Nghiên cứu tình huống chính sách

Giới thiệu

Vào ngày 12 tháng 8, năm 2010, Bộ Tài chính ban hành Thông tư 122/2010/TT-BTC

về việc đăng ký và quy định giá. Các quy định mới có hiệu lực vào ngày 1 tháng 10 năm

2010 bao gồm nhiều mặt hàng sản xuất và tiêu dùng then chốt trong đó có sữa và sữa

bột.1 Thông tư cho phép Bộ Tài chính và Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Tỉnh “áp dụng các

biện pháp bình ổn giá” khi giá trong nước tăng nhanh hơn (hoặc xuống chậm hơn) chi phí

đầu vào.2 Các biện pháp bình ổn giá được mô tả trong thông tư bao gồm việc đặt những

mức giá tối đa và tối thiểu hoặc những khung giá đối với các mặt hàng có tên trên danh

mục cần kiểm soát. Các nhà sản xuất, các nhà phân phối, và các cửa hàng bán lẻ các mặt

hàng nói trên phải đăng ký giá khi đưa hàng ra thị trường và bất kỳ khi nào giá thay đổi.3

Công ty nào vi phạm các quy định trên sẽ bị cảnh cáo, nộp phạt, thu hồi giấy phép kinh

doanh cùng những hình phạt hành chính khác

pdf 30 trang phuongnguyen 440
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Nghiên cứu tình huống chính sách", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu tình huống chính sách

Nghiên cứu tình huống chính sách
Nghiên cứu tình huống chính sách 
Đăng ký và quy định giá sữa ở Việt Nam 
có làm giảm giá sữa? 
Jonathan Pincus 
25 tháng 10, 2010 
Policy Case Study 
Milk Price Registration and Regulations in Vietnam: Will it Lower Milk Prices? 
Page 2 of 30 
Jonathan Pincus 2 Biên dịch: Lê Việt Ánh 
Giới thiệu 
 Vào ngày 12 tháng 8, năm 2010, Bộ Tài chính ban hành Thông tư 122/2010/TT-BTC 
về việc đăng ký và quy định giá. Các quy định mới có hiệu lực vào ngày 1 tháng 10 năm 
2010 bao gồm nhiều mặt hàng sản xuất và tiêu dùng then chốt trong đó có sữa và sữa 
bột.1 Thông tư cho phép Bộ Tài chính và Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Tỉnh “áp dụng các 
biện pháp bình ổn giá” khi giá trong nước tăng nhanh hơn (hoặc xuống chậm hơn) chi phí 
đầu vào.2 Các biện pháp bình ổn giá được mô tả trong thông tư bao gồm việc đặt những 
mức giá tối đa và tối thiểu hoặc những khung giá đối với các mặt hàng có tên trên danh 
mục cần kiểm soát. Các nhà sản xuất, các nhà phân phối, và các cửa hàng bán lẻ các mặt 
hàng nói trên phải đăng ký giá khi đưa hàng ra thị trường và bất kỳ khi nào giá thay đổi.3 
Công ty nào vi phạm các quy định trên sẽ bị cảnh cáo, nộp phạt, thu hồi giấy phép kinh 
doanh cùng những hình phạt hành chính khác. 
 Các quy định về giá cho đến nay chỉ áp dụng cho các doanh nghiệp mà nhà nước 
kiểm soát phần lớn. Quyết định mở rộng các quy định này sang doanh nghiệp tư nhân và 
doanh nghiệp nước ngoài phản ánh mối quan tâm chính thức đối với cơn lạm phát giá gia 
tăng trong nửa cuối năm 2009. Mặc dù áp lực lạm phát sau đó đã chùng xuống nhưng 
chính phủ quyết tránh lập lại tình trạng giá tăng mạnh dẫn đến hậu quả bất ổn kinh tế vĩ 
mô mà đất nước đã trải qua trong năm 2008. 
1
 Thông tư mới này sửa đổi và bổ sung cho thông tư có trước đó (104/2008/TT-BTCD ngày 13 tháng 11, 
2008), gồm các quy định bổ sung cho Nghị định Chính phủ 170/2003/ND-CP ghi ngày 25 tháng 12, 2003. 
Bản dự thảo thông tư đã được công bố ngày 24 tháng 12, 2009. Toàn bộ văn bản của thông tư này bằng 
tiếng Việt có trên trang chủ của Bộ Tài chính 
( Như đã phổ biến trong Nghị định 
75/2008/ND-CP và Quyết định 116/2009/QD-Ttg, thông tư này bao gồm các hàng hóa kể sau: dầu nhớt; xi-
măng; sắt thép xây dựng; khí hóa lỏng; phân hóa học; thuốc trừ sâu; thuốc thú y; muối; sữa; đường (trắng 
và tinh); lúa gạo; dược phẩm nằm trên danh mục thuốc chính của Bộ Y tế dùng cho các trung tâm y tế ; vé 
xe lửa; thức ăn gia súc (sau đó được nêu cụ thể để gồm luôn thức ăn đặc cho heo gà và thức ăn viên hỗn 
hợp cho cá tra và tôm). Bột sữa công thức được công khai đưa vào danh mục các sản phẩm được quy định 
giá trong thông tư gần đây nhất (chương VI). Ủy ban Nhân dân Tỉnh có thể bổ sung các mặt hàng khác vào 
danh mục này nếu được Bộ Tài chính chấp thuận. 
2
 Phần 2.1.a của thông tư mới chỉ định rằng “tăng giá vượt quá mức tăng trong chi phí „đầu vào‟ hàng nhập 
khẩu” hoặc cao hơn chi phí hàng hóa do các tổ chức, cá nhân hay công ty nhập khẩu dựa trên các tính toán 
định giá (chi phí sản xuất, lưu hành, lợi nhuận v.v) không phù hợp với chính sách, tiêu chuẩn kinh tế kỹ 
thuật và các quy định giá do cơ quan chuyên môn ban hành.” Thông tư này không nói cụ thể những khung 
giá cụ thể cho các hàng hóa nêu ra trong Thông tư 104/2008/TT-BTC. Ví dụ như ở thông tư sau, giá sữa 
bán lẻ không được “vượt quá giá thị trường” 20% hoặc hơn trong thời gian 15 ngày liên tiếp. 
3
 Như đã được nêu ra ở Điều VII của thông tư và dùng các mẫu đã được cấp trong phụ lục của thông tư. 
Policy Case Study 
Milk Price Registration and Regulations in Vietnam: Will it Lower Milk Prices? 
Page 3 of 30 
Jonathan Pincus 3 Biên dịch: Lê Việt Ánh 
 Các doanh nghiệp sản xuất, các đại lý bán sỉ và cửa hàng bán lẻ được yêu cầu phải 
cung cấp thông tin về chi phí sản xuất cho Bộ Tài chính. Quy định hiện tại buộc chi phí 
quảng cáo và khuyến mãi không được vượt quá 10% tổng chi phí. Quy định cũng không 
nói rõ chính phủ sẽ đặt mức sinh lợi “hợp lý” từ đầu tư là bao nhiêu. Khi đã đăng ký giá 
thì nhà chức trách sẽ xem lại bất kỳ biến động giá nào để xác định họ có làm đúng hay 
không dựa trên cơ sở các yếu tố “tự nhiên” (nói cách khác, chi phí đầu vào tăng cao chưa 
tính quảng cáo và khuyến mãi không ảnh hưởng đến mức lợi nhuận). Bộ hy vọng việc 
công khai giá đã đăng ký sẽ cung cấp cho người tiêu dùng thông tin họ cần có để tránh 
phải trả giá quá cao cho các sản phẩm nằm trên danh mục kiểm soát. Tuy nhiên cũng 
chưa rõ là chính phủ có kế hoạch phổ biến thông tin giá cả này cho công chúng biết, hay 
chính phủ đủ khả năng thông tin cho công chúng biết một cách chính xác và đúng thời 
điểm về giá cả cụ thể ở từng địa phương của hàng trăm sản phẩm khác nhau. 
 Có một động lực chính trị to lớn trong chính sách mới này. Đó là chính phủ muốn 
đáp ứng với lo ngại của người dân về giá cả tăng cao đối với một số mặt hàng thiết yếu 
như gạo, chất đốt, vật liệu xây dựng, dược phẩm, phân bón và thức ăn gia súc. Không giá 
cả nào lại nhạy cảm chính trị hơn giá sữa bột dành cho trẻ sơ sinh và trẻ em. Suốt ba năm 
vừa qua báo chí Việt Nam đã đăng vô số chuyện về giá sữa công thức dành cho trẻ sơ 
sinh, với lời lẽ ngày càng tỏ ra gay gắt. Ví dụ như vào tháng 4 năm 2009 một số bài báo 
tuyên bố rằng giá sữa ở Việt Nam “cao nhất thế giới,” một lời cáo buộc đã được lập lại 
trên trang mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam và hình như lời cáo buộc này đã có sức 
sống của riêng nó.4 Có thể giải thích phần nào việc tập trung vào giá sữa là do đợt tăng 
giá đột biến mặt hàng sữa bột trên thế giới trong hai năm 2007 và 2008, và sau đó đã ảnh 
hưởng trực tiếp đến giá trong nước vì Việt Nam phụ thuộc rất nhiều vào sữa nhập khẩu. 
Tuy nhiên khi giá thế giới lùi xuống trong hai năm 2008 và 2009 thì giá sữa bột trong 
nước vẫn còn cao khiến người ta nghi ngờ rằng người tiêu dùng đang bị móc túi khi mua 
4
 Nguyễn Nga (2009) “Giá sữa tại Việt Nam cao nhất thế giới,” Vietnamnet, 24, tháng 4. 
 ; xem thêm Hà Nhân (2009) “Giá sữa Việt Nam cao nhất thế 
giới!” Tiền Phong, 28 tháng 4, 
gioi-.html. 
Policy Case Study 
Milk Price Registration and Regulations in Vietnam: Will it Lower Milk Prices? 
Page 4 of 30 
Jonathan Pincus 4 Biên dịch: Lê Việt Ánh 
các mặt hàng sữa.5 Mới gần đây báo chí đã tường thuật các đợt tăng giá sữa rất mạnh 
trước ngày 1 tháng 10, là ngày quy định mới sẽ có hiệu lực.6 
 Nghiên cứu tình huống này nêu lên ba vấn đề chính sách công thú vị và rất quan 
trọng. Thứ nhất, giá sữa ở Việt Nam có phải cao nhất thế giới hay không? Nếu đúng, thì 
tại sao? Nếu không phải như vậy, thì tại sao lại có quá nhiều người cho là như vậy? Thứ 
hai, thị trường các mặt hàng sữa trong nước là thị trường có cạnh tranh hay có đặc điểm 
độc quyền và chốt giá? Nếu là cạnh tranh thì tại sao người ta cho rằng giá sữa là quá cao? 
 Thứ ba, chính sách kiểm soát và đăng ký giá của chính phủ có làm hạ giá sữa hay 
không? Nếu không, thì chính phủ có thể xem xét những chính sách thay thế nào khác để 
đạt được mục đích giảm và bình ổn giá sữa cho người tiêu dùng? 
 Nghiên cứu tình huống này cụ thể bàn về vấn đề giá sản xuất sữa. Trong khi một số 
kết luận áp dụng cho các mặt hàng tiêu dùng khác có tên trên danh mục kiểm soát của 
chính phủ thì chúng ta cũng nên ghi nhận rằng thị trường dành cho các mặt hàng khác 
nhau này rất khác nhau ở nhiều phương diện, và do vậy phải thừa nhận rằng chính sách 
về giá có khả năng rất khác nhau giữa các mặt hàng khác nhau. Ví dụ như gạo là một loại 
hàng hóa sản xuất nội địa có thị trường xuất khẩu rất mạnh. Chính sách giảm giá gạo nội 
địa do vậy sẽ rất khác với chính sách cần thiết để giảm giá của một mặt hàng như sữa mà 
chủ yếu là nhập khẩu. Giảm giá thị trường đường cát, cũng được sản xuất nội địa có bảo 
hộ thương mại, sẽ cần đến một loạt những cải cách chính sách khác. 
Giá sữa ở Việt Nam có cao không? 
Trong tháng 4 năm 2009 đã có một loạt bài đăng trên báo chí Việt Nam khẳng định giá 
sữa trong nước là “cao nhất thế giới.” Bằng chứng nêu ra để bênh vực cho tuyên bố này 
là gì? Vẫn chưa có những dữ liệu so sánh quốc tế về giá bán lẻ của các mặt hàng chung 
như sữa tiệt trùng, chưa nói đến những sản phẩm có nhãn mác như sữa bột dành cho trẻ 
sơ sinh. Các cơ quan thống kê của chính phủ công bố các chỉ số giá cả nhưng thường 
không đưa ra những dữ liệu giá thô đối với riêng từng mặt hàng tiêu dùng. Các công ty 
khảo sát thị trường thu thập những dữ liệu này cho khách hàng chứ không công bố rộng 
rãi. 
5
 “Những 'mánh khoé' giữ giá sữa cao ngất ngưỡng” (2010) Vietnamnet, 26 tháng 5. 
6
 “Sữa ngoại lại tăng giá chạy trước Thông tư” (2010) Vietnamnet, 3 tháng 9. 
Policy Case Study 
Milk Price Registration and Regulations in Vietnam: Will it Lower Milk Prices? 
Page 5 of 30 
Jonathan Pincus 5 Biên dịch: Lê Việt Ánh 
 Khi đọc kỹ các bài báo này, chúng ta nhận thấy rằng các tuyên bố bằng tít lớn bắt 
mắt như trên chưa cho thấy rõ vấn đề. Nguồn gốc của bài đăng trên Vietnamnet trình bày 
ở Hộp 1 được trính từ ông Raf Somers, Trưởng cố vấn kỹ thuật của dự án liên doanh sữa 
Việt-Nam Bỉ. Theo Vietnamnet, ông Somers phát biểu tại một cuộc họp báo ở Hà Nội 
rằng trong khi giá sữa ở châu Âu và Nam Mỹ trung bình từ 0,50 đến 0,90 đô-la Mỹ một 
lít, thì giá sữa ở Việt Nam tính theo đô-la Mỹ là 1,10 một lít.7 Trong bài không cho thấy 
ông Sopers tuyên bố giá sữa Việt Nam là cao nhất thế giới. 
 Tương tự tờ Saigon Times trích dẫn phát biểu của bà Vũ Thị Bạch Nga, Trưởng ban 
Bảo vệ Người Tiêu dùng của Cục Cạnh tranh thuộc Bộ Công nghiệp và Thương mại, nói 
rằng giá sữa trong nước cao hơn các nước láng giềng từ hai mươi đến sáu mươi lần và có 
7
 “Giá sữa tại Việt Nam cao nhất thế giới” (2009) Vietnamnet, 24 tháng 4, 
Hộp 1. Giá sữa cao nhất trên thế giới? 
Giá sữa tại Việt Nam cao nhất thế giới 
Cập nhật lúc 13:58, Thứ Sáu, 24/04/2009 (GMT+7) 
, 
 - Việc người tiêu dùng tin rằng sữa đắt nhất thì mới tốt nhất, cùng xu hướng 
chọn mua loại đắt nhất, là những yếu tố khiến giá sữa tại Việt Nam (VN) cao ngất 
ngưởng. 
Policy Case Study 
Milk Price Registration and Regulations in Vietnam: Will it Lower Milk Prices? 
Page 6 of 30 
Jonathan Pincus 6 Biên dịch: Lê Việt Ánh 
lẽ là cao nhất thế giới.8 Không có bằng chứng nào được đưa ra để biện minh cho tuyên bố 
này. 
 Những lời tuyên bố như trên nếu được lập lại thường xuyên sẽ có sức sống của riêng 
nó. Nhưng đó không phải là cơ sở vững chắc đề ra chính sách. 
 Giá sữa nội địa của Việt Nam cần được xem xét trong một bối cảnh phù hợp. Giữa 
các quốc gia với nhau thì giá sữa trong nước khác nhau rất đáng kể. Một số khu vực xuất 
khẩu như châu Âu và Nam Mỹ có giá sữa nội địa tương đối thấp. Chính phủ ở một số các 
nước nói trên (nhưng chắc chắn không phải là tất cả) cố nâng thu nhập của nông dân lên 
bằng cách trợ cấp cho nhà sản xuất. Giá cả đương nhiên cao hơn những khu vực nhập 
khẩu như Đông Á và Đông Nam Á, đặc biệt ở tình huống khi chính phủ bảo vệ những 
nhà sản xuất trong nước thông qua thuế quan và hạn ngạch như ở Thái Lan. 
 Do đó tuyên bố giá sữa ở Việt Nam là cao nhất trên thế giới là chưa có căn cứ. Việt 
Nam nằm trong nhóm các quốc gia nhập khẩu có chế độ bảo hộ mậu dịch vừa phải, và 
giá cả trong nước khá thống nhất với các quốc gia khác trong nhóm. Sản lượng sữa nội 
địa đã tăng mạnh kể từ năm 1998 mặc dù có xuất phát điểm thấp (xem Hình 1). Phần lớn 
nông dân sản xuất sữa là những nhà sản xuất nhỏ có sản lượng mỗi đầu bò chưa bằng 
phân nửa các cơ sở sản xuất có quy mô lớn ở Hoa Kỳ và Úc. Triển vọng nâng đầu ra 
trong cơ cấu sản xuất hiện tại là rất hạn chế. Tuy vậy mức tiêu thụ các mặt hàng sữa lại 
gia tăng nhanh chóng. Theo thống kê của Tổ chức Lương nông Liên Hiệp Quốc (FAO) 
thì mức tiêu thụ sữa tính trên đầu người đã tăng gấp ba lần giữa năm 1995 và năm 2006 
(xem Hình 2). 
 Kết quả là Việt Nam vẫn phải lệ thuộc rất nhiều vào sữa nhập khẩu. Theo Bộ Nông 
nghiệp và Phát triển Nông thôn thì Việt Nam nhập khẩu 72% tổng lượng các mặt hàng 
sữa tiêu thụ trong năm 2009, trong đó gồm 50% nguyên liệu sữa và 22% lượng sữa thành 
phẩm.9 Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã đặt mục tiêu cho sản lượng sữa đến 
năm 2020 phải đạt được một triệu tấn, và theo họ sẽ đáp ứng được từ 35% cho đến 38% 
8
 Thoa Nguyen (2009) “Vietnam‟s Milk Prices Stunningly High,” Saigon Times Daily, 9 tháng 7, 
9
 Kim Thai (2009) “Milked to the Limit,” Vneconomy News, 12 tháng 8. 
Policy Case Study 
Milk Price Registration and Regulations in Vietnam: Will it Lower Milk Prices? 
Page 7 of 30 
Jonathan Pincus 7 Biên dịch: Lê Việt Ánh 
nhu cầu trong nước.10 Thậm chí mục tiêu đầy tham vọng này cũng không giảm được 
nhiều tình trạng lệ thuộc vào nhập khẩu của Việt Nam. 
Hình 1. Sản xuất sữa và sản lượng 
0
200
400
600
800
1,000
1,200
1,400
1,600
1,800
0
50
100
150
200
250
300
K
g
 p
e
r 
a
n
im
a
l
M
T
, 
th
o
u
s
a
n
d
s
Production (left scale)
Yield (right scale)
Nguồn: Tổ chức Lương nông 
Hình 2. Mức tiêu thụ sữa nội địa tính trên đầu người (1995=100) 
0
50
100
150
200
250
300
350
1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
Nguồn: Tổ chức Lương nông, tính toán của tác giả 
10
 “Milk Production to Hit One Million Tons by 2020” (2010) Vietnam Business News, 24 tháng 6. 
Policy Case Study 
Milk Price Registration and Regulations in Vietnam: Will it Lower Milk Prices? 
Page 8 of 30 
Jonathan Pincus 8 Biên dịch: Lê Việt Ánh 
 Mặc dù lệ thuộc vào nhập khẩu nhưng khung bảo hộ bằng thuế quan cũng vừa phải, 
trung bình chưa đến 10% giá trị nhập khẩu. Trên thực tế chính phủ đã giảm thuế nhập 
khẩu đối với nguyên liệu và sản phẩm sữa nhanh hơn yêu cầu theo các điều khoản của 
thỏa thuận gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới. Chính phủ phải cân đối lợi ích của 
các nhà sản xuất trong nước với mục tiêu sức khỏe công và làm cho sữa có giá vừa túi 
tiền với nhiều hộ gia đình Việt Nam hơn. 
 Lệ thuộc đầu vào nhập khẩu nghĩa là nếu giá trên thế giới dao động thì có ảnh hưởng 
trực tiếp ngay đến người tiêu dùng Việt Nam. Đây không phải là một vấn đề lớn vào nửa 
đầu của thập niên này khi giá sữa trên thế giới vẫn ổn định và tương đối thấp. Tuy nhiên 
từ cuối năm 2006, giá trên thế giới bắt đầu tăng mạnh, đạt đến cao điểm vào tháng 10 
năm 2007. Vào thời điểm đó giá bột sữa nguyên chất trên thế giới vượt quá 5.000 đô-la 
một tấn. Mặc dù giá sau đó có giảm khi có cuộc khủng hoảng tài chính thế giới vào hai 
năm 2008-09, nhưng rồi từ đó đến nay thì giá lại phục hồi tính theo đô-la Mỹ (Hình 3). 
 Hình 3 cũng cho thấy vai trò của những chuyển động tỷ giá khi phải quyết định giá 
sữa trong nước. Các đợt mất giá đã làm suy yếu tiền đồng Việt Nam so với đô-la Mỹ. Do 
đó nếu tính theo tiền đồng Việt Nam thì sữa bột nhập khẩu bây giờ có giá đắt ngang bằng 
với mức khi giá thế giới đạt đỉnh điểm vào tháng 10 năm 2007. Có khả năng là phần lớn 
những đợt “tăng giá ngất ngưởng” được nêu lên trên báo này có thể truy nguyên từ sự kết 
hợp giữa giá nguyên liệu thô và xu hướng chuyển động của tiền tệ. 
 Chúng tôi tiến hành một thử nghiệm đơn giản để kiểm chứng tiền đề cho rằng giá 
 ... à một loại bệnh phát hiện ở gia súc mà sau 
đó được liên hệ với bệnh Creutzfeld Jakobs (CJD) ở người. 
Policy Case Study 
Milk Price Registration and Regulations in Vietnam: Will it Lower Milk Prices? 
Page 25 of 30 
Jonathan Pincus 25 Biên dịch: Lê Việt Ánh 
dành cho trẻ sơ sinh được tiến hành vào năm 2010.29 Khi các đợt thanh tra được tiến hành 
và kết quả được công bố thì những vi phạm thường xuyên trắng trợn chỉ làm tăng thêm 
lòng hoài nghi của công chúng đối với mức độ tin cậy của chế độ an toàn thực phẩm.30 Ví 
dụ như trong dịp Tết âm lịch năm 2010, cục phái hai ngàn đội công tác đi thanh tra 47 
ngàn doanh nghiệp và phát hiện 13.000 vụ vi phạm.31 Lo ngại sâu sắc cho sức khỏe con 
em và đối mặt với sự hồ nghi về độ an toàn của các mặt hàng sữa, nhiều phụ huynh đã 
chọn sản phẩm đắt tiền nhất trên thị trường với hy vọng rằng chi phí cộng thêm đồng 
nghĩa với tiêu chuẩn an toàn chất lượng nghiêm ngặt hơn. 
 Cần có cải cách chế độ an toàn thực phẩm quốc gia để tăng niềm tin trong công 
chúng đối với chất lượng và độ an toàn các mặt hàng sữa được đưa ra thị trường Việt 
Nam. Công chúng cần có nhiều thông tin hơn về cách thức thiết lập những tiêu chuẩn an 
toàn. Tạo niềm tin ở công chúng trong hệ thống kiểm nghiệm và thanh tra thực phẩm là 
rất quan trọng đối với các nhà sản xuất trong nước cùng các nhà sản xuất sản phẩm có chi 
phí thấp vì họ phải cạnh tranh với những thương hiệu nước ngoài đắt tiền hơn. Một chế 
độ an toàn thực phẩm nghiêm ngặt sẽ làm yên lòng người tiêu dùng để họ thấy rằng các 
sản phẩm trong nước cũng an toàn giống như những sản phẩm được sản xuất ở nước 
ngoài, và tất cả mọi sản phẩm đều chứa trong đó những chất có hàm lượng đúng như 
được ghi trên nhãn hiệu. 
 Mọi quốc gia phải phát triển một chế độ an toàn thực phẩm phù hợp với điều kiện 
của địa phương, nhưng đưa ra những đề nghị cải cách hệ thống đang có tại Việt Nam thì 
lại vượt quá phạm vi của nghiên cứu này. Đây là một lĩnh vực mà các đối tác song 
phương với Việt Nam có thể mang đến những đóng góp hữu ích. Ví dụ như Vương quốc 
Anh đã tiến hành cải cách chế độ an toàn thực phẩm của họ theo sau dịch bò điên trong 
thập niên 1990. Cục Tiêu chuẩn Thực phẩm mới thành lập vào năm 2000 là một cơ quan 
chính phủ được thiết kế để đạt được tiêu chuẩn cao về sự ưu tú khoa học, có trách nhiệm 
29
 Lan Anh (2010) “6/84 mẫu sữa thiếu vi chất so với hàm lượng công bố,” Tuổi Tre, 10 tháng 8, 
bo.html 
30
 Ví dụ xem bài “Dairy Firms Caught Cheating Again” (2009) Vietnamnet Bridge, 18 tháng 7, 
 Trong trường hợp này thì các nhân viên thanh tra 
nhận thấy một phần tư các sản phẩm sữa dành cho trẻ sơ sinh xét nghiệm trong mười bốn tỉnh thành không 
đạt hàm lượng đạm ở mức như đã nêu. 
31
 Marco Breu, Brian S. Salsberg, and Ha Thanh Tu (2010) “Growing Up Fast: Vietnam Discovers the 
Consumer Society,” McKinsey Quarterly, tháng 8, https://www.mckinseyquarterly.com/ 
Marketing/Sales_Distribution/Growing_up_fast_Vietnam_discovers_the_consumer_society_2655?gp=1. 
Policy Case Study 
Milk Price Registration and Regulations in Vietnam: Will it Lower Milk Prices? 
Page 26 of 30 
Jonathan Pincus 26 Biên dịch: Lê Việt Ánh 
giải trình với người tiêu dùng, và minh bạch. Quản trị cơ quan này là một ủy ban độc lập 
có nhiều chuyên gia và người trong công chúng. Nếu có hỗ trợ của đối tác song phương 
thì Việt Nam có thể lồng ghép các nguyên tắc này vào cơ chế an toàn thực phẩm được cải 
cách và khôi phục. 
Gỡ bỏ quy định trần về quảng cáo và khuyến mãi 
 Trong khi người tiêu dùng dựa vào hệ thống sàng lọc, thì nhà sản xuất áp dụng cách 
ra tín hiệu để khắc phục những vấn đề về thông tin mất cân xứng. Cách hiệu quả nhất để 
ra tín hiệu là đầu tư vào thương hiệu. Chất lượng thương hiệu là tối quan trọng đối với 
các hàng hóa tiêu dùng thay đổi rất nhanh như thực phẩm đóng gói chẳng hạn. Người ta 
yên lòng với những sản phẩm nào cho họ biết rõ đặc điểm và chất lượng nhất quán. 
Người tiêu dùng nhận biết công ty có đầu tư nhiều vào thương hiệu của họ hay không, và 
do đó mong đợi nhà sản xuất sẽ bảo đảm an toàn sản phẩm của công ty trong nỗ lực bảo 
vệ tiền của đầu tư vào thương hiệu. 
 Ở Việt Nam, chính phủ tích cực ngăn cản đầu tư vào thương hiệu thông qua chính 
sách thuế doanh nghiệp, đặt ra mức trần đối với quảng cáo và khuyến mãi là 10% doanh 
thu. Chính phủ vẫn còn xem quảng cáo là một chi phí không cần thiết, chỉ làm tăng chi 
phí sản xuất và sau đó là giá thành. Đây là chủ đề trong nhiều bài báo đã được xuất bản 
bàn về giá sữa trong suốt vài năm qua. Các quan chức thuộc bộ Tài chính thường xuyên 
bày tỏ thái độ kinh ngạc và khiếp đảm đối với số tiền mà các công ty trong nước cũng 
như ngoài nước đổ vào những chiến dịch quảng cáo.32 Sau khi đã xác định được thủ 
phạm là quảng cáo, bộ đã khiển trách các công ty vì đã không tuân thủ mức chi phí trần 
dành cho quảng cáo và khuyến mãi đã được công nhận theo luật thuế thu nhập doanh 
nghiệp.33 
 Thuế đóng phạt về chi phí quảng cáo rất có khả năng làm tăng chứ không hề làm 
giảm bớt giá các mặt hàng sữa trên thị trường. Vấn đề rất đơn giản. Công ty khó có thể 
tham gia vào thị trường sản phẩm sữa nếu không đầu tư lớn vào thương hiệu. Sản phẩm 
32
 Ministry of Finance Says Advertising Expenses Increase Dairy Prices” (2009) Vietnamnet Bridge, 23 
tháng 12, 
dairy-prices-885808/; xem thêm Cẩm Quyên và Trần Thủy (2010) “Lợi nhuận kếch xù từ kinh doanh sữa 
vào tay ai?” Vietnamnet, 25 tháng 5, 
sua-vao-tay-ai-912104/. 
33
 “New rule seeks tighter grip on milk product prices” (2010)Vietnam Business News, 20 tháng 3, 
Policy Case Study 
Milk Price Registration and Regulations in Vietnam: Will it Lower Milk Prices? 
Page 27 of 30 
Jonathan Pincus 27 Biên dịch: Lê Việt Ánh 
chung chung không bán chạy bởi vì người ta không có đủ lòng tin đối với chúng, đặc biệt 
ở các thị trường mới nổi như Việt Nam khi mà chế độ an toàn thực phẩm còn kém phát 
triển. Nhà sản xuất đối mặt với lựa chọn hoặc gia nhập thị trường và chịu chi phí quảng 
cáo cùng thuế khóa, hoặc không gia nhập thị trường. Họ không thể gia nhập thị trường 
mà lại đầu tư quá ít vào thương hiệu. Đây không hề là một lựa chọn kinh doanh hợp lý. 
 Sau khi đã quyết định gia nhập thị trường và xây dựng thương hiệu thì nhà sản xuất 
chuyển những chi phí quảng cáo và thuế sang cho người tiêu dùng thông qua giá bán ra. 
Vì tất cả nhà sản xuất đều đối mặt với một chế độ thuế như nhau, nên tất cả họ đều có thể 
chuyển các mức giá tăng thêm này cho người tiêu dùng mà không hề sợ các công ty khác 
sẽ qua mặt họ bằng giá bán. Một số công ty có thể tuyên bố họ chi ít hơn cho quảng cáo, 
nhưng nếu xem xét kỹ hơn hoạt động của họ thì thường nhận ra ngay tất cả công ty này 
đều chi ra những khoản tiền như nhau để xây dựng thương hiệu.34 
Gỡ bỏ những chướng ngại đối với tiến trình hiện đại hoá khu vực bán lẻ 
Người tiêu dùng Việt Nam không có đủ thông tin về giá cả. Khu vực bán lẻ đã thay đổi 
rất lớn trong thập niên qua, đặc biệt là ở Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. Nhưng ngay cả ở 
hai thành phố này thì nhiều người tiêu dùng vẫn phải dựa vào những cửa hàng địa 
phương để mua đi mua lại những món hàng cần mua. Trong nước bây giờ đã có bốn trăm 
siêu thị chiếm khoảng 10% ngành kinh doanh bán lẻ.35 Thị phần của các siêu thị chắc 
chắn sẽ tăng lên khi Việt Nam trải qua tiến trình đô thị hóa và người tiêu dùng trở nên 
sành sõi hơn. Tuy nhiên hiện tại thì người mua vẫn chủ yếu dựa vào những cửa hàng nhỏ. 
 Các doanh nghiệp bán lẻ trong và ngoài nước có những kế hoạch phát triển đầy tham 
vọng cho đất nước. Saigon Co-op có kế hoạch cho đến năm 2015 sẽ khai trương thêm 
một trăm cửa hàng mới. Lotte Group của Hàn Quốc đã dành ra năm tỷ đô-la để mở rộng 
sự hiện diện của họ trong mười năm tới. Metro Cash & Carry (của Đức) đã khai trương ở 
mười hai địa điểm. Và Big C (của Pháp) có mười cửa hàng. Việt Nam đã mở cửa ngành 
bán lẻ nội địa cho đầu tư nước ngoài theo cam kết với WTO. Những công ty nước ngoài 
bây giờ có thể mở một địa điểm duy nhất mà không cần đến đối tác trong nước sau khi đã 
34
 Một số đại diện các công ty sữa bày tỏ lòng hoài nghi về tuyên bố của một số công ty nói rằng họ chi rất 
ít vào khâu phát triển thương hiệu. Họ gợi ý rằng một số công ty che dấu chi phí quảng cáo và tiếp thị dưới 
hình thức chi phí phân phối hoặc nhân sự. 
35
 Marco Breu, Brian S. Salsberg, và Ha Thanh Tu (2010) “Growing Up Fast: Vietnam Discovers the 
Consumer Society,” McKinsey Quarterly, tháng 8, https://www.mckinseyquarterly.com/ 
Marketing/Sales_Distribution/Growing_up_fast_Vietnam_discovers_the_consumer_society_2655?gp=1. 
Policy Case Study 
Milk Price Registration and Regulations in Vietnam: Will it Lower Milk Prices? 
Page 28 of 30 
Jonathan Pincus 28 Biên dịch: Lê Việt Ánh 
xin được giấy phép kinh doanh và quy hoạch. Tuy nhiên khi xin mở một cửa hàng thứ hai 
thì phải chịu sự kiểm định về nhu cầu kinh tế.36 Mặc dù chính phủ đã nêu ra những 
nguyên tắc làm cơ sở cho kiểm định nhu cầu kinh tế nhưng không chỉ rõ những tiêu 
chuẩn chính xác cụ thể nào hay một quy trình thống nhất và minh bạch nào để qua đó 
thẩm định từng hồ sơ. Kết quả là nhà chức trách vẫn còn rất tùy tiện trong khâu thẩm 
định đơn xin mở thêm cửa hàng. Sự tùy tiện này được áp dụng để bảo vệ những nhà bán 
lẻ trong nước chống lại cạnh tranh quốc tế, và điều này đã làm nản lòng các nhà đầu tư 
mới. Trước tình trạng không rõ ràng chung quanh việc kiểm định nhu cầu kinh tế, Việt 
Nam đã rớt từ hạng nhất năm 2008 xuống hạng mười bốn trong năm 2010 về Chỉ số Phát 
triển Ngành bán lẻ toàn cầu của hãng A.T. Kearney.37 
 Hệ quả của tình trạng siêu thị thâm nhập thị trường chậm chính là giá cả trong nước 
chênh lệch giữa các địa phương với nhau, thậm chí ngay trong các thành phố lớn. Ở phần 
trước chúng ta đã thấy mức chênh lệch giá của các mặt hàng sữa bột ở TP. Hồ Chí Minh 
là rất lớn – thậm chí đối với cùng một thương hiệu và cùng một bao bì. Một phần bức xúc 
của công chúng đối với giá sữa cao chắc chắn góp phần vào tình trạng chênh lệch giá 
này. Việt Nam có thể đạt được những tiến bộ đáng kể trong nỗ lực giảm giá và mở rộng 
lựa chọn của người tiêu dùng nếu gỡ bỏ được những chướng ngại còn lại đối với tiến 
trình phát triển ngành bán lẻ hiện đại. 
Kết luận 
 Việt Nam đã ban hành một quy định mới về đăng ký giá và kiểm soát giá vào tháng 
8 năm 2010. Một trong những mục tiêu của chính sách này là làm giảm hoặc bình ổn giá 
các mặt hàng sữa, đặc biệt là sữa bột dành cho trẻ sơ sinh và trẻ em. Chính phủ tin rằng 
các công ty sữa tăng giá sữa bột vì họ chi ra quá nhiều tiền vào khâu quảng cáo và 
khuyến mãi. 
 Nghiên cứu tình huống này đã bàn về ba mặt trong chính sách đối với giá sữa của 
chính phủ. Trước hết, chúng tôi xem xét có phê phán các tuyên bố của giới truyền thông 
cho rằng giá sữa ở Việt Nam là “cao nhất thế giới.” Chúng tôi nhận thấy rằng không hề 
36
 Cần phải có kiểm nghiệm nhu cầu kinh tế theo Nghị định 23 của Chính phủ ban hành vào năm 2007. 
Tiêu chuẩn kiểm nghiệm nhu cầu kinh tế được công bố ở Thông tư 09/2007/QD-BTM và Quyết định 
10/2007/QD-BTM. 
37
 A.T. Kearney, Expanding Opportunities for Global Retailers: The 2010 Global Retail Development 
Index, 
index.html. 
Policy Case Study 
Milk Price Registration and Regulations in Vietnam: Will it Lower Milk Prices? 
Page 29 of 30 
Jonathan Pincus 29 Biên dịch: Lê Việt Ánh 
có bằng chứng hỗ trợ cho tuyên bố này, và kết luận rằng giá ở Việt Nam cũng nằm trong 
phạm vi của các quốc gia Đông Nam Á khác, mà tất cả đều là nước nhập khẩu ròng bột 
sữa. 
 Sau đó, chúng tôi đặt vấn đề thị trường sữa ở Việt Nam có bản chất cạnh tranh hay 
độc quyền. Xét đến phạm vi lựa chọn hiện có cho người tiêu dùng và số lượng công ty 
tham gia thị trường, chúng tôi kết luận thị trường có cạnh tranh. Nhưng thị trường này lại 
không “hoàn hảo” như được mô tả trong sách giáo khoa kinh tế. Quan trọng nhất là người 
tiêu dùng không tiếp cận được thông tin đầy đủ về sản phẩm họ mua. Công tác “sàng lọc” 
chất lượng và mức an toàn sản phẩm của các cơ quan chính phủ còn rất nhiều khiếm 
khuyết. Do đó người tiêu dùng phải dựa vào “tín hiệu” do nhà sản xuất phát đi. Tín hiệu 
nằm ở hình thức đầu tư vào thương hiệu và định giá tương đối. 
 Chính sách đăng ký giá và kiểm soát giá có làm giảm hoặc bình ổn được giá sữa 
trong một thị trường cạnh tranh thiếu hoàn hảo hay không? Kết luận của chúng tôi là 
không. Tác động trực tiếp của chính sách mới sẽ chỉ làm tăng giá. Đã có bằng chứng các 
công ty sữa đã tăng giá trước ngày thi hành Thông tư mới để tránh phải đăng ký giá lại 
sau khi chính sách có hiệu lực. Ngoài ra, chi phí quản lý về đăng ký giá đầu vào, đầu ra, 
bán sỉ, bán lẻ sẽ rất lớn. Rất phi thực tế nếu cho rằng các công ty sữa sẽ không chuyển số 
chi phí cộng thêm này sang người tiêu dùng. 
 Trong dài hạn, chính sách đăng ký và kiểm soát giá có khả năng làm giảm số lượng 
công ty và thương hiệu đang hoạt động trong thị trường nội địa. Nếu các công ty này 
không đạt được điều họ cho là suất sinh lợi đầu tư hợp lý thì họ sẽ từ bỏ thị trường. Họ sẽ 
không duy trì hiện diện của họ trong một thị trường chỉ mang lại suất sinh lợi trên đồng 
vốn dưới chuẩn. 
 Phải chăng điều này có nghĩa là chính phủ mất năng lực bình ổn hay giảm giá sữa? 
Không phải vậy. Chúng tôi đề nghị ba sáng kiến chính sách mà chúng tôi tin rằng sẽ cải 
thiện tình hình thị trường và do đó sẽ mang lại nhiều lựa chọn hơn và nhiều giá trị hơn 
cho người tiêu dùng. Trước hết, chính phủ phải cải cách và vực dậy cơ chế an toàn vệ 
sinh thực phẩm để giúp người tiêu dùng “sàng lọc” chất lượng và độ an toàn sản phẩm. 
Những cải thiện đối với mạng lưới cùng độ tin cậy của cơ chế an toàn là đặc biệt quan 
trọng đối với các nhà sản xuất trong nước và những nhà sản xuất sản phẩm giá rẻ; những 
Policy Case Study 
Milk Price Registration and Regulations in Vietnam: Will it Lower Milk Prices? 
Page 30 of 30 
Jonathan Pincus 30 Biên dịch: Lê Việt Ánh 
nhà sản xuất này đang cần thuyết phục người tiêu dùng rằng sản phẩm của họ cũng an 
toàn giống như những thương hiệu nước ngoài đắt tiền. 
 Thứ hai, chính phủ nên xem lại chính sách thuế doanh nghiệp để chấm dứt cơ chế 
phạt thuế đối với quảng cáo và khuyến mãi. Trong một nền kinh tế thị trường thì đầu tư 
vào thương hiệu cũng quan trọng như đầu tư vào máy móc, công nghệ và nguồn nhân lực. 
Thương hiệu là công cụ phát đi tín hiệu chính của công ty đến với người tiêu dùng. Các 
công ty trong và ngoài nước đều không thể tồn tại trong ngành kinh doanh hàng hóa tiêu 
dùng biến chuyển nhanh chóng nếu không xây dựng được thương hiệu. Chính sách thuế 
của chính phủ biến những khoản đầu tư này thành ra vô cùng đắt đỏ, và tác động rất 
mạnh đến mức giá mà các công ty sữa sẽ tính với người tiêu dùng. 
 Cuối cùng, một trong những vấn đề chủ yếu trong thị trường sữa chính là tình trạng 
chênh lệch giá. Hiện đại hoá thành phần bán lẻ chắc sẽ đi một chặng đường dài để giảm 
tình trạng chênh lệch giá, cho người tiêu dùng nhiều thông tin hơn về giá cả và làm tăng 
phạm vi lựa chọn cho họ khi đi chợ mua sắm. 

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_tinh_huong_chinh_sach.pdf