Nghiên cứu tạo rễ in vitro và giá thể ngoài vườn ươm của cây râu mèo (Orthosiphon aristatus)

TÓM TẮT

Cây Râu mèo hay cây Bông bạc (Orthosiphon aristatus) là vị thuốc Đông y có tác dụng điều trị

bệnh sỏi thận, hạ đường huyết, chữa viêm thận cấp tính và mãn tính, thống phong, thấp khớp, viêm

gan, đái tháo đường, chống lại tế bào ung thư Bài báo này trình bày kết quả nghiên cứu ảnh

hưởng của nhóm chất auxin và giá thể đến khả năng tạo rễ và cây Râu mèo hoàn chỉnh nhập từ

Lào nhằm góp phần xây dựng quy trình nhân giống in vitro để phát triển loài cây này ở Việt Nam.

Công thức môi trường thích hợp nhất cho sự tạo rễ cây Râu mèo là môi trường MS cơ bản + agar 9

g/l + sucrose 30 g/l +  -NAA 0,8 mg/l, với số rễ/chồi là 10,80 rễ, chiều dài trung bình của rễ là

5,21 cm sau 8 tuần nuôi cấy. Giá thể phù hợp để cây in vitro ra ngoài môi trường tự nhiên là đất thịt

trung bình + cát + trấu hun tỉ lệ 2:1:1.

Từ khóa: giá thể, IBA, NAA, Orthosiphon aristatus, tạo rễ.

pdf 6 trang phuongnguyen 4400
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu tạo rễ in vitro và giá thể ngoài vườn ươm của cây râu mèo (Orthosiphon aristatus)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu tạo rễ in vitro và giá thể ngoài vườn ươm của cây râu mèo (Orthosiphon aristatus)

Nghiên cứu tạo rễ in vitro và giá thể ngoài vườn ươm của cây râu mèo  (Orthosiphon aristatus)
 ISSN: 1859-2171 
e-ISSN: 2615-9562 
TNU Journal of Science and Technology 202(09): 93 - 98 
 Email: jst@tnu.edu.vn 93 
NGHIÊN CỨU TẠO RỄ IN VITRO VÀ GIÁ THỂ NGOÀI VƯỜN ƯƠM CỦA 
CÂY RÂU MÈO (Orthosiphon aristatus) 
Thongkham LAPHASY
1
, Phạm Thị Thanh Nhàn*2 
1Trường Cao đẳng Sư phạm Khangkhay, tỉnh Xiengkhoang, Lào 
2Trường Đại học Sư phạm – ĐH Thái Nguyên 
TÓM TẮT 
Cây Râu mèo hay cây Bông bạc (Orthosiphon aristatus) là vị thuốc Đông y có tác dụng điều trị 
bệnh sỏi thận, hạ đường huyết, chữa viêm thận cấp tính và mãn tính, thống phong, thấp khớp, viêm 
gan, đái tháo đường, chống lại tế bào ung thư Bài báo này trình bày kết quả nghiên cứu ảnh 
hưởng của nhóm chất auxin và giá thể đến khả năng tạo rễ và cây Râu mèo hoàn chỉnh nhập từ 
Lào nhằm góp phần xây dựng quy trình nhân giống in vitro để phát triển loài cây này ở Việt Nam. 
Công thức môi trường thích hợp nhất cho sự tạo rễ cây Râu mèo là môi trường MS cơ bản + agar 9 
g/l + sucrose 30 g/l + -NAA 0,8 mg/l, với số rễ/chồi là 10,80 rễ, chiều dài trung bình của rễ là 
5,21 cm sau 8 tuần nuôi cấy. Giá thể phù hợp để cây in vitro ra ngoài môi trường tự nhiên là đất thịt 
trung bình + cát + trấu hun tỉ lệ 2:1:1. 
Từ khóa: giá thể, IBA, NAA, Orthosiphon aristatus, tạo rễ. 
Ngày nhận bài: 02/6/2019;Ngày hoàn thiện: 21/6/2019; Ngày đăng: 15/7/2019 
STUDY ON CREATION OF IN VITRO ROOTS AND SUBSTRATES 
IN THE ARBORETUM OF Orthosiphon aristatus PLANTLETS 
Thongkham LAPHASY
1
 , Pham Thi Thanh Nhan
*2
1Khangkhay College of Education, Xiengkhoang province, Laos 
2University of Education - TNU 
ABSTRACT 
Orthosiphon aristatus is well- known for a popular medical plant with the uses to treat kidney 
stones, hypoglycemia, acute and chronic nephritis, gout, rheumatism, hepatitis , diabetes mellitus, 
cancer  This article presents the results of effects of auxin, substrates on root formation, growth 
and development of Orthosiphon aristatus from Laos in order to contribute to finding a in vitro 
multiplication process to develop this plant in Vietnam. The optimum medium fomula for the root 
formation of Orthosiphon aristatus is the basal MS medium supplemented with - NAA 0.8 mg/l, 
a number of roots per a shoot are 10,80, the medium length of a root is 5.21cm after 8 culturing 
weeks. The suitable medium for them to develope at the nursery stage before growing in the mass- 
production is medium soil: sand: burned husk with the ratio of 2: 1: 1. 
Keywords: IBA, NAA, Orthosiphon aristatus, root formation, substrate 
Received: 02/6/2019; Revised: 21/6/2019; Published: 15/7/2019 
* Corresponding author. Email: ptnhanbio@dhsptn.edu.vn 
Thongkham Laphasy và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 202(09): 93 - 98 
 Email: jst@tnu.edu.vn 94 
1. Đặt vấn đề 
Cây Râu mèo hay cây Bông bạc (Orthosiphon 
aristatus) là vị thuốc Đông y có tác dụng điều 
trị bệnh sỏi thận, tăng bài tiết, hạ đường 
huyết, chữa viêm thận cấp tính và mãn tính, 
thống phong, thấp khớp, thấp ngoài khớp, 
viêm gan, đái tháo đường [1], [2] Trong 
Râu mèo, các chất kali, orthosiphonin, 
mesoisonitol tác dụng lợi tiểu, làm tăng bài 
tiết chất cặn bã như urê, acid uric, Na+, Cl- 
và đặc biệt không làm mất kali nhiều như các 
thuốc lợi tiểu tây y [3], [4]. Stampoulis và 
cộng sự đã phát hiện ra chiết xuất methanol 
của O. stamineus có hoạt tính chống lại tế bào 
ung thư biểu mô, tế bào ung thư gan di căn 
26-L5, HT-1080 [3], [5]. 
Đã có nghiên cứu chứng minh flavonoid và 
axit phenolic được chiết xuất từ lá cây Râu 
mèo có liên quan đến hoạt động chống oxy 
hóa của cơ thể [3]. Tác dụng chống viêm và 
giảm đau của dịch chiết xuất lá O. stamineus 
đã được nghiên cứu trên động vật thí nghiệm 
[6]. Kết quả cho thấy có sự hiện diện của các 
hợp chất polyphenolics, glycosides, flavon 
lipophilic, dẫn xuất axit caffeic, triterpenes và 
diterpens [7], [8]. Adam và cộng sự [9] cho 
rằng O. stamineus có tác dụng giảm đau và 
không gây nghiện. 
Ở Việt Nam, Râu mèo phân bố rải rác ở vùng 
đồng bằng và miền núi như: Cao Bằng, Vĩnh 
Lộc, Ba Vì, Lâm Đồng, Tuy Hòa, Phan Rang, 
Phú Quốc Tuy nhiên, số lượng cây không 
đáp ứng đủ nhu cầu sử dụng. Theo Viện Dược 
liệu, hàng năm Việt Nam phải nhập khẩu 
hàng chục tấn cây Râu mèo từ Trung Quốc, 
Campuchia, Lào[10], [11]. Giá thị trường 
hiện nay khoảng 150000 đồng/Kg tươi. Bài 
báo này trình bày kết quả nghiên cứu tạo rễ in 
vitro và ra cây Râu mèo trên giá thể nhằm 
hoàn thiện quy trình nhân nhanh loài cây này 
ở Việt Nam. 
2. Phương pháp nghiên cứu 
2.1. Vật liệu và hóa chất nghiên cứu 
Mẫu cây Râu mèo được thu thập tại tỉnh 
Xiêng Khoảng, Lào và được trồng tại Vườn 
Thực nghiệm Sinh học, Trường Đại học Sư 
phạm Thái Nguyên. 
Các hóa chất như cồn, javen, axit benzoic, 
axit citric, thành phần môi trường MS0, 
sucrose, agar, than hoạt tính, các hóa chất 
điều hòa sinh trưởng BAP, kinetin có nguồn 
gốc từ Việt Nam, Trung Quốc, Merk. 
Các thiết bị chính dùng trong nghiên cứu gồm 
có: Nồi hấp khử trùng Tomy (Nhật Bản), tủ 
sấy (Đức), tủ lạnh (Nhật Bản), tủ cấy vô trùng 
esco (Singapore), cân điện tử (Đức). 
2.2. Phương pháp nghiên cứu 
Phương pháp tạo rễ và cây hoàn chỉnh: Môi 
trường được sử dụng: MS + đường sucrose 30 
g/l + agar 9 g/l + than hoạt tính 1 g/l và bổ 
sung thêm chất kích thích sinh trưởng (α-
NAA, IBA) với các nồng độ khác nhau (0,2; 
0,4; 0,6; 0,8 và l,0 mg/l), pH 5,8. Tất cả các 
thí nghiệm được tiến hành trong điều kiện 
nhiệt độ 25-27oC, thời gian chiếu sáng 
12/24h, cường độ chiếu sáng 2000 lux. Phương 
pháp: Cắt chồi ngọn của cây Râu mèo khoảng 
2-3 cm, cắt bớt lá, cấy vào môi trường đã 
chuẩn bị sẵn. Mỗi công thức cấy 30 chồi. Thí 
nghiệm được lặp lại 3 lần. Sau đó theo dõi sự 
phát triển của cây sau 4, 6 và 8 tuần. 
Phương pháp đưa cây in vitro ra vườn ươm: 
Trước khi đem cây in vitro ra trồng ngoài 
vườn ươm, bình cây được đặt trong điều kiện 
nhiệt độ phòng, bỏ nắp giấy và nút bông. Sau 
24 giờ, cây được lấy ra khỏi bình và được rửa 
sạch môi trường in vitro, đem trồng trong các 
bầu giá thể. Các bầu này được đặt nơi ánh 
sáng khuếch tán, thoáng mát, tưới đủ ẩm mỗi 
ngày. Mỗi loại giá thể trồng 30 cây. 
Phương pháp xử lý kết quả: Các số liệu thống 
kê được xử lý bằng phần mềm Excel theo 
Chu Văn Mẫn (với P< 0,05 và α= 0,05) [12]. 
Các thí nghiệm được thực hiện tại phòng thí 
nghiệm Công nghệ tế bào, Khoa Sinh học, 
Trường Đại học Sư phạm - ĐH Thái Nguyên. 
3. Kết quả và bàn luận 
3.1. Ảnh hưởng của auxin đến sự hình 
thành rễ cây Râu mèo 
Thongkham Laphasy và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 202(09): 93 - 98 
 Email: jst@tnu.edu.vn 95 
3.1.1. Ảnh hưởng của - NAA đến sự hình 
thành rễ cây Râu mèo 
Ra rễ là khâu cuối cùng của giai đoạn nghiên 
cứu in vitro. Chất kích thích sinh trưởng được 
dùng chủ yếu ở giai đoạn này thuộc nhóm 
auxin. IBA và α-NAA là những chất kích 
thích chủ yếu tác động lên quá trình phân chia 
tế bào và sự hình thành rễ. α-NAA là chất 
kích thích sinh trưởng thuộc nhóm auxin, có 
tác dụng làm tăng hô hấp của tế bào và mô 
nuôi cấy, tăng hoạt tính enzyme và ảnh hưởng 
mạnh đến trao đổi nito, tăng khả năng tiếp 
nhận và sử dụng đường trong môi trường nuôi 
cấy. α-NAA có tác dụng tạo rễ mạnh hơn các 
auxin khác. 
Các chồi khi đạt được chiều cao 2,0 - 4,0 cm 
được cấy chuyển sang môi trường MS cơ bản 
có bổ sung agar 9 g/l + sucrose 30 g/l+ - 
NAA với các nồng độ khác nhau. Đối chứng 
là môi trường MS cơ bản có bổ sung agar 9 
g/l + sucrose 30 g/l. Qua nghiên cứu chúng tôi 
thu được kết quả trình bày trong bảng 1.
Bảng 1. Ảnh hưởng của - NAA đến sự hình thành rễ cây Râu mèo 
Công thức Nồng độ NAA (mg/l) Số rễ/mẫu Chiều dài rễ (cm) Hình thái rễ Chất lượng rễ 
Sau 4 tuần 
ĐC 0 2,07±1,23 1,95±0,85 Mảnh, yếu + 
CT1 0,2 7,43±1,07 1,48±0,79 mập, khỏe ++ 
CT2 0,4 7,37±1,19 1,58±0,73 mập, khỏe ++ 
CT3 0,6 7,83±1,46 1,64±0,76 mập, khỏe +++ 
CT4 0,8 8,77±1,52 1,72±0,75 mập, khỏe +++ 
CT5 1 7,90±1,58 1,66±0,74 mập, khỏe ++ 
Sau 6 tuần 
ĐC 0 2,30±1,14 3,14±1,08 Mảnh, yếu + 
CT1 0,2 8,60±1,16 3,05±1,18 mập, khỏe ++ 
CT2 0,4 9,00±0,64 3,09±1,16 mập, khỏe ++ 
CT3 0,6 9,57±1,22 3,19±1,15 mập, khỏe +++ 
CT4 0,8 10,53±1,17 3,30±1,15 mập, khỏe +++ 
CT5 1 9,87±1,07 3,18±1,16 mập, khỏe ++ 
Sau 8 tuần 
ĐC 0 2,33±1,52 5,03±1,37 Mảnh, yếu + 
CT1 0,2 8,77±1,17 4,96±1,31 mập, khỏe ++ 
CT2 0,4 9,20±0,55 5,00±1,29 mập,, khỏe ++ 
CT3 0,6 9,83±0,99 5,08±1,30 mập, khỏe +++ 
CT4 0,8 10,80±1,03 5,21±1,29 mập, khỏe +++ 
CT5 1 10,03±0,96 5,10±1,30 mập, khỏe ++ 
(Ghi chú: chất lượng rễ tốt: +++; chất lượng rễ trung bình: ++; chất lượng rễ kém: +) 
 ĐC 0,6 mg/l 0,8 mg/l 
Hình 1. Ảnh hưởng của NAA đến sự tạo rễ của cây Râu mèo sau 8 tuần nuôi cấy 
Qua bảng 1 cho thấy nồng độ - NAA ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển rễ của cây Râu 
mèo trong nuôi cấy in vitro. Số chồi hình thành rễ, sỗ rễ/chồi cũng như chiều dài rễ tăng dần khi 
nồng độ - NAA tăng từ 0,4- 0,8 mg/l, khi nồng độ - NAA tiếp tục tăng thì số chồi hình thành rễ 
và số rễ/chồi giảm dần. Môi trường có bổ sung - NAA 0,8 mg/l cho hiệu quả cao nhất. Sau 4 tuần 
nuôi cấy, số rễ/chồi đạt 8,77, chiều dài rễ là 1,72 cm. Sau 6 tuần nuôi cấy, số rễ/chồi đạt 10,53,
Thongkham Laphasy và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 202(09): 93 - 98 
 Email: jst@tnu.edu.vn 96 
chiều dài rễ là 3,30 cm. Sau 8 tuần nuôi cấy, 
số rễ/chồi đạt 10,80, chiều dài rễ là 5,21 cm. 
Như vậy, môi trường bổ sung nồng độ NAA 
tối ưu cho sự hình thành và phát triển rễ của 
cây Râu mèo là môi trường MS cơ bản + agar 
9 g/l + sucrose 30 g/l + - NAA 0,8 mg/l, với 
số rễ/chồi là 10,80 rễ, chiều dài trung bình 
của rễ là 5,21cm. 
3.1.2. Ảnh hưởng của IBA đến sự hình thành 
rễ cây Râu mèo 
Cũng như thí nghiệm trên, thí nghiệm nghiên 
cứu sự ảnh hưởng của IBA đến khả năng hình 
thành rễ được tiến hành với các nồng độ khác 
nhau, kết quả thu được sau nuôi cấy 4, 6 và 8 
tuần được thể hiện trong bảng 2, hình 2. 
Từ kết quả trình bày ở bảng 2 cho thấy, tất cả 
các môi trường nghiên cứu đều hình thành rễ, 
tuy nhiên khả năng hình thành rễ của chồi cây 
Râu mèo khác nhau ở các môi trường khác 
nhau. Các môi trường có chất kích thích sinh 
trưởng IBA đều cho tỷ lệ chồi ra rễ cao hơn 
nhiều so với môi trường đối chứng (môi 
trường không có chất kích thích sinh trưởng 
IBA). Môi trường có bổ sung IBA 0,6 mg/l 
cho hiệu quả tạo rễ cao nhất. Sau 4 tuần nuôi 
cấy, số rễ/chồi đạt 6,63, chiếu dài rễ là 2,57 
cm. Sau 6 tuần nuôi cấy, số rễ/chồi đạt 7,20, 
chiều dài rễ là 4,26 cm. Sau 8 tuần nuôi cấy, 
số rễ/chồi đạt 7,33, chiều dài rễ là 6,16 cm. 
Như vậy, môi trường tối ưu cho sự hình thành 
và phát triển rễ của cây Râu mèo là môi trường 
MS cơ bản bổ sung agar 9 g/l + sucrose 30 g/l + 
IBA 0,6 mg/l, với số rễ/chồi là 7,33 rễ, chiều dài 
trung bình của rễ là 6,16 cm. 
 ĐC 0,4 mg/l 0,6 mg/l 
Hình 2. Ảnh hưởng của IBA đến sự tạo rễ của cây Râu mèo sau 8 tuần nuôi cấy 
Bảng 2. Ảnh hưởng của IBA đến sự hình thành rễ cây Râu mèo 
Công thức Nồng độ IBA (mg/l) Số rễ/mẫu Chiều dài rễ (cm) Hình thái rễ Chất lượng rễ 
Sau 4 tuần 
ĐC 0 2,07±1,23 1,95±0,85 mảnh, yếu + 
CT1 0,2 5,17±1,34 2,50±1,07 mảnh, yếu ++ 
CT2 0,4 5,93±1,60 2,65±1,06 mảnh, yếu ++ 
CT3 0,6 6,63±1,30 2,57±1,10 mảnh, khỏe +++ 
CT4 0,8 5,83±1,34 2,58±1,07 mảnh, khỏe +++ 
CT5 1,0 5,63±1,27 2,56±1,08 mảnh, yếu ++ 
Sau 6 tuần 
ĐC 0 2,30±1,14 3,14±1,08 mảnh, yếu + 
CT1 0,2 5,87±1,36 4,11±1,50 mảnh, yếu ++ 
CT2 0,4 6,77±1,19 4,24±1,50 mảnh, yếu ++ 
CT3 0,6 7,20±1,13 4,26±1,45 mảnh, khỏe +++ 
CT4 0,8 6,90±0,96 4,15±1,54 mảnh, khỏe +++ 
CT5 1,0 6,70±1,02 4,04±1,54 mảnh, yếu ++ 
Sau 8 tuần 
ĐC 0 2,33±1,52 5,03±1,37 mảnh, yếu + 
CT1 0,2 6,00±1,53 5,99±1,64 mảnh, yếu ++ 
CT2 0,4 6,90±1,30 6,13±1,64 mảnh, yếu ++ 
CT3 0,6 7,33±1,18 6,16±1,60 mảnh, khỏe +++ 
CT4 0,8 7,07±0,98 6,04±1,68 mảnh, khỏe +++ 
CT5 1,0 6,83±0,99 5,97±1,67 mảnh, yếu ++ 
(Ghi chú: chất lượng rễ tốt: +++; chất lượng rễ trung bình: ++; chất lượng rễ kém: +) 
Thongkham Laphasy và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 202(09): 93 - 98 
 Email: jst@tnu.edu.vn 97 
Khi so sánh môi trường nuôi cấy có bổ sung 
NAA 0,8 mg/l với môi trường nuôi cấy có bổ 
sung IBA 0,6 mg/l. Chúng tôi nhận thấy, sau 
8 tuần nuôi cấy, tỉ lệ mẫu tạo rễ, số rễ/mẫu ở 
môi trường bổ sung NAA 0,8 mg/l cao hơn so 
với môi trường nuôi cấy bổ sung IBA 0,6 
mg/l. Điều đó cho thấy, với ảnh hưởng riêng 
rẽ của NAA và IBA thì NAA 0,8 mg/l kích 
thích sự phát sinh rễ từ mẫu nuôi cấy của cây 
Râu mèo là đạt hiệu quả cao hơn so với IBA. 
3.2. Ảnh hưởng của giá thể đến sự sinh 
trưởng, phát triển của cây Râu mèo ngoài 
nhà lưới 
Lựa chọn giá thể thích hợp để đưa cây ra 
ngoài vườn ươm cũng là một khâu quan trọng 
trong quá trình nhân giống vô tính. Cây in 
vitro được nuôi trong điều kiện ổn định về 
nguồn dinh dưỡng, ánh sáng, nhiệt độ... Vì 
thế, trước khi đem cây ra trồng ngoài vườn 
ươm, ta đưa cây ra khỏi phòng cây đặt trong 
điều kiện nhiệt độ phòng bình thường, bỏ nắp 
giấy và nút bông, để khoảng 24h. Sau đó lấy 
cây ra khỏi bình, đem trồng trong các giá thể 
nghiên cứu. Trong thời gian cây con thích 
nghi với điều kiện môi trường (tối thiểu là 
khoảng 2-3 tuần), cây con cần được chăm sóc 
và bảo vệ cẩn thận. Các bầu này được cho vào 
các khay, đặt nơi ánh sáng khuếch tán, thoáng 
mát, tưới đủ ẩm mỗi ngày để cây con dần 
thích nghi với điều kiện bên ngoài. Kết quả 
thu được ở bảng 3 và hình 3. 
Qua bảng 3 cho thấy, giá thể CT1 có tỉ lệ cây 
sống là 60,00 %, và chiều cao là 3,83cm, lá 
cây màu xanh nhạt, có nhiều lá bị rụng, cây 
không phát triển thêm lá mới. Giá thể CT2 có 
tỉ lệ cây sống là 50,00% và chiều cao là 3,80 
cm. Giá thể CT3 có tỉ lệ cây sống là 60,00 %, 
và chiều cao là 3,83 cm, lá màu xanh đậm, 
cây xuất hiện lá mới. Giá thể CT4 có tỉ lệ cây 
sống là 70,00 %, và chiều cao là 3,86 cm, lá 
màu xanh đậm cây phát sinh thêm lá mới. 
Như vậy, giá thể phù hợp để cây in vitro ra 
ngoài môi trường tự nhiên là đất thịt trung 
bình + cát + trấu hun tỉ lệ 2:1:1. 
Bảng 3. Ảnh hưởng của giá thể đến cây trồng trong bầu sau 6 tuần 
Công thức Thành phần giá thể Tỉ lệ cây sống (%) Chiều cao cây (cm) Chất lượng cây 
CT1 Đất thịt trung bình 60,00 ± 0,52 3,83 ± 0,98 + 
CT2 Đất thịt trung bình + cát (2:1) 50,00 ± 0,53 3,80 ± 0,84 ++ 
CT3 Đất thịt trung bình + trấu hun (2:1) 60,00 ± 0,52 3,83 ± 0,98 +++ 
CT4 Đất thịt trung bình + trấu hun + cát (2:1:1) 70,00 ± 0,53 3,86 ± 0,90 +++ 
Ghi chú: (+): Lá cây chuyển màu xanh nhạt, có nhiều lá bị rụng, không phát triển thêm lá mới; (++): Lá 
màu xanh đậm, chưa xuất hiện lá mới; (+++): Lá màu xanh đậm, phát sinh thêm lá mới. 
 CT1 CT2 CT3 CT4 
Hình 3. Cây Râu mèo in vitro trên các giá thể sau 6 tuần 
4. Kết luận 
Công thức môi trường thích hợp nhất cho sự tạo rễ cây Râu mèo là môi trường MS cơ bản + agar 
9 g/l + sucrose 30 g/l + - NAA 0,8 mg/l, với số rễ/chồi là 10,80 rễ, chiều dài trung bình của rễ là 
5,21cm sau 8 tuần nuôi cấy. 
Giá thể phù hợp để cây in vitro ra ngoài môi trường tự nhiên là đất thịt trung bình + cát + trấu 
hun tỉ lệ 2:1:1. 
Thongkham Laphasy và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 202(09): 93 - 98 
 Email: jst@tnu.edu.vn 98 
Lời cám ơn 
Nhóm tác giả xin trân trọng cảm ơn sự hỗ 
trợ của Đề tài cấp Đại học mã số ĐH2018-
TN04-02. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. C. Maheswari, R. Maryammal, R. 
Venkatanarayanan, “Hepatoprotective activity of 
Orthosiphon stamineus on liver damage caused by 
paracetamol in rats”, Jordan J. Biol. Sci., 1, 
pp.105–108, 2008. 
[2]. M. F. Yam, R. Basir, M. Z. Asmawi, Z. 
Ismail, “Antioxidant and hepatoprotective effects 
of Orthosiphon stamineus Benth. standardized 
extract”, Am. J. Chin. Med., 35, pp.115–126, 
2007. 
[3]. S. Awale, Y. Tezuha, A. H. Banskota, K. 
Kouda, M. T. Kyaw, S. Kadota, “Five novel 
highly oxygenated diterpenes of Orthosiphon 
stamineus from Myanmar”, J. Nat. Prod., 64, pp. 
592–596. doi: 10.1021/np000607t, 2001. 
[4]. N. D. Yuliana, A. Khatib, A. M. Link-Struensee, 
A. P. Ijzerman, F. Rungkat-Zakaria, Y. H. Choi, R. 
Verpoorte, “Adenosine A1 receptor binding activity 
of methoxy flavonoids from Orthosiphon 
stamineus”, Planta Med., 75, pp.132–136, 2009. 
[5]. S. Awale, Y. Tezuka, A. H. Banskota, K. 
Kouda, K. M. Tun, S. Kadota, “Four highly 
oxygenated isopimaranetype diterpenes of 
Orthosiphon stamineus”, Planta Med., 68, pp. 
286–288, 2002. 
[6]. C. H. Ho, I. Noryati, S. F. Sulaiman, A. 
Rosma, “In vitro antibacterial and antioxidant 
activities of Orthosiphon stamineus Benth. 
extracts against food-borne bacteria”, Food 
Chem., 122, pp.1168–1172, 2010. 
[7]. H. B. Sahib, A. F. Aisha, M. F. Yam, M. Z. 
Asmawi, Z. Ismail, S. M. Salhimi, N. H. Othman, 
A. M. S. Abdul Majid, “Anti-angiogenic and 
antioxidant properties of Orthosiphon 
stamineus Benth. methanolic leaves extract”, Int. 
J. Pharmacol., 5, pp. 162–167. doi: 
10.3923/ijp.2009.162.167, 2009. 
[8]. M. F. Yam, M. Z. Asmawi, B. Rusliza, “An 
investigation of the anti-inflammatory and 
analgesic effects of Orthosiphon stamineus leaf 
extract”, J. Med. Food, 2, pp. 362–368. doi: 
10.1089/jmf.2006.065, 2008. 
[9]. Y. Adam, M. N. Somchit, M. R. Sulaiman, A. 
A. Nasaruddin, A. Zuraini, A. A. Bustamam, Z. A. 
Zakaria, “Diuretic properties of Orthosiphon 
stamineus Benth”, J. Ethnopharmacol, 124, pp. 
154–158, 2009. 
[10]. 
tiet/su-can-thiet-phat-trien-duoc-lieu-354-677.html 
[11]. 
thong-tieu-tru-soi-than-n87848.html 
[12]. Chu Văn Mẫn (2000), Ứng dụng tin học 
trong sinh học, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội. 

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_tao_re_in_vitro_va_gia_the_ngoai_vuon_uom_cua_cay.pdf