong  nghiên 
cứu  Novoa  ở  người  Tây  Ban  Nha  rối  loạn 
glucose máu  lúc  đói  có  tỷ  lệ  kháng  insulin  là 
65%(5). Theo Carnevale Schianca GP (2003), trong 
nghiên  cứu  Carnevale  Schianca  ở  nguời 
Caucasian có rối loạn glucose máu lúc đói, tỷ lệ 
kháng insulin là 63%(6). 
Kết quả nghiên  cứu  của  chúng  tôi  có  tỷ  lệ 
kháng insulin thấp hơn các tác giả trên có lẽ do 
các  nghiên  cứu  trên  đều  áp  dụng  tiêu  chuẩn 
chẩn  đoán  rối  loạn  glucose  máu  lúc  đói  của 
WHO  năm  1999  (glucose  máu  lúc  đói  ≥ 
6,1mmol/L  và  <  7mmol/L). Và  các  tác  giả  trên 
đều xác định  tình  trạng kháng  insulin dựa vào 
công  thức HOMA  1. Các nghiên  cứu  trên  đều 
được thực hiện ở người châu Âu và người Mỹ. 
Phần  lớn các nghiên cứu thực hiện trên các đối 
tượng  thừa  cân  và  béo  phì. Và  có  lẽ  là  do  sự 
khác nhau về chủng  tộc, màu da và chế độ  ăn 
uống, sinh hoạt. 
KẾT LUẬN 
Qua  nghiên  cứu  80  bệnh  nhân  rối  loạn 
glucose máu  lúc đói chúng  tôi rút ra kết  luận 
sau: 
Chỉ số kháng insulin ‐ G120/G0 của bệnh nhân 
rối  loạn glucose máu  lúc  đói  là 1,3 ± 0,6. Tỷ  lệ 
kháng  insulin  của  người  rối  loạn  glucose máu 
lúc đói là 52,5%. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. International Diabetes Federations  (2005), “Global Guideline 
for type 2 diabetes”, pages 8‐9. 
2. Hoàng Ngọc Vân, Nguyễn Đức Công  (2012), Bước đầu xây 
dựng công thức tính chỉ số kháng insulin bằng phương pháp 
theo dõi nồng độ glucose máu trước và sau truyền glucose – 
insulin – kaliclorua, Y học TP Hồ Chí Minh, Tập 16, phụ bản 
số 4: 241‐245. 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013 
112
3. Lương Văn Một, Nguyễn Văn Quýnh  (2003), “Tình trạng rối 
loạn lipid máu ở những người có rối loạn glucose máu lúc đói và rối 
loạn dung nạp glucose”, Hội nghị khoa học toàn quốc lần thứ 2 
chuyên ngành nội tiết và đái tháo đường, tr 272‐276. 
4. Nathan  DM,  Davidson  MB,  DeFronzo  RA  et  al  (2007), 
“Impaired  fasting  glucose  and  impaired  glucose  tolerance: 
implications for care”, Diabetes Care, 30(3): 753. 
5. Novoa FJ, Boronat M, Saavedra P et al (2005), “Differences in 
cardiovascular  risk  factors,  insulin  resistance,  and  insulin 
secretion in individuals with normal glucose tolerance and in 
subjects with impaired glucose regulation”, the Telde Study, 
Diabetes Care, 28: 2388–2393. 
6. Schianca Carnevale GP,  Rossi A,  Sainaghi  PP,  et  al  (2003), 
“The significance of impaired fasting glucose versus impaired 
glucose  tolerance:  importance  of  insulin  secretion  and 
resistance”, Diabetes Care, 26:1333–1337 
Ngày nhận bài báo              01‐7‐2013 
Ngày phản biện nhận xét bài báo:  18‐7‐2013 
Ngày bài báo được đăng:  01‐08‐2013 

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_tinh_trang_khang_insulin_o_benh_nhan_roi_loan_glu.pdf