Nghiên cứu thực trạng tuân thủ vệ sinh tay và đánh giá hiệu quả một số biện pháp can thiệp đến hành vi vệ sinh tay của nhân viên y tế tại Bệnh viện Quân Y 7A

Mục tiêu: Nghiên cứu thực trạng và hiệu quả của các biện pháp can thiệp nhằm

nâng cao kiến thức, tỷ lệ tuân thủ vệ sinh tay của NVYT. Đối tượng và phương pháp: 200

nhân viên y tế, gồm 39 bác sĩ, 161 điều dưỡng tại các khoa lâm sàng từ tháng 2/2018-

8/2018. Nghiên cứu mô tả cắt ngang, có so sánh trước và sau can thiệp, quan sát mô

tả trực tiếp việc thực hành rửa tay, điền vào mẫu phiếu điều tra có sẵn, phỏng vấn đối

tượng được quan sát. Kết quả: Trước can thiệp: Tỉ lệ tuân thủ vệ sinh bàn tay của Nhân

viên y tế: đối với Bác sĩ là 30,0%, điều dưỡng là 29,4%. Sau can thiệp:Tỉ lệ tuân thủ vệ

sinh bàn tay của Nhân viên y tế: đối với Bác sĩ là 30,0%, điều dưỡng là 29,4%. Kết luận:

Các biện pháp can thiệp đã giúp nâng cao kiến thức, tỷ lệ tuân thủ vệ sinh tay của nhân

viên y tế tại Bệnh viện Quân y 7A

pdf 9 trang phuongnguyen 220
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu thực trạng tuân thủ vệ sinh tay và đánh giá hiệu quả một số biện pháp can thiệp đến hành vi vệ sinh tay của nhân viên y tế tại Bệnh viện Quân Y 7A", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu thực trạng tuân thủ vệ sinh tay và đánh giá hiệu quả một số biện pháp can thiệp đến hành vi vệ sinh tay của nhân viên y tế tại Bệnh viện Quân Y 7A

Nghiên cứu thực trạng tuân thủ vệ sinh tay và đánh giá hiệu quả một số biện pháp can thiệp đến hành vi vệ sinh tay của nhân viên y tế tại Bệnh viện Quân Y 7A
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 16 - 12/2018 
88
1 Bệnh viện Quân y 7A/QK7
Người phản hồi (Corresponding): Nguyễn Thị Thanh Thủy ([email protected])
Ngày nhận bài: 10/10/2018, ngày phản biện: 25/10/2018
Ngày bài báo được đăng: 30/12/2018
NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG TUÂN THỦ VỆ SINH TAY VÀ 
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ MỘT SỐ BIỆN PHÁP CAN THIỆP ĐẾN 
HÀNH VI VỆ SINH TAY CỦA NHÂN VIÊN Y TẾ TẠI BỆNH 
VIỆN QUÂN Y 7A
Nguyễn Thị Thanh Thủy1
TÓM TẮT
Mục tiêu: Nghiên cứu thực trạng và hiệu quả của các biện pháp can thiệp nhằm 
nâng cao kiến thức, tỷ lệ tuân thủ vệ sinh tay của NVYT. Đối tượng và phương pháp: 200 
nhân viên y tế, gồm 39 bác sĩ, 161 điều dưỡng tại các khoa lâm sàng từ tháng 2/2018- 
8/2018. Nghiên cứu mô tả cắt ngang, có so sánh trước và sau can thiệp, quan sát mô 
tả trực tiếp việc thực hành rửa tay, điền vào mẫu phiếu điều tra có sẵn, phỏng vấn đối 
tượng được quan sát. Kết quả: Trước can thiệp: Tỉ lệ tuân thủ vệ sinh bàn tay của Nhân 
viên y tế: đối với Bác sĩ là 30,0%, điều dưỡng là 29,4%. Sau can thiệp:Tỉ lệ tuân thủ vệ 
sinh bàn tay của Nhân viên y tế: đối với Bác sĩ là 30,0%, điều dưỡng là 29,4%. Kết luận: 
Các biện pháp can thiệp đã giúp nâng cao kiến thức, tỷ lệ tuân thủ vệ sinh tay của nhân 
viên y tế tại Bệnh viện Quân y 7A.
Từ khóa: tuân thủ, vệ sinh tay.
RESEARCH ON STATUS IN COMPLIANCE HAND HYGIENE AND 
EFFICIENT ASSESSMENT OF INTERVENTIONS FOR HEALTHCARE 
WORKERS HAND HYGIENE AT 7A MILITARY HOSPITAL 
ABSTRACT
Objectives: To research the status and effectiveness of interventions to improve 
knowledge and compliance rates in hand gygiene of healthcare worker. Subjects: 
HỘI NGHỊ KHOA HỌC ĐIỀU DƯỠNG MỞ RỘNG LẦN I BỆNH VIỆN QUÂN Y 7A
89
200 healthcare workers, including 39 doctors, 161 nurses from clinical departments 
from February 2018 to August 8, 2018. Methods: A cross-sectional descriptive study, 
comparative before and after intervention, direct observation and description of 
hand-washing practice, fill-in questionnaires, and interviews with observed subjects. 
Results: The rate of hand hygiene compliance of the medical staff: the doctor is 30.0%, 
nurses is 29.4%. After the intervention, the rate of hand hygiene; the doctor is 30.0%, 
nursing is 29.4%. Conclusions: Interventions have helped improving the knowledge and 
compliance rates in hand hygiene of healthcare workers at the 7A Military Hospital. 
Keywords: compliance, hand hygiene.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo Tổ chức y tế thế giới (WHO) 
ước tính, ở bất cứ thời điểm nào cũng có 
khoảng 1,4 triệu người trên thế giới mắc 
NKBV. Năm 2007 tại Việt Nam, theo BYT 
tỷ lệ NKBV giao động từ 5,8% - 8,1% [5]. 
Nghiên cứu tại bệnh viện Bạch Mai năm 
2010 cho thấy, tỷ lệ bệnh nhân bị nhiễm 
khuẩn vết mổ là 6,7%, thời gian nằm viện 
trung bình tăng thêm 11,4 ngày, chi phí điều 
trị trung bình tăng 3,1 triệu đồng so với chi 
phí của bệnh nhân không mắc nhiễm khuẩn 
vết mổ [7].
Và đã có nhiều nghiên cứu cho thấy 
bàn tay NVYT là nguyên nhân chủ yếu 
nhất gây nên NKBV [10]. VST trước và 
sau khi tiếp xúc với mỗi bệnh nhân luôn 
được coi là biện pháp đơn giản và hiệu 
quả nhất, có thể làm giảm 50% nguy cơ 
NKBV ở người bệnh [7]. Tại Việt Nam, 
quy chế chống NKBV lần đầu tiên được 
BYT ban hành vào năm 1997 trong quyển 
quy chế bệnh viện kèm theo quyết định số 
1895/1997/BYT-QĐ. Nhiễm khuẩn bệnh 
viện (NKBV) đang trở thành vấn đề toàn 
cầu, là mối quan tâm hàng đầu của mọi hệ 
thống y tế trên Thế giới. NKBV có tác động 
rất lớn, làm gia tăng tần suất mắc bệnh, tăng 
chi phí điều trị, kéo dài thời gian nằm viện, 
tăng tỷ lệ tử vong tạo ra một số vi khuẩn 
kháng thuốc và làm xuất hiện những tác 
nhân gây bệnh mới [1]. NKBV gây hậu 
quả nặng nề cho bệnh nhân, bệnh viện và 
xã hội trên cả hai phương diện lâm sàng 
và kinh tế. Ngoài ra, NKBV còn làm tăng 
khả năng kháng thuốc, gây khó khăn cho 
điều trị. [8]. Tại bệnh viện, trong quá trình 
chăm sóc, điều trị bệnh nhân vi sinh vật 
gây bệnh có ở da, vết thương, dịch tiết cơ 
thể, quần áo, vật dụng sinh hoạt của người 
bệnh và của bản thân NVYT, qua yếu tố 
trung gian là bàn tay, có thể lan truyền đến 
mọi nơi mà bàn tay đụng chạm tới (bệnh 
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 16 - 12/2018 
90
nhân, NVYT, dụng cụ y tế, quần áo, vật 
dụng sinh hoạt). 
Với sự cam kết của BYT thông qua 
chương trình VST toàn cầu do WHO phát 
động. Trong 4 năm qua chương trình tăng 
cường VST đã được triển khai ở hầu hết 
các bệnh viện, tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn 
chế, việc tuân thủ VST trong các cơ sở y 
tế ở nước ta hiện nay chưa tốt. Bên cạnh lý 
do về kinh tế, kỹ thuật thì rào cản lớn nhất 
chính là nhận thức của nhà quản lý, của 
NVYT. Các hoạt động về truyền thông – 
giáo dục sức khỏe nhằm tuyên truyền tầm 
quan trọng cũng như những nguy cơ khi 
không tuân thủ VST còn rất hạn chế. 
Bệnh viện quân y 7A là bệnh viện đa 
khoa hạng 1 trực thuộc Cục Hậu cần quân 
khu 7, trong những năm qua, được sự quan 
tâm của cục quân y, cục hậu cần, bệnh viện 
đã có những thành tựu nhất định trong công 
tác khám chữa bệnh bảo vệ sức khỏe Quân 
nhân, nhân dân. Công tác phòng chống 
nhiễm khuẩn bệnh viện cũng được chú 
trọng phát triển, nhằm mục đích đẩy mạnh 
các hoạt động truyền thông về VST và xây 
dựng mô hình truyền thông thích hợp tại 
các khoa phòng trong bệnh viện hơn nữa, 
để nâng cao chất lượng khám chữa bệnh, 
giảm chi phí điều trị và số ngày nằm viện 
cho bệnh nhân, chúng tôi tiến hành nghiên 
cứu với mục tiêu:
1. Mô tả thực trạng kiến thức và tỷ lệ 
tuân thủ vệ sinh bàn tay của nhân viên y tế 
tại bệnh viện quân y 7A. 
2. Đánh giá hiệu quả một số biện 
pháp can thiệp đến hành vi vệ sinh tay của 
nhân viên y tế tại Bệnh viện Quân y 7A
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
2.1. Đối tượng: 
Nhân viên y tế trực tiếp khám chữa 
bệnh và chăm sóc người bệnh.
Tiêu chuẩn lựa chọn: bác sỹ và điều 
dưỡng, kỹ thuật viên tham gia vào quá 
trình chăm sóc người bệnh trong thời điểm 
điều tra tại các khoa lâm sàng, cận lâm 
sàng đồng ý tham gia nghiên cứu.
Tiêu chuẩn loại trừ: Nhân viên y tế 
từ chối tham gia nghiên cứu; Nhân viên y 
tế là những thành phần khác hoặc đang đi 
học, nghỉ thai sản, ốm.
2.4. Phương pháp 
Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô 
tả cắt ngang có so sánh trước và sau.
Thời gian nghiên cứu: từ tháng 
2/2018 đến tháng 8/2018 tại bệnh viện 
Quân y 7A
Phương pháp thu thập số liệu: quan 
sát mô tả trực tiếp việc thực hành rửa tay, 
điền vào mẫu phiếu điều tra chuẩn, phỏng 
vấn đối tượng được quan sát về kiến thức 
có liên quan. Đánh giá kiến thức và thái 
độ về VSBT của NVYT trước và sau can 
thiệp được thực hiện bằng phương pháp 
phát phiếu điều tra. 
Nghiên cứu được tiến hành theo 3 
HỘI NGHỊ KHOA HỌC ĐIỀU DƯỠNG MỞ RỘNG LẦN I BỆNH VIỆN QUÂN Y 7A
91
giai đoạn như sau:
- Giai đoạn 1: Đánh giá kiến thức, 
thái độ và tỷ lệ tuân thủ rửa tay của NVYT 
tại Bệnh viện (tháng 2- 3/2018).
- Giai đoạn 2: Can thiệp (tháng 4 - 
6/2015) với một số hoạt động chính như 
sau:
+ Hưởng ứng tháng hành động ”Vì 
sự sống hãy vệ sinh tay” do Bộ Y tế phát 
động vào ngày 5 tháng 5 hàng năm. Lãnh 
đạo các đơn vị ký cam kết.
+ Tổ chức tập huấn NVYT các kiến 
thức cơ bản về VSBT, tầm quan trọng của 
VSBT trong phòng ngừa NKBV: 4 buổi; 
hàng ngày tập huấn, đôn đốc, nhắc nhở tại 
chỗ NVYT không tuân thủ hoặc tuân thủ 
không đúng về quy trình VSBT; phát tờ rơi 
về quy trình rửa tay cho các NVYT, in và 
dán poster khổ lớn khuyến khích NVYT 
rửa tay tại các vị trí dễ nhìn. Những NVYT 
tuân thủ không đúng chỉ định và quy trình 
VSBT được giám sát viên hướng dẫn và 
yêu cầu thực hiện đúng quy định đồng thời 
thông báo kết quả.
+ Thống kê phương tiện vệ sinh tay 
trên các buồng bệnh, giường bệnh, xe tiêm, 
xe thủ thuật, buồng kỹ thuật,báo cáo đầu 
tư đầy đủ các trang thiết bị thiết yếu phục 
vụ công tác vệ sinh tay (cồn sát khuẩn tay, 
phương tiện VSBT, ). 
- Giai đoạn 3: Đánh giá sau can 
thiệp: Đánh giá kiến thức và tỷ lệ tuân thủ 
VST của NVYT tại Bệnh viện ( tháng 6 - 
7/ 2018).
+ Đánh giá tỷ lệ tuân thủ VST khi 
chăm sóc bệnh nhân được thực hiện bằng 
phương pháp quan sát điền vào bảng kiểm 
do nhân viên của khoa kiểm soát nhiễm 
khuẩn thực hiện. Thông tin liên quan tới 
công tác vệ sinh tay khi chăm sóc bệnh 
nhân được ghi lại theo mẫu phiếu thiết kế 
sẵn. 
+ Quan sát số cơ hội vệ sinh tay mà 
NVYT cần thực hiện, cơ hội vệ sinh tay 
được định nghĩa dựa trên 5 thời điểm phải 
vệ sinh tay khi chăm sóc bệnh nhân của Bộ 
Y tế năm 2007 [2].
+ Thời gian tiến hảnh giám sát vào 
hai thời điểm: Sáng (từ 8h – 10h), chiều 
(từ 14h – 16h).
Xử lý số liệu:
Các kết quả nghiên cứu được xử lý 
bằng phần mềm thông kê y học SPSS 16.0. 
Giá trị p < 0,05 được coi là có ý nghĩa 
thống kê.
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 16 - 12/2018 
92
3. KẾT QUẢ 
3.1. Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu: bác sĩ, điều dưỡng 
Bảng 3.1. Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu: bác sĩ, điều dưỡng (n= 200)
Thông tin chung N Tỷ lệ (%)
Nghề nghiệp
Bác sĩ 39 19,5
Điều dưỡng 161 80,5
Trình độ học vấn
Sau đại học 24 12,0
Đại học 30 15,0
Cao đẳng 22 11,0
Trung cấp 124 62,0
Giới
Nam 70 35,0
Nữ 130 65,0
Nhận xét: Phần lớn đối tượng nghiên cứu là điều dưỡng ( 80,5%), nữ giới (65%) 
và trình độ trung cấp 62%).
3.2. Kiến thức của nhân viên y tế về vệ sinh bàn tay
Bảng 3.2. Kiến thức của NVYT về VSBT (n=200)
Thời điểm
Kết quả khảo sát
pĐạt Không đạt 
n % n %
Trước can 
thiệp
(1)
BS (n= 39) 19 48,7 20 51,3
> 0,05
ĐD (n=161) 64 39,8 97 60,2
Cộng (n=200) 83 41,5 117 58,5
Sau can 
thiệp
( 2)
BS (n= 39) 27 69,2 12 30,8
> 0,05
ĐD (n=161) 100 62,1 61 39,6
Cộng (n=200) 127 63,5 73 36,5
P < 0,05
Nhận xét: Kết quả khảo sát cho thấy: kiến thức của NVYT về VSBT trước can 
thiệp còn thấp:bác sĩ (48,7%), điều dưỡng (39,8%). Kiến thức của NVYT về VST tăng 
HỘI NGHỊ KHOA HỌC ĐIỀU DƯỠNG MỞ RỘNG LẦN I BỆNH VIỆN QUÂN Y 7A
93
lên rõ rệt sau can thiệp là: điều dưỡng (62,1%) so với trước can thiệp là (39,8%), bác sĩ 
(69,2) so với trước can thiệp là (48,7%) khác biệt với p< 0,05.
3.3. Tỷ lệ NVYT trả lời đúng câu hỏi về trình tự các bước của quy trình rửa 
tay thường quy
Bảng 3.3. Tỷ lệ NVYT trả lời đúng câu hỏi về trình tự các bước của quy trình rửa 
tay thường quy
Thời điểm
Kết quả khảo sát
p
Đúng Sai 
n % n %
Trước can 
thiệp
(1)
BS (n= 39) 21 53,8 18 46,2
> 0,05ĐD (n=161) 66 41,0 95 59,0
Cộng ( n=200) 87 43,5 113 56,5
Sau can 
thiệp
( 2)
BS (n= 39) 29 74,4 10 15,6
> 0,05ĐD (n=161) 103 64,0 58 36,0
Cộng (n=200) 132 66,0 68 34,0
p < 0,05
Nhận xét: Tỷ lệ NVYT làm đúng 6 bước quy trình rửa tay trước can thiệp còn thấp: 
điều dưỡng (41,0%), sau can thiệp tăng lên rõ rệt (64,0%).Tỉ lệ này trước can thiệp của 
bác sĩ là (53,8%) sau can thiệp tăng lên 74,4%. Khác biệt có ý nghĩa với P < 0,05.
3.4. Tỷ lệ tuân thủ VSBT của NVYT trước và sau can thiệp. 
Bảng 3.4. Tỷ lệ tuân thủ VSBT của NVYT trước và sau can thiệp
Đối 
tượng
Trước can thiệp Sau can thiệp
P
Số cơ 
hội
Quan 
sát
Số lần có 
VST(%)
Tuân thủ
đúng quy 
trình(%)
Số cơ 
hội
Quan 
sát
Số lần có 
VST(%)
Tuân thủ
đúng quy 
trình(%)
Bác sĩ 500 150(30,0) 53(35,3) 500 250(50,0) 138(55,2) P< 
0,05
Đ. dưỡng 1700 500(29,4) 141(28,2) 1700 800(47,1) 380(47,5)
P< 
0,05
Cộng 2200 650(29,5) 194(29,8) 2200 1050(47,7) 518(49,3) P< 
0,05
Nhận xét: Tỷ lệ tuân thủ VSBT của 
nhân viên y tế các biện pháp can thiệp đã 
cải thiện rõ rệt ý thức chấp hành VST của 
NVYT sau can thiệp lần lượt là Bác sĩ: 
(50,0% và điều dưỡng 47,1%). Trong đó 
số tuân thủ đúng các bước của quy trình là 
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 16 - 12/2018 
94
rất thấp lần lượt là: Bác sĩ 55,2% và điều 
dưỡng 47,5%.Sự khác biệt có ý nghĩa với 
p < 0,05.
4. BÀN LUẬN 
Theo kết quả của nghiên cứu năm 
2000 của Pitter khi giám sát 2834 cơ hội 
rửa tay tại bệnh viện ở Thụy Sĩ, tỷ lệ tuân 
thủ chung của nhân viên y tế là 48%. Với 
các bệnh viện trong nước như Bệnh viện 
Bạch mai năm 2007 là 14,1%; năm 2011 
là 50,5% bệnh viện Chợ rẫy năm 2010 tỷ 
lệ tuân thủ vệ sinh tay là 25,7%. Bệnh viện 
Trung ương Huế năm 2010 là 46,6%. Như 
vậy, kết quả điều tra của chúng ta còn chậm 
nhưng cũng cho thấy sự tiến bộ rõ nét của 
việc tuân thủ vệ sinh tay trong quá trình 
thực hành chăm sóc, điều trị người bệnh.
Trong những năm gần đây, Bộ Y tế, 
ngành quân y đã phát động phong trào 
VST ở cả bệnh viện và cộng đồng. Tại 
Bệnh viện quân y 7A, cũng đã có nhiều 
biện pháp thúc đẩy VSBT như: tổ chức 
các buổi tập huấn, xem video clip, nghe 
các bài giảng về VSBT cho NVYT, tăng 
cường số lượng các vị trí rửa tay, cung cấp 
hóa chất sát khuẩn tay nhanh, giám sát sự 
tuân thủ rửa tay và phản hồi lại với các 
NVYT để họ biết và tuân thủ tốt. Tuy nhiên 
Kết quả khảo sát của chúng tôi tại bảng 3.1 
cho thấy thông tin chung đối tượng nghiên 
cứu ở đây chủ yếu chúng tôi thực hiện lấy 
phần lớn là Điều dưỡng là (80,5%), Bác sĩ 
(19,5%), nữ giới (65%) và trình độ trung 
cấp (62 %),tỉ lệ là Điều dưỡng chiếm cao 
là nhóm đối tượng thực hiện các công tác 
chăm sóc nhiều hơn, nhưng cũng có mặt 
hạn chế vì còn trẻ nên kinh nghiệm thực tế 
chưa có, chưa nhận thức được hết tầm quan 
trọng của rửa tay vì vậy lãnh đạo khoa cần 
phải thường xuyên nhắc nhở.Tại bảng 3.2 
cho thấy kiến thức của NVYT về VSBT 
trước can thiệp còn thấp: bác sĩ (48,7%), 
điều dưỡng (39,8%). Kiến thức của NVYT 
về VST tăng lên rõ rệt sau can thiệp là: 
điều dưỡng (62,1%) so với trước can thiệp 
là (39,8%), bác sĩ (69,2) so với trước can 
thiệp là (48,7%). Trong đó hầu hết các 
NVYT đều đồng ý rửa tay là lựa chọn tốt 
nhất để giảm sự lây truyền của các nhân tố 
gây nhiễm khuẩn có liên quan đến chăm 
sóc y tế. Tại bảng 3.3 cho thấy tỷ lệ NVYT 
trả lời đúng 6 bước quy trình rửa tay trước 
can thiệp còn thấp: điều dưỡng (41,1%), 
sau can thiệp tăng lên rõ rệt (64,0%). Bác 
sĩ (53,8%),sau can thiệp(74,4%). Kết quả 
nghiên cứu của chúng tôi cũng phù hợp 
với nhiều nghiên cứu của các tác giả khác: 
Theo Kiều Chí Thành (2013), nhận thức 
về VST của điều dưỡng Viện Quân Y 103 
chỉ đạt (57%), chưa nêu chính xác 5 thời 
điểm rửa tay[7]. Theo Tạ Thị Phương 
(2011), trước can thiệp có 59,5% NVYT 
ở điều tra đạt yêu cầu về kiến thức VSBT, 
tỷ lệ trả lời đúng về 6 bước của quy trình 
thường quy chỉ đạt 18,4% và tỷ lệ tuân thủ 
rửa tay là 53,2%[5].Tại bảng 3.4 cho thấy 
tỷ lệ tuân thủ VST của NVYT trước can 
thiệp đối với đối tượng là Bác sĩ là 30,0%, 
tuân thủ đúng quy trình là 35,3% sau can 
thiệp 50%,tuân thủ đúng quy trình 55,2%.
Đối tượng Điều dưỡng trước can thiệp là 
29,4% và tuân thủ đúng quy trình là 28,5% 
sau can thiệp 47,1%, tuân thủ đúng quy 
trình 49,3%. Kết quả trên cũng cho chúng 
ta thấy phù hợp với các nghiên cứu của 
một số đơn vị như: Viện Bỏng Quốc Gia 
trước can thiệp (28,9%) đạt thấp hơn so 
HỘI NGHỊ KHOA HỌC ĐIỀU DƯỠNG MỞ RỘNG LẦN I BỆNH VIỆN QUÂN Y 7A
95
với một vài nghiên cứu trong nước và càng 
thấp hơn nữa so với tỷ lệ ở các nước có nền 
y học tiên tiến.
Một nghiên cứu năm 2000 của Piter 
tỷ lệ tuân thủ VST là 48%[8], Bệnh viện 
Chợ Rẫy là 43,4 % [7]. Bệnh viên TW Huế 
là 51,5%[4].Tỷ lệ VST thấp một phần do 
phương tiện VST thiếu, đặc biệt là do nhân 
viên Y tế chưa ý thức được vai trò của VST 
trong Kiểm soát nhiễm khuẩn bệnh viện.
Kết quả này phù hợp với tình trạng 
chung ở nước ta qua nghiên cứu của Bộ Y 
tế ( 2006)[2], chỉ có khoảng 10% NVYT 
tuân thủ quy trình VST, đó là một trong 
những nguyên do của tình trạng nhiễm 
khuẩn bệnh viện tới mức báo động ở Việt 
nam.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi 
cho thấy, Bác sĩ là đối tượng có kiến thức, 
kỹ năng và tỷ lệ tuân thủ rửa tay tốt hơn 
vì thường xuyên được bồi dưỡng kiến 
thức về VST, tham dự các buổi tập huấn 
... Trước thực trạng kiến thức và sự tuân 
thủ VST của NVYT chưa cao, Nhân viên 
khoa KSNK đã tiến hành các biện pháp 
can thiệp bao gồm:Bổ sung đầy đủ các 
trang thiết bị thiết yếu phục vụ công tác 
VST (Giá treo, cồn sát khuẩn tay), tổ chức 
tập huấn NVYT các kiến thức cơ bản về 
VSBT, tầm quan trọng của VSBT trong 
phòng ngừa NKBV, giám sát trực tiếp sự 
tuân thủ VST của NVYT khi chăm sóc, 
tiêm truyền cho bệnh nhân và giám sát 
tuân thủ rửa tay khi thay băng,thực hiện 
các kỹ thuật thăm khám Người bệnh từ đó 
có sự nhắc nhở, hướng dẫn trực tiếp về quy 
trình VST và tuân thủ 5 thời điểm VST cho 
NVYT, đồng thời cũng báo cáo với chỉ huy 
khoa nắm được để có thể nhắc nhở NVYT 
tại khoa.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, kiến 
thức và tỷ lệ tuân thủ quy trình rửa tay 
thường quy của NVYT đã tăng rõ rệt sau 
can thiệp. kiến thức của NVYT về VSBT 
trước can thiệp còn thấp: bác sĩ (48,7%), 
điều dưỡng (39,8%). Kiến thức của NVYT 
về VST tăng lên rõ rệt sau can thiệp là: 
điều dưỡng (62,1%) so với trước can thiệp 
là (39,8%), bác sĩ (69,2%) so với trước can 
thiệp là (48,7%) (p< 0,05). Tỷ lệ NVYT 
trả lời đúng 6 bước quy trình rửa tay trước 
can thiệp còn thấp: điều dưỡng (41,0) sau 
can thiệp tăng lên rõ rệt (64,0%). Bác 
sĩ (53,8%) sau can thiệp tăng lên rõ rệt 
(74,4%). Khác biệt có ý nghĩa với P < 0,05, 
về tỷ lệ tuân thủ VST của NVYT trước và 
sau can thiệp lần lượt là 29,5% và 47,7%, 
số tuân thủ đúng quy trình tăng từ 28,9% 
lên 49,3% ( p < 0,05). Kết quả nghiên cứu 
của chúng tôi là hoàn toàn phù hợp với 
nghiên cứu của các tác giả khác như Tạ 
Thị Phương ( 2011)[5]. Điều này cho thấy 
cần phải được tập huấn cho NVYT một 
cách liên tục và có sự giám sát chặt chẽ về 
sự tuân thủ VSBT của NVYT trong thăm 
khám và thực hiện kỹ thuật,chăm sóc bệnh 
nhân.
5. KẾT LUẬN
Kiến thức của NVYT về VSBT còn 
thấp, kiến thức của NVYT về VSBT trước 
can thiệp còn thấp: bác sĩ (48,7%), điều 
dưỡng (39,8%). Kiến thức của NVYT về 
VST tăng lên rõ rệt sau can thiệp là: điều 
dưỡng (62,1%) so với trước can thiệp là 
(39,8%), bác sĩ 69,2%) so với trước can 
thiệp là (48,7%). Trong đó hầu hết các 
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 16 - 12/2018 
96
NVYT đều đồng ý rửa tay là lựa chọn tốt 
nhất để giảm sự lây truyền của các nhân 
tố gây nhiễm khuẩn có liên quan đến 
chăm sóc y tế, Tỷ lệ NVYT trả lời đúng 6 
bước quy trình rửa tay thường quy trước 
can thiệp còn thấp: điều dưỡng (41,0%), 
sau can thiệp tăng lên rõ rệt (64,0%),bác 
sĩ (53,8%), sau can thiệp tăng lên rõ rệt 
(74,4%). Tỷ lệ tuân thủ VST của NVYT 
trước can thiệp đối với đối tượng là Bác sĩ 
là 30,0%, tuân thủ đúng quy trình là 35,3% 
sau can thiệp 50%, tuân thủ đúng quy trình 
55,2%. Đối tượng Điều dưỡng trước can 
thiệp là 29,4% và tuân thủ đúng quy trình 
là 28,5% sau can thiệp là 47,1%, tuân thủ 
đúng quy trình 49,3%.
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Nguyễn Việt Hùng và cộng sự, 
“Đánh giá phương tiện, nhận thức, tuân 
thủ rửa tay ở nhân viên y tế tại 1 số cơ sở 
y tế ở Việt Nam”, Tạp chí y học thực hành, 
Bộ Y Tế, (518), tr.34-36.
2. Nguyễn Việt Hùng (2010), Vệ sinh 
tay trong phòng ngừa nhiễm khuẩn Bệnh 
Viện, Nhà xuất bản Y Học, Hà Nội. tr.58-
65
3. Nguyễn Việt Hùng ( 2001), 
“Chương trình kiểm soát nhiễm khuẩn 
tại Bệnh viện Bạch Mai”, Tài liệu đào tạo 
kiểm soát nhiễm khuẩn, Bệnh viện Bạch 
Mai, tr. 1- 2
4. Nguyễn Việt Hùng, Lê Thị Thanh 
Thủy (2008), “Thực trạng phương tiện vệ 
sinh bàn tay, nhận thức và thực hành vệ 
sinh tay của nhân viên y tế tại một số bệnh 
viện khu vực phía Bắc, 2005”, Tạp chí Y 
học lâm sàng, ( Số chuyên đề 6/2008), tr. 
136- 141.
5. Đặng Đăng Khoa, Nguyễn Việt 
Hùng (2008), “Nghiên cứu biểu hiện không 
mong muốn của hóa chất vệ sinh bàn tay 
sử dụng tại Bệnh viện Bạch Mai”, Tạp chí 
y học lâm sàng, số chuyên đề (6/2008),tr. 
156- 161.
6. Phạm Đức Mục và cộng sự (2001), 
“Giám sát NKBV tại 11 bệnh viện”, Tạp 
chí Y học thực hành, 2005.
7. Lục Thị Thu Quỳnh, Nguyễn Thị 
Hoài Thu, Lê Kiến Ngãi ( 2010), “ Hiệu 
quả của 1 số chương trình thúc đẩy tuân 
thủ VST tại bệnh viện Nhi Trung Ương 
năm 2010”, Tạp chí Y học lâm sàng, số 
chuyên đề (5/2010), tr. 101- 108.
8. Võ Thị Hồng Thoa, Lê Thị Anh 
Thư (2011), “Tuân thủ thực hành KSNK tại 
bệnh viện Chợ Rẫy-hiệu quả của chương 
trình tăng cường đào tạo và giám sát”, Tạp 
chí y học thực hành, BYT (904), tr. 07- 11.
9. Boyce JM et al (1990), “ A 
common source outbreak of Staphylococus 
epidermidis infections among patients 
undergoing cardiac surgery”, Journal of 
Infectious Diseases, (161), pp.493- 499.
10. Casewell M, Phillips I, (1977), 
“ Hands as route of transmission for 
Klebsiella species”, Br. Med. J. Vol.2, pp. 
1315 – 1317.
11. Center for Disease control end 
Privention (1990), “ Public health burden 
of vaccine preventable disease among 
adults: Standards for adult immunization 
practice”, MMWR, Vol.42, pp.725 – 729.

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_thuc_trang_tuan_thu_ve_sinh_tay_va_danh_gia_hieu.pdf