Nghiên cứu thực trạng sử dụng thuốc lá tại 4 quận huyện thành phố Hải Phòng
Hút thuốc lá đang trở thành vấn đề sức khỏe toàn cầu. Phòng chống tác hại
thuốc lá những năm gần đây được chính phủ quan tâm, triển khai nhiều hoạt động.
Nghiên cứu thực trạng sử dụng thuốc lá tại Hải Phòng năm 2014 cho thấy: Tỷ lệ
đang hút thuốc lá ở nam giới là 44,1%, ở nữ là 1,46%; Tỷ lệ hút thuốc trong
nhóm có trình độ học vấn thấp (tiểu học, trung hoạc cơ sở, trung học phổ thông)
cao hơn ở nhóm có trình độ học vấn cao (trung cấp, cao đẳng, đại học); Tỷ lệ
người dân hút thuốc thụ động là 42,5%, trong đó hút thuốc thụ động tại nơi công
cộng chiếm tỷ lệ cao nhất là 37% với mức độ thỉnh thoảng là 60%.
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu thực trạng sử dụng thuốc lá tại 4 quận huyện thành phố Hải Phòng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu thực trạng sử dụng thuốc lá tại 4 quận huyện thành phố Hải Phòng
66 NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG SỬ DỤNG THUỐC LÁ TẠI 4 QUẬN HUYỆN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG Nguyễn Quang Chính, Phạm Thu Xanh, Phạm Ngọc Hùng, Ngô Quang Thành Trung tâm Truyền thông GDSK Hải Phòng Tóm tắt nghiên cứu Hút thuốc lá đang trở thành vấn đề sức khỏe toàn cầu. Phòng chống tác hại thuốc lá những năm gần đây được chính phủ quan tâm, triển khai nhiều hoạt động. Nghiên cứu thực trạng sử dụng thuốc lá tại Hải Phòng năm 2014 cho thấy: Tỷ lệ đang hút thuốc lá ở nam giới là 44,1%, ở nữ là 1,46%; Tỷ lệ hút thuốc trong nhóm có trình độ học vấn thấp (tiểu học, trung hoạc cơ sở, trung học phổ thông) cao hơn ở nhóm có trình độ học vấn cao (trung cấp, cao đẳng, đại học); Tỷ lệ người dân hút thuốc thụ động là 42,5%, trong đó hút thuốc thụ động tại nơi công cộng chiếm tỷ lệ cao nhất là 37% với mức độ thỉnh thoảng là 60%. 1. Đặt vấn đề Hút thuốc lá là nguyên nhân của 25 căn bệnh, trong đó có nhiều bệnh nguy hiểm như: ung thư phổi, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, nhồi máu cơ tim, xơ vữa động mạch và các bệnh khác. Người nghiện thuốc lá có nguy cơ tử vong cao gấp 2,5 đến 10 lần so với người không hút thuốc lá. Hút thuốc lá thụ động cũng là một nguy cơ lớn ảnh hưởng tới sức khỏe do khói tỏa ra từ đầu điếu thuốc lá đang cháy độc hại hơn khói thuốc lá do người hút thở ra. Gánh nặng chi phí y tế để điều trị các bệnh liên quan đến thuốc lá đang là một thách thức đối với nhiều quốc gia. Bên cạnh đó, thuốc lá còn gây ra những ảnh hưởng đến vệ sinh môi trường (ô nhiễm không khí trong nhà và ngoài trời), làm gia tăng hoạt động buôn lậu, gây ra nguy cơ cháy nổ. Trong những năm qua, thành phố Hải Phòng đã triển khai nhiều nội dung hoạt động phòng chống tác hại thuốc lá. Thực trạng hút thuốc, thói quen hút thuốc của cộng đồng là một vấn đề cần được quan tâm nghiên cứu. Do đó, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài “Nghiên cứu thực trạng sử dụng thuốc lá tại 4 quận huyện thành phố Hải Phòng”. 2. Mục tiêu nghiên cứu: Mô tả thực trạng sử dụng thuốc lá của người dân tại 4 quận huyện thành phố Hải Phòng. 67 3. Phương pháp nghiên cứu 3.1. Thiết kế nghiên cứu: Mô tả cắt ngang 3.2. Địa điểm, thời gian nghiên cứu - Địa điểm: 2 quận: Kiến An, Hồng Bàng; 2 huyện: An Dương, Tiên Lãng - Thời gian: Tháng 4- 5 năm 2014. 3.3. Đối tượng nghiên cứu: Người dân từ đủ 16 tuổi trở lên. 3.4. Công thức tính cỡ mẫu n= Z2(1- /2) p (1-p)/d2 Trong đó: n là cỡ mẫu nghiên cứu cần có p là tỉ lệ, lấy p= 0,238 (tỷ lệ hút thuốc chung của cộng đồng là 23,8%). Z là hệ số tin cậy khi α= 0.05 thì Z= 1.96 d= 0,05 : dự kiến sai lệch so với thực tế là 5% Vậy cỡ mẫu nghiên cứu cần có là 278, thực tế tiến hành nghiên cứu trên 4 quận huyện với 400 người, Mỗi quận huyện sẽ điều tra ngẫu nhiên 100 người. 3.5. Phương pháp chọn mẫu Mỗi quận, huyện chọn ngẫu nhiên 02 xã phường. Từ trạm y tế chọn hướng đi ngẫu nhiên bằng cách quay bút, chọn ngẫu nhiên hộ đầu tiên, sau đó đến các hộ kế tiếp theo cách cổng liền cổng. Mỗi hộ phỏng vấn 1 người (ưu tiên chủ hộ, nếu không chọn 1 người khác trên 16 tuổi). Nếu đi vắng thì điều tra bù ở các hộ liền kề sao cho đủ 50 phiếu/mỗi xã phường. 3.6. Phương pháp thu thập số liệu: phỏng vấn sử dụng bộ câu hỏi. 3.7. Phương pháp xử lý số liệu: Nhập và xử lý số liệu bằng chương trình Excel. 4. Kết quả nghiên cứu 29,514,25 56,25 Đang hút thuốc Chưa từng hút thuốc Đã bỏ thuốc Biểu đồ 1: Tình trạng hút thuốc lá trong cộng đồng 68 Tỷ lệ hiện đang hút thuốc lá là 29,5%; tỷ lệ chưa từng hút thuốc là 56,25%; tỷ lệ cho rằng đã bỏ thuốc là 14,25%. Tỷ lệ đang hút thuốc lá ở nam chiếm 44,1%, nữ 1,46%. Tỷ lệ hút thuốc ở nam cao hơn ở nữ, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Bảng 1: Tình trạng hút thuốc lá theo nhóm tuổi Tình trạng Độ tuổi Hút thuốc lá Không hút thuốc lá Tổng p Số lượng Tỷ lệ (%) Số lượng Tỷ lệ (%) Số lượng Tỷ lệ (%) 16-19 1 10,0 9 90,0 10 0,25 > 0,05 20-29 15 31,25 33 68,75 48 12,0 30-39 24 24,00 76 76,0 100 25,0 40-49 30 27,77 78 72,23 108 27,0 50-59 33 34,37 63 65,63 96 24,0 ≥ 60 15 65,22 23 60,52 38 0,75 Nhóm tuổi từ 20 - 60 là lứa tuổi lao động, nhưng cũng chiếm tỷ lệ hút thuốc cao so với các lứa tuổi khác. Nhóm tuổi từ 60 tuổi trở lên có tỷ lệ hút thuốc cao nhất (65,22%). Nhóm tuổi 16 – 19 tỷ lệ hút thuốc lá thấp nhất. Sự khác biệt về tỷ lệ hút thuốc lá giữa các nhóm tuổi không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05. Bảng 2: Tình trạng hút thuốc lá theo trình độ học vấn Tình trạng Học vấn Hút thuốc lá Không hút thuốc lá p Số lượng Tỷ lệ (%) Số lượng Tỷ lệ (%) Trên THPT 34 39,53 52 60,47 < 0,05 Dưới THPT 84 26,75 230 73,25 Tổng 118 29,5 282 70,5 69 Nhóm có trình độ thấp: tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông, tỷ lệ hút thuốc cao hơn nhóm có trình độ cao (trung cấp, cao đẳng, đại học). Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Bảng 3: Tình trạng hút thuốc lá theo nghề nghiệp Kết quả Nghề nghiệp Số điều tra Số hút thuốc Số đã bỏ Số chưa từng hút Tần số Tỷ lệ (%) Tần số Tỷ lệ (%) Tần số Tỷ lệ (%) Tần số Tỷ lệ (%) CC/VC 114 28,5 18 15,78 12 10,54 84 73,68 Nông dân 47 11,75 16 34,04 2 4,26 29 61,7 Công nhân 41 10,25 16 39,02 9 21,96 16 39,02 Thợ 38 9,5 20 52,63 7 18,42 11 28,95 Học sinh/SV 14 3,5 3 21,42 2 14,3 9 64,28 Buôn bán nhỏ 74 18,5 21 28,37 11 14,86 42 56,77 Hưu 26 6,5 8 30,76 8 30,76 10 38,48 Thất nghiệp 30 7,5 10 33,33 5 16,67 15 50,0 Khác 16 4 6 37,5 1 6,25 9 56,25 Tổng 400 100 118 29,5 57 14,25 225 56,25 Đối tượng tham gia nghiên cứu là viên chức lao động chiếm tỷ lệ cao 28,5%, nhóm thợ lao động chân tay và nhóm thất nghiệp có tỷ lệ hút thuốc khá cao tương ứng 52,63% và 33,33%; nhóm nghỉ hưu là nhóm có tỷ lệ bỏ thuốc cao nhất với 30,76%; Học sinh sinh viên và nhóm công chức viên chức là nhóm có tỷ lệ không hút thuốc cao nhất với 64,28% và 73,68%. Bảng 4: Tỉ lệ hút thuốc theo khu vực Kết quả Khu vực Hút thuốc lá Không hút thuốc lá P Số lượng Tỷ lệ (%) Số lượng Tỷ lệ (%) Thành thị (n=200) 56 28,0 144 72,0 > 0,05 Nông thôn (n=200) 62 31,0 138 69,0 Tổng 118 29,5 282 70,5 70 Tỷ lệ hút thuốc ở nông thôn (31%) cao hơn so với thành thị (28%), nhưng không đáng kể. Tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05. Nhận định về mức độ hút thuốc thụ động: 42,5% số người được hỏi cho rằng mình có hút thuốc thụ động. Trong cộng đồng, tỷ lệ hút thuốc thụ động tại nơi làm việc là 20,75% thấp hơn so với tại nơi công cộng là 37%, ở nhà là 27,5%. Trong các hoàn cảnh khác nhau hút thuốc thụ động khác nhau, nhưng đối tượng điều tra cho rằng mình hút thuốc thụ động thường xuyên là 31,76%; thỉnh thoảng là 60,0% và hiếm khi là 8,24%. Có tới 66,1% số người đang hút thuốc muốn bỏ thuốc, nhưng vẫn còn 33,9% không muốn bỏ thuốc. 80,76% 51,28% 47,43% 42,3% 10,25% 0 20 40 60 80 100 Hại sức khỏe Làm gương Ảnh hưởng Tốn kém Quy định Biểu đồ 2: Lý do muốn bỏ thuốc lá Lý do chính mà họ muốn bỏ là: do có hại với sức khỏe 80,76%, tiếp đến làm gương cho con cháu là 47,43%, tốn kém kinh tế 42,30%. Tuy nhiên muốn bỏ do quy định của pháp luật chỉ chiếm 10,25%. Những người đang hút thuốc không muốn bỏ thuốc với lý do chính là do khó bỏ thuốc lá và khó cai thuốc lá với 55%. 5. Bàn luận Kết quả nghiên cứu chúng tôi cho thấy: tỷ lệ đang hút thuốc lá ở nam giới chiếm 44,1%, nữ 1,46%. So sánh với nghiên cứu của Trịnh Văn Hiệp nghiên cứu đối tượng từ 15-49 tuổi tại Hồ Chí Minh năm 2011, tỉ lệ đã từng hút thuốc của nam 68,3%, nữ 2,3%; tỷ lệ hiện còn hút thuốc của nam 42,9%, nữ 1,7%. So sánh với điều tra GATS 2010, tỷ lệ hút thuốc lá ở nam là 47,4%, nữ 1,46% thì kết quả nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ đang hút thuốc ở nam giới (44,1%) và nữ giới(1,46%) thấp hơn. Có thể là do hoạt động can thiệp tại Hải Phòng trong thời 71 gian qua: tuyên truyền phổ biến kiến thức hoặc do tác động của Luật phòng chống tác hại thuốc lá. Trong nghiên cứu của chúng tôi, nhóm tuổi từ 20 đến 60 là lứa tuổi lao động nhưng cũng chiếm tỷ lệ hút thuốc cao so với các lứa tuổi khác. Đặc biệt là nhóm tuổi từ 60 tuổi trở lên có tỷ lệ hút thuốc cao hơn các nhóm lứa tuổi khác. Nhóm thanh niên 16-19 tuổi(10%), cũng như nhóm 20-29 tuổi( 31,25%) hút thuốc thấp hơn các nhóm tuổi khác, điều này có thể nhờ tuyên truyền trong thời gian qua. Nhóm trình độ thấp thì tỷ lệ hút thuốc lá (39,53%) cao hơn nhóm có trình độ cao (26,75%). Theo nghiên cứu của Lê Ngọc Trọng, Trần Thu Thủy, Đào Ngọc Phong và cộng sự thì tỷ lệ chung của tình trạng hút thuốc theo trình độ học vấn ở Việt Nam ở nhóm học vấn cấp I, II là 47,5%; ở nhóm từ cấp III trở lên là 34,7%. Mặc dù có sự khác nhau nhưng kết quả này phù hợp với năng lực trình độ sẽ giúp cộng đồng có kiến thức thái độ và thực hành các hành vi có lợi cho sức khỏe và tránh xa thói quen có hại cho sức khỏe. Theo GATS 2010, tỷ lệ bị phơi nhiễm với khói thuốc lá tại nhà là 67,6% và tại nơi làm việc là 49%. Như vậy, tỷ lệ thường xuyên tiếp xúc với khói thuốc lá thụ động ở nước ta rất cao. Tổ chức Y tế thế giới khuyến cáo: nên thực hiện các khu vực 100% không khói thuốc lá vì đây là cách duy nhất để bảo vệ sức khoẻ của tất cả mọi người khỏi tác hại của khói thuốc lá. Nhận định về mức độ hút thuốc thụ động theo nghiên cứu của chúng tôi là thấp hơn: 42,5% số người được hỏi cho rằng mình có bị hút thuốc thụ động, trong đó hút thuốc thụ động tại nơi làm việc là 20,75%, tại nơi công cộng là 37%, ở nhà là 27,5%. Nghiên cứu thấy 66,1% số người đang hút thuốc muốn cai bỏ thuốc lá. Kết quả này cao hơn kết quả nghiên cứu của Trịnh Văn Hiệp tại Hồ Chí Minh: 47,6 % số người đang hút thuốc muốn bỏ thuốc với lí do nhiều nhất là có hại sức khỏe chiếm 67,3% và nghiên cứu của Lê Ngọc Trọng và Cs: ảnh hưởng sức khỏe 75,1%; do vợ khuyên 17,4%. 6. Kết luận - Tỷ lệ đang hút thuốc lá ở nam giới là 44,1%, nữ 1,46%. Tỷ lệ hút thuốc ở nam cao hơn ở nữ có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. - Nhóm trình độ thấp (tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông) hút thuốc cao hơn nhóm có trình độ cao (trung cấp, cao đẳng, đại học) có ý nghĩa thống kê với p< 0,05. 72 - Tỷ lệ hút thuốc ở nông thôn (31%) cao hơn so với thành thị (28%), sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05. - Nhận định về mức độ hút thuốc thụ động: 42,5% số người được hỏi cho rằng mình hút thuốc thụ động, trong đó hút thuốc thụ động tại nơi công cộng chiếm tỷ lệ cao nhất là 37% với mức độ thỉnh thoảng 60%. - Lý do chính mà người nghiện thuốc muốn cai bỏ là: do có hại với sức khỏe 80,76%, làm gương cho con cháu là 47,43%, tốn kém kinh tế 42,30%. 7. Khuyến nghị - Ban ngành thành phố cần tăng cường, duy trì: tuyên truyền phòng chống tác hại thuốc lá và Luật phòng chống tác hại thuốc lá; - Tăng cường tuyên truyền cho nhóm đối tượng trình độ thấp, ở khu vực nông thôn. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Y tế - Văn phòng Chương trình Phòng chống tác hại thuốc lá (2013), Thành phần và độc tính của khói thuốc lá, thuốc lá và nguy cơ ung thư. 2. Bộ Y tế - Văn phòng Tổ chức Y tế thế giới tại Việt Nam (2010), Điều tra toàn cầu về sử dụng thuốc lá ở người trưởng thành tại Việt Nam (GATS). 3. Công ước Khung về Kiểm soát thuốc lá (Framework Convention On Tobacco Control - FCTC), có hiệu lực ngay trong năm 2005. 4. Lý Ngọc Kính, Nguyễn Ngọc Khang, Đặng Huy Hoàng và Cs (2006), “Tổng quan về tình hình sử dụng thuốc lá và chương trình phòng chống tác hại thuốc lá ở Việt Nam”, Một số công trình nghiên cứu về kiểm soát thuốc lá ở Việt Nam giai đoạn 1999-2005,Tạp chí Y học thực hành, số 533, tr 5-11. 5. Quyết định số 229/ QĐ-TTg (2013), Chiến lược quốc gia phòng, chống tác hại thuốc lá đến năm 2020, tr 5, 6. 6. Huỳnh Bá Tân (1995), Nghiên cứu tình hình hút thuốc lá và các yếu tố liên quan tại quận Ngũ Hành Sơn thành phố Đà Nẵng, Nxb Thế giới, Hà Nội, tr 250. 7. Ngô Văn Toàn, Trần Thu Thủy, Đào Ngọc Phong và Cs (1999), “Thực trạng tiếp xúc bị động với khói thuốc lá và ảnh hưởng của nó đến tình trạng sức khỏe của nhân dân tại hai phường nội thành Hà Nội”, Một số kết quả điều tra về tình hình hút thuốc ở Việt Nam và các bệnh có liên quan, Nxb Y học Hà Nội, tr 30.
File đính kèm:
nghien_cuu_thuc_trang_su_dung_thuoc_la_tai_4_quan_huyen_than.pdf

