Nghiên cứu tình hình và kết quả điều trị thiếu máu thiếu sắt ở phụ nữ mang thai 3 tháng đầu tại khoa khám bệnh bệnh viện phụ sản thành phố Cần Thơ năm 2018
Đặt vấn đề: Thiếu máu trong thai kỳ là một trong những vấn đề được quan tâm
nhiều trong thai kỳ, trong đó phần lớn thiếu máu là do thiếu sắt.
Mục tiêu: Xác định tình hình và đánh giá kết quả điều trị thiếu máu thiếu sắt ở phụ
nữ mang thai 3 tháng đầu.
Phương pháp: nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 765 thai phụ mang thai 3 tháng
đầu đến khám thai tại khoa Khám bệnh Bệnh viện Phụ Sản Cần Thơ từ tháng 5/2018-
3/2019 và can thiệp trên 87 thai phụ thiếu máu thiếu sắt bằng bổ sung viên uống Sulfat
sắt khan có chứa 60mg sắt nguyên tố. Thiếu máu thiếu sắt được xác định khi Hb <11g>11g>
và ferritin huyết thanh <12ng l.="" số="" liệu="" dược="" phân="" tích="" bằng="" phần="" mềm="" spss="">12ng>
Kết quả: Tỷ lệ thiếu máu ở thai phụ là 20,1%, trong đó thiếu máu nhẹ là 81,8%,
thiếu máu vừa là 18,2%. Tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt là 11,4%. Tỷ lệ thiếu máu giảm từ
20,1% trước can thiệp còn 6,9% sau can thiệp, tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt giảm từ 11,4%
trước can thiệp còn 5,7% sau can thiệp (p<0,001). các="" đối="" tượng="" thiếu="" máu="" còn="">0,001).>
sau can thiệp chỉ ở mức độ nhẹ. Tỷ lệ kiến thức đúng về chăm sóc thai cho phụ nữ từ
4,6% trước can thiệp lên 92,0% sau can thiệp với p<0,05. kết="" luận:="" tỷ="" lệ="" thiếu="" máu="">0,05.>
thai phụ mamg thai 3 tháng đầu khá cao (20,1%). Bổ sung viên uống Sulfat sắt khan có
hiệu quả trong giảm tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt, và can thiệp truyền thông giúp cải thiện
kiến thức thai phụ sau can thiệp.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu tình hình và kết quả điều trị thiếu máu thiếu sắt ở phụ nữ mang thai 3 tháng đầu tại khoa khám bệnh bệnh viện phụ sản thành phố Cần Thơ năm 2018
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2020 Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 27 NGHIÊN CỨU TÌNH HÌNH VÀ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ THIẾU MÁU THIẾU SẮT Ở PHỤ NỮ MANG THAI 3 THÁNG ĐẦU TẠI KHOA KHÁM BỆNH BỆNH VIỆN PHỤ SẢN THÀNH PHỐ CẦN THƠ NĂM 2018 Ngô Văn Dũng BV Phụ Sản TP Cần Thơ TÓM TẮT Đặt vấn đề: Thiếu máu trong thai kỳ là một trong những vấn đề được quan tâm nhiều trong thai kỳ, trong đó phần lớn thiếu máu là do thiếu sắt. Mục tiêu: Xác định tình hình và đánh giá kết quả điều trị thiếu máu thiếu sắt ở phụ nữ mang thai 3 tháng đầu. Phương pháp: nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 765 thai phụ mang thai 3 tháng đầu đến khám thai tại khoa Khám bệnh Bệnh viện Phụ Sản Cần Thơ từ tháng 5/2018- 3/2019 và can thiệp trên 87 thai phụ thiếu máu thiếu sắt bằng bổ sung viên uống Sulfat sắt khan có chứa 60mg sắt nguyên tố. Thiếu máu thiếu sắt được xác định khi Hb <11g/dl và ferritin huyết thanh <12ng/ml. Số liệu dược phân tích bằng phần mềm SPSS 22.0. Kết quả: Tỷ lệ thiếu máu ở thai phụ là 20,1%, trong đó thiếu máu nhẹ là 81,8%, thiếu máu vừa là 18,2%. Tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt là 11,4%. Tỷ lệ thiếu máu giảm từ 20,1% trước can thiệp còn 6,9% sau can thiệp, tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt giảm từ 11,4% trước can thiệp còn 5,7% sau can thiệp (p<0,001). Các đối tượng thiếu máu còn lại sau can thiệp chỉ ở mức độ nhẹ. Tỷ lệ kiến thức đúng về chăm sóc thai cho phụ nữ từ 4,6% trước can thiệp lên 92,0% sau can thiệp với p<0,05. Kết luận: Tỷ lệ thiếu máu ở thai phụ mamg thai 3 tháng đầu khá cao (20,1%). Bổ sung viên uống Sulfat sắt khan có hiệu quả trong giảm tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt, và can thiệp truyền thông giúp cải thiện kiến thức thai phụ sau can thiệp. Từ khóa: Thiếu máu, thiếu máu thiếu sắt A STUDY OF IRON DEFICIENCY AMONG THE FIRST 3 MONTHS PREGNANCY IN OUTPATIENT DEPARTMENTOF CAN THO GYNECOLOGY AND OBSTETRICS HOSPITAL IN 2018. Ngo van Dung, Le Thanh Tai Can Tho University of Medicine and Pharmacy ABSTRACT Introduction: Anemia is one of the most complications in pregnancy, the large majority of which is iron deficiency anemia. Objective: etermine and assess the treatment outcome of ion deficiency anemia in the first 3 months women. Methods: A cross-sectional descriptive 765 pregnant women in the first trimester of pregnancy attended antenatal care in Outpatient department of Can Tho Gynecology and Obstetrics hospital from May 2018 to March 2019 and intervened on 87 iron- deficiency anemia women by supplementing with anhydrous iron sulfate tablets containing 60mg of elemental iron. Iron deficiency anemia was determined when Hb <11g / dl and serum ferritin <12ng / ml. Data were analyzed using SPSS 22.0 software. Results: The rate of anemia in pregnant women was 20.1%, of which mild Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2020 Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 28 anemia was 81.8%, anemia was 18.2%. The prevalence of iron-deficiency anemia was 11.4%. The anemia rate decreased from 20.1% to 6.9% after the intervention, the rate of iron deficiency anemia decreased from 11.4% to 5.7% after the intervention (p <0.001). Subjects anemia remaining after intervention was only mild. The rate of correct knowledge about pregnancy care for women increased from 4.6% to 92.0% after intervention with p <0.05. Conclusion: The rate of anemia in pregnant women in the first trimester is quite high (20.1%). Supplementation of anhydrous iron sulfate supplements is effective for reducing the incidence of iron-deficiency anemia, and communication interventions help improve pregnant women knowledge after intervention. Keywords: Anemia, iron deficiency anemia ĐẶT VẤN ĐỀ Thiếu máu trong thai kỳ là một trong những vấn đề được quan tâm nhiều trong thai kỳ, trong đó phần lớn thiếu máu là do thiếu sắt. Thiếu máu thiếu sắt thai kỳ gây ảnh hưởng nghiêm trọng và lâu dài cho mẹ và thai nhi nhưng lại là một vấn đề có thể đánh giá và giải quyết một cách hiệu quả ít tốn kém. Bệnh viện Phụ sản thành phố Cần Thơ là bệnh viện công lập chuyên ngành sản phụ khoa của thành phố Cần Thơ, tiếp nhận bệnh nhân và thai phụ đến từ các tỉnh thuộc khu vực đồng bằng sông Cửu Long rất lớn nên việc đánh giá đúng và đầy đủ tình trạng thiếu máu thiếu sắt thai kỳ rất cần thiết nhằm tuyên truyền giáo dục, khuyến cáo dự phòng và điều trị cho thai phụ. Xuất phát từ lý do trên chúng tôi thực hiện đề tài với 2 mục tiêu: - Xác định tỷ lệ phụ nữ mang thai 3 tháng đầu thiếu máu và thiếu máu thiếu sắt tại khoa khám Bệnh viện Phụ sản thành phố Cần Thơ năm 2018. - Đánh giá kết quả sau 3 tháng điều trị bổ sung viên sắt ở phụ nữ mang thai 3 tháng đầu có thiếu máu thiếu sắt tại khoa khám Bệnh viện Phụ sản thành phố Cần Thơ năm 2018. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Đối tượng nghiên cứu: Tất cả thai phụ mang thai 3 tháng đầu đến khám thai tại khoa Khám bệnh Bệnh viện Phụ sản thành phố Cần Thơ từ 05/2018 đến tháng 03/2019 Tiêu chuẩn chọn mẫu: Thai phụ 3 tháng đầu thai kỳ (tính theo kết quả siêu âm 3 tháng đầu thai kỳ) cư trú tại thành phố Cần Thơ và đồng ý tham gia nghiên cứu. Tiêu chuẩn loại trừ: thai phụ mắc bệnh bệnh tim, suy gan, lao, suy thận mạn, các bệnh ác tính kèm theo, nhiễm trùng, sốt rét. 2.2. Phương pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu: cắt ngang mô tả Cỡ mẫu: Mục tiêu 1: 2 1 /2 2 . 1 n= Z p p d Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2020 Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 29 Với α=0,05; p=0,176 [3] và d=0,04. Nhân với hiệu lực tiếu kế DE=2, cỡ mẫu lấy tròn 765 thai phụ. Mục tiêu 2: chọn mẫu tất cả thai phù được chẩn đoán thiếu máu thiếu sắt ở mục tiêu 1, thực tế nghiên cứu trên 87 Phương pháp chọn mẫu: chọn mẫu thuận tiện Nội dung nghiên cứu: Thiếu máu thiếu sắt được xác định khi Hb <11g/dl và ferritin huyết thanh <12ng/ml [3]. Mức độ thiếu máu nhẹ khi Hb từ 10-10,9 g/dl; thiếu máu trung bình: 7-9,9 g/dl; thiếu máu nặng: <7g/dl. Đánh giá kết quả can thiệp: can thiệp trên các thai phụ thiếu máu thiếu sắt bằng bổ sung viên uống Sulfat sắt khan có chứa 60mg sắt nguyên tố, lần 1 viên, ngày 2 lần vào giữa các bữa ăn, liên tục trong vòng 3 tháng và kết hợp hướng dẫn và cung cấp kiến thức cho thai phụ về khám thai, các vấn đề liên quan thiếu máu, thiếu sắt. So sánh trước và sau can thiệp tỷ lệ và mức độ: thiếu máu, thiếu máu thiếu sắt và so sánh kiến thức trước và sau can thiệp. Phương pháp xử lý: số liệu dược phân tích bằng phần mềm SPSS 22.0 III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Nghiên cứu trên 765 thai phụ mang thai 3 tháng đầu với Nhóm tuổi từ 18-35 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất (88,5%), tiếp đến là nhóm trên 35 tuổi (10,2%) và thấp nhất là nhóm dưới 18 tuổi (1,3%). Dân tộc Kinh chiếm 89,8% và chủ yếu là nội trợ chiếm (47,6%), 3.1. Tình hình thiếu máu, thiếu máu thiếu sắt Bảng 3.1. Tình hình thiếu máu của thai phụ Thiếu máu Tần số (n) Tỷ lệ (%) Có 154 20,1 Không 611 79,9 Tổng 765 100,0 Có 154 đối tượng nghiên cứu thiếu máu chiếm tỷ lệ 20,1% và 611 đối tượng không thiếu máu chiếm 79,9%. Trong đó, thiếu máu do thiếu sắt chiếm 56,5%. Bảng 3.2. Mức độ thiếu máu của thai phụ Mức độ thiếu máu n % Nhẹ 126 81,8 Trung bình 28 18,2 Tổng 154 100,0 Thiếu máu ở mức độ nhẹ chiếm 81,8%, thiếu máu ở mức độ trung bình chiếm 18,2% và không có trường hợp nào thiếu máu nặng. Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2020 Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 30 Bảng 3.3. Tình hình thiếu máu thiếu sắt của thai phụ Thiếu máu thiếu sắt n % Có 87 11,4 Không 678 88,6 Tổng 765 100,0 Tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt là 11,4%. 3.2. Kết quả điều trị thiếu máu thiếu sắt ở phụ nữ mang thai 3 tháng đầu Bảng 3.4. Tình hình thiếu máu ở phụ nữ trước và sau can thiệp Thiếu máu Trước can thiệp Sau can thiệp n % n % Có 154 20,1 6 6,9 Không 611 79,9 81 93,1 Tổng 765 100,0 87 100,0 p <0,001** **: McNemar Test. Sau can thiệp, thiếu máu chiếm tỷ lệ 6,9% và 81 đối tượng không thiếu máu chiếm 93,1%. Bảng 3.5. Mức độ thiếu máu trước và sau can thiệp Mức độ thiếu máu Trước can thiệp Sau can thiệp n % n % Nhẹ 126 81,8 6 100,0 Trung bình 28 18,2 0 0,0 Tổng 87 100,0 6 100,0 p <0,001** **: McNemar Test. Tỷ lệ thiếu máu nhẹ chiếm 81,8% và thiếu máu vừa chiếm 18,2% trước can thiệp, sau can thiệp tất cả các đối tượng thiếu máu đều thuộc mức độ nhẹ. Bảng 3.6. Tình hình thiếu máu thiếu sắt ở phụ nữ mang thai 3 tháng đầu sau can thiệp Thiếu máu thiếu sắt Trước can thiệp Sau can thiệp n % n % Có 87 11,4 5 5,7 Không 678 88,6 82 94,3 Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2020 Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 31 Tổng 765 100,0 87 100,0 p <0,001** CSHQ 50% **: McNemar Test. Sau can thiệp: thiếu máu thiếu sắt chiếm tỷ lệ 5,7% và 82 đối tượng không thiếu máu thiếu sắt chiếm tỷ lệ 94,3%. Chỉ số hiệu quả can thiệp là 50%. Bảng 3.7. Kiến thức về chăm sóc thai đúng của đối tượng trước và sau can thiệp Kiến thức đúng về chăm sóc thai Trước can thiệp Sau can thiệp n % n % Cần đi khám thai ít nhất 3 lần 669 87,5 86 98,9 Ăn thêm khi có thai 678 88,6 86 98,9 Lao động, nghỉ ngơi hợp lý 639 83,5 82 94,3 Các đối tượng hay thiếu máu 27 3,5 79 90,8 Các biểu hiện của thiếu máu 603 78,8 85 97,7 Các ảnh hưởng của thiếu máu 59 7,7 83 95,4 Các biện pháp phòng, chống thiếu máu 22 2,9 80 92,0 Biết viên sắt 618 80,8 82 94,3 Thời điểm uống viên sắt 645 84,3 84 96,6 Tác dụng của viên sắt 57 7,5 86 98,9 Biện pháp tăng cường hấp thu sắt 60 7,8 87 100,0 Kiến thức chung đúng ** 35 4,6 80 92,0 p <0,016** **: McNemar Test. Sau can thiệp, kiến thức chung đúng về chăm sóc thai là 92,0%. Kiến thức đúng chiếm tỷ lệ cao nhất là biết các biện pháp làm tăng cường hấp thu sắt (100,0%) và kiến thức đúng về các đối tượng hay thiếu máu có tỷ lệ thấp nhất (90,8%). IV. BÀN LUẬN 4.1. Tình hình thiếu máu, thiếu máu thiếu sắt ở thai phụ Tỷ lệ thiếu máu là 20,1%, ở trong khoảng thiếu máu có ý nghĩa sức khỏe cộng đồng mức trung bình theo phân loại của Tổ chức Y tế thế giới, trong đó tỷ lệ thiếu máu do thiếu sắt chiếm 56,8%. Tương tự với kết quả nghiên cứu của Đoàn Thị Nga [9], Nguyễn Đăng Trường [14], Nguyễn Thị Mỹ Loan [7]. Thấp hơn kết quả đánh giá thực hiện Chiến lược quốc gia về dinh dưỡng giai đoạn 2011-2015 (32,8%) [2]; Đặng Thị Hà (62,5%) [5], Hồ Thu Mai (26,7%) [8]. Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2020 Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 32 Tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt là 11,4%. Tương tự nghiên cứu của Nguyễn Quang Dũng [4]. Thấp hơn nghiên cứu của Đoàn Thị Nga [10], Nguyễn Thị Phương Thanh [13]. Tuy cùng thực hiện trên đối tượng là thai phụ nhưng trong nghiên cứu của chúng tôi thực hiện trên đối tượng là những thai phụ mang thai 3 tháng đầu. Mức độ thiếu máu chủ yếu ở mức độ nhẹ chiếm 81,8%, còn lại 18,2% các đối tượng thiếu máu ở mức độ trung bình. Tương tự nghiên cứu của Phạm Văn An [1], Nguyễn Đăng Trường [14]. Tuy nhiên có sự chênh lệch nhưng không nhiều với nghiên cứu của tác giả Ngô Thị Kim Phụng [12]. Sự khác biệt giữa các nghiên cứu trên có thể do khác nhau về địa điểm, thời gian và đối tượng nghiên cứu. Điều đáng chú ý là thiếu máu nhẹ thường không có biểu hiện lâm sàng vì thế hầu như các đối tượng nghiên cứu của chúng tôi cũng như cán bộ y tế ở địa bàn nghiên cứu không để ý, quan tâm đến. Trong khi đó, thiếu máu nhẹ là nguy cơ tiềm tàng cho sức khỏe, bệnh tật, đặc biệt đối với phụ nữ tuổi sinh đẻ thiếu máu còn là nguy cơ cho cuộc đẻ và sự sống còn của trẻ sơ sinh và trẻ em. Vì vậy việc khám, xét nghiệm sàng lọc là rất quan trọng nhằm phát hiện sớm thiếu máu và có giải pháp phòng và điều trị thích hợp. 4.2. Kết quả điều trị thiếu máu thiếu sắt ở phụ nữ mang thai 3 tháng đầu Sau 3 tháng điều trị bổ sung viên sắt cho ở phụ nữ mang thai 3 tháng đầu có thiếu máu thiếu sắt chúng tôi ghi nhận được sự khác biệt về tỷ lệ thiếu máu, mức độ thiếu máu, tỷ lệ thiếu máu và nồng độ hemoglobin và ferritin trước và sau can thiệp: Tỷ lệ thiếu máu giảm từ 20,1% trước can thiệp còn 6,9% sau can thiệp; tỷ lệ TMTS giảm từ 11,4% trước can thiệp còn 5,7% sau can thiệp (p<0,001); trước can thiệp ghi nhận có 81,8% thiếu máu ở mức độ nhẹ và 18,2% thiếu máu ở mức độ vừa và sau can thiệp không còn đối tượng nào thiếu máu ở mức độ vừa, chỉ còn lại các trường hợp thiếu máu ở mức độ nhẹ. Lê Minh Chính năm 2010 nghiên cứu thực trạng thiếu máu ở phụ nữ Sán Dìu trong thời kỳ mang thai tại huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên và hiệu quả của biện pháp can thiệp đã ghi nhận rằng hiệu quả can thiệp đã làm giảm 27,3% tỷ lệ thiếu máu [3]. Nghiên cứu của Hồ Thu Mai năm 2013 trên đối tượng là phụ nữ 20-35 tuổi tại 3 xã huyện Tân Lạc tỉnh Hòa Bình cho thấy rằng việc bổ sung viên sắt/folic đã cải thiện được tình trạng thiếu máu do thiếu sắt và dự trữ sắt của phụ nữ tuổi sinh đẻ ở 2 xã can thiệp. Tỷ lệ thiếu máu ở 2 nhóm can thiệp giảm xuống còn 3,3% và tỷ lệ TMTS là 0% [8], tác giả Trương Hồng Sơn cũng cho kết quả tương tự với việc bổ sung viên đa vi chất dinh dưỡng đã làm giảm tỷ lệ thiếu máu [11]. Một số nghiên cứu ngoài nước cũng cho thấy hiệu quả của việc bổ sung sắt như Mutaz và cộng sự với nghiên cứu điều trị sắt cho những thai phụ bị TMTS tại miền Bắc Pakistan với liều 200mg/ngày và liều 400mg/tuần được chia làm 2 lần, thời gian điều trị 12 tuần. Kết quả nhóm thai phụ được điều trị sắt bằng đường uống mỗi ngày cho thấy nồng độ Hb và nồng độ ferritin tăng hiệu quả hơn nhóm điều trị 2 lần/tuần với p<0,001[15]. Tuy nhiên, nghiên cứu của chúng tôi cũng ghi nhận một số tác dụng phụ khi điều trị can thiệp từ việc uống bổ sung viên sắt, có 2 tác dụng phụ thường gặp là tiêu chảy và táo bón với tỷ lệ bằng nhau 4,6%. Sau can thiệp truyền thông hướng dẫn và cung cấp kiến thức cho thai phụ về khám thai, các vấn đề liên quan thiếu máu, thiếu sắt, chúng tôi nhận thấy rằng có sự tăng lên đáng kể về tỷ lệ kiến thức đúng về chăm sóc thai. Tỷ lệ kiến thức đúng tăng từ Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2020 Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 33 4,6% trước can thiệp lên 92,0% sau can thiệp (p<0,001). Nghiên cứu của Hồ Thu Mai năm 2013 trên đối tượng là phụ nữ 20-35 tuổi tại 3 xã huyện Tân Lạc, Hòa Bình cho thấy rằng việc bổ sung viên sắt/folic kết hợp truyền thông giáo dục về phòng chống thiếu máu dinh dưỡng có hiệu quả tốt hơn trong cải thiện tình trạng dinh dưỡng và dự trữ sắt của phụ nữ tuổi sinh đẻ [8]. V. KẾT LUẬN Tỷ lệ thiếu máu ở thai phụ là 20,1%, trong đó thiếu máu nhẹ là 81,8%, thiếu máu vừa là 18,2% và không có thiếu máu mức độ nặng. Tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt là 11,4%. Sau 3 tháng điều trị bổ sung viên sắt cho ở phụ nữ mang thai 3 tháng đầu có thiếu máu thiếu sắt. Tỷ lệ thiếu máu giảm từ 20,1% trước can thiệp còn 6,9% sau can thiệp, tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt giảm từ 11,4% trước can thiệp còn 5,7% sau can thiệp (p<0,001). Các đối tượng thiếu máu còn lại sau can thiệp chỉ ở mức độ nhẹ. Tỷ lệ kiến thức đúng về chăm sóc thai cho phụ nữ từ 4,6% trước can thiệp lên 92,0% sau can thiệp với p<0,05.. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Phạm Văn An và Cao Ngọc Thành (2010), "Thực trạng thiếu máu ở phụ nữ mang thai tại huyện Củ Chi, thành phố Hồ Chí Minh, năm 2008", Tạp chí Y học thực hành, 728(7), tr. 81-85. 2. Bộ Y tế (2018), Kế hoạch hành động quốc gia về Dinh dưỡng đến năm 2020, Bộ Y tế, Quyết định số 718/QĐ-BYT. 3. Lê Minh Chính (2010), Nghiên cứu thực trạng thiếu máu ở phụ nữ Sán Dìu trong thời kỳ mang thai tại huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên và hiệu quả của biện pháp can thiệp, Trường Đại học Thái Nguyên, Luận án tiến sĩ Y học. 4. Nguyễn Quang Dũng (2015), "Thiếu máu thiếu sắt ở phụ nữ tuổi sinh đẻ người H'Mông tại một số xã thuộc huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng", Tạp chí nghiên cứu Y học, 96(4), tr. 107-113. 5. Đặng Thị Hà (2011), "Điều trị thiếu sắt ở phụ nữ mang thai tại Việt Nam", Tạp chí Y học TP. Hồ Chí Minh, 15(4), tr. 50-55. 6. Đinh Thị Phương Hoa (2013), Tình trạng dinh dưỡng, thiếu máu và hiệu quả bổ sung sắt hàng tuần ở phụ nữ 20-35 tuổi tại huyện Lục Nam tỉnh Bắc Giang, Viện dinh dưỡng, Luận án tiến sĩ dinh dưỡng. 7. Nguyễn Thị Mỹ Loan (2017), Thực trạng thiếu máu ở phụ nữ mang thai và một số yếu tố liên quan tại 4 xã thuộc huyện Thới Lai, thành phố Cần Thơ năm 2017, Trường Đại học Y tế công cộng, Luận văn Thạc sĩ. 8. Hồ Thu Mai (2013), Hiệu quả can thiệp truyền thông giáo dục và bổ sung viên sắt acid folic lên cải thiện tình trạng dinh dưỡng và thiếu máu của phụ nữ 20-35 tuổi tại 3 xã huyện Tân Lạc tỉnh Hòa Bình, Viện dinh dưỡng, Luận án tiến sĩ dinh dưỡng cộng đồng. 9. Đoàn Thị Nga (2009), Tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt trong thai kỳ và các yếu tố liên quan tại Mỹ Tho, Tiền Giang, Luận văn Thạc sĩ Y khoa chuyên ngành Sản KhoaTrường Đại học Y dược TP. Hồ Chí Minh. Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2020 Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 34 10. Đoàn Thị Nga và Huỳnh Nguyễn Khánh Trang (2010), "Tỷ lệ thiếu máu trong thai kỳ và các yếu tố liên quan tại Mỹ Tho", Tạp chí Y học TP. Hồ Chí Minh, 14(1), tr. 259-264. 11. Trương Hồng Sơn và các cộng sự (2012), "Hiệu quả của bổ sung viên đa vi chất dinh dưỡng lên tình trạng thiếu máu và vi chất dinh dưỡng ở phụ nữ mang thai vùng Tây Bắc và Tây Nguyên", Tạp chí Y học thực hành, 829(7), tr. 27-30. 12. Ngô Thị Kim Phụng và Phạm Thị Đan Thanh (2011), "Tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt ở thai phụ ba tháng đầu thai kỳ tại Bạc Liêu", Tạp chí Y học TP. Hồ Chí Minh, 15(1), tr. 102-106. 13. Nguyễn Thị Phương Thanh (2018), Nghiên cứu tình hình thiếu máu thiếu sắt và các yếu tố liên quan ở phụ nữ mang thai 3 tháng cuối tại Khoa Khám của bệnh viện Phụ sản Cần Thơ năm 2017, Trường Đại học Y dược Cần Thơ, Luận văn cao học Y tế công cộng. 14. Nguyễn Đăng Trường (2016), Hiệu quả bổ sung Hebi Mam hoặc bổ sung đa vi chất dinh dưỡng để cải thiện tình trạng thiếu máu của phụ nữ có thai, Viện Dinh dưỡng, Luận án tiến sĩ dinh dưỡng. 15. A.Wali, A. Mushtaq and Nilofer (2002), "Compative study-efficacy, safety and compliance of intravenuos iron sucrose and intrmuscular iron sorbitol in irondeficiency anemia of pregnancy", J Pakistan Medical association, 186, pp. 518- 140.
File đính kèm:
nghien_cuu_tinh_hinh_va_ket_qua_dieu_tri_thieu_mau_thieu_sat.pdf

