Nghiên cứu sức căng dọc cơ tim thất trái ở người lớn bình thường bằng phương pháp siêu âm đánh dấu mô speckle tracking 2D
TÓM TẮT
Siêu âm tim đánh dấu mô speckle tracking là
một kỹ thuật tương đối mới giúp định lượng sức
căng toàn bộ thất trái cũng như chức năng vùng thất
trái. Để ứng dụng các thông số đánh giá sức căng cơ
tim trong thực tế lâm sàng, cần có nghiên cứu về các
giá trị bình thường để tham chiếu.
Mục tiêu: Nghiên cứu sức căng dọc cơ tim ở
người lớn khoẻ mạnh bình thường và tìm hiểu mối
liên quan giữa sức căng dọc cơ tim thất trái với một
số thông số lâm sàng ở các đối tượng nghiên cứu này.
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu
được tiến hành trên 212 người lớn khoẻ mạnh,
bình thường, tuổi từ 20 đến 79 trong thời gian từ
tháng 12/2015 đến tháng 8/2016. Tất cả các đối
tượng nghiên cứu đều được hỏi tiền sử và các triệu
trứng, được thăm khám lâm sàng tỷ mỉ, làm các xét
nghiệm theo cùng một quy trình chuẩn để loại trừ
các bệnh lý ảnh hưởng đến cấu trúc và chức năng
tim.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu sức căng dọc cơ tim thất trái ở người lớn bình thường bằng phương pháp siêu âm đánh dấu mô speckle tracking 2D
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 81.2018 9 Nghiên cứu sức căng dọc cơ tim thất trái ở người lớn bình thường bằng phương pháp siêu âm đánh dấu mô speckle tracking 2D Nguyễn Thị Thu Hoài*, Phạm Nguyên Sơn**, Trần Hải Yến*, Đỗ Doãn Lợi* Viện Tim mạch Việt Nam* Bệnh vện Trung ương Quân đội 108** TÓM TẮT Siêu âm tim đánh dấu mô speckle tracking là một kỹ thuật tương đối mới giúp định lượng sức căng toàn bộ thất trái cũng như chức năng vùng thất trái. Để ứng dụng các thông số đánh giá sức căng cơ tim trong thực tế lâm sàng, cần có nghiên cứu về các giá trị bình thường để tham chiếu. Mục tiêu: Nghiên cứu sức căng dọc cơ tim ở người lớn khoẻ mạnh bình thường và tìm hiểu mối liên quan giữa sức căng dọc cơ tim thất trái với một số thông số lâm sàng ở các đối tượng nghiên cứu này. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu được tiến hành trên 212 người lớn khoẻ mạnh, bình thường, tuổi từ 20 đến 79 trong thời gian từ tháng 12/2015 đến tháng 8/2016. Tất cả các đối tượng nghiên cứu đều được hỏi tiền sử và các triệu trứng, được thăm khám lâm sàng tỷ mỉ, làm các xét nghiệm theo cùng một quy trình chuẩn để loại trừ các bệnh lý ảnh hưởng đến cấu trúc và chức năng tim. Siêu âm tim thường quy và siêu âm đánh dấu mô speckle tracking được tiến hành cho tất cả các đối tượng nghiên cứu trên máy siêu âm Vivid E9 (GE, Hoa Kỳ) có trang bị phần mềm đánh giá chức năng tim bằng phương pháp speckle tracking đánh giá sức căng dọc toàn bộ thất trái và sức căng từng vùng thất trái. Kết quả: 103 nam (48,6%) và 109 nữ (51,4%). 26,4% các đối tượng nghiên cứu tuổi từ 20 đến 29, 31,6% tuổi từ 30 đến 39, 16,5% tuổi từ 40 đến 49%, 15,5% tuổi từ 50 đến 59, 7,1% tuổi từ 60 đến 69, 2,8% tuổi từ 70 đến 79. Sức căng dọc cơ tim của các đối tượng nghiên cứu từ 15,2% đến 23,0%, trung bình là -19,9 ± 3,7(%). Sức căng dọc cơ tim trung bình ở nữ là -20,5 ± 2,5(%), sức căng dọc cơ tim trung bình ở nam là -19,8 ± 3,1 (%), không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nam và ở nữ (p > 0,05). Có sự khác biệt về sức căng dọc cơ tim ở các vùng cơ tim khác nhau: vùng mỏm (-22,6% ± 1,5%), vùng giữa (-18,5% ± 3,8%), vùng đáy (-16,3% ±1,1%) với sức căng dọc cơ tim thấp nhất ở vùng đáy tim, tăng dần lên ở vùng giữa tim và vùng mỏm tim (p<0,05). Sức căng dọc toàn bộ thất trái có mối tương quan tuyến tính nghịch mức độ vừa với cân nặng (r = -0,42, p<0,05) và với huyết áp tâm thu (r = -0,46, p<0,05). Kết luận: Sức căng dọc toàn bộ thất trái ở người NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 81.201810 lớn bình thường là từ 15,2% đến 23,0%, trung bình là -19,9 ± 3,7 (%). Sức căng dọc cơ tim trung bình ở nữ là -20,5 ± 2,5 (%). Sức căng dọc cơ tim trung bình ở nam là -19,8 ± 3,1 (%). Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về sức căng dọc cơ tim ở hai giới nam và nữ (p > 0,05). Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về sức căng dọc cơ tim trung bình các thành ở phần đáy so với phần giữa và so với phần mỏm, với sức căng giảm dần từ mỏm tới đáy (p < 0,05). Sức căng dọc toàn bộ thất trái có mối tương quan tuyến tính mức độ vừa với cân nặng (r = -0,42, p<0,05) và với huyết áp tâm thu (r = -0,46, p<0,05). Từ khoá: Sức căng dọc cơ tim, siêu âm đánh dấu mô cơ tim speckle tracking. ĐẶT VẤN ĐỀ Chức năng tâm thu thất trái là một yếu tố quan trọng trong theo dõi và tiên lượng bệnh nhân tim mạch. Một trong các phương pháp kinh điển vẫn được áp dụng trên lâm sàng là đánh giá phân số tống máu EF bằng phương pháp Simpson trên siêu âm tim 2D. Tuy nhiên, phương pháp này phụ thuộc vào kinh nghiệm của bác sĩ làm siêu âm nên chưa phải hoàn toàn khách quan. Siêu âm đánh dấu mô cơ tim speckle tracking 2D đánh giá sức căng cơ tim là một kỹ thuật tương đối mới có thể lượng hoá sự biến dạng của cơ tim trong thời kỳ tâm thu và tâm trương. Sức căng mô tả các thay đổi tương đối về chiều dài giữa hai trạng thái. Cho một vật với chiều dài ban đầu L0 được kéo dài hay nén lại được chiều dài mới là L, sức căng quy ước được định nghĩa bằng công thức Lagrangian. ε = L.Lo Lo Trong đó: ε: Sức căng Lo: Chiều dài ban đầu L: Chiều dài tức thời Sức căng cơ tim được cho là có ý nghĩa trong định lượng chức năng toàn bộ cũng như chức năng vùng thất trái(1). Việc ứng dụng các thông số đánh giá sức căng cơ tim trong thực tế lâm sàng đòi hỏi có các giá trị bình thường để tham chiếu. Trên thế giới, có một số tác giả đã nghiên cứu về giá trị bình thường của sức căng cơ tim. Ở Việt Nam, cho đến nay, chúng tôi chưa thấy có nghiên cứu nào về vấn đề này. Vì vậy, chúng tôi tiến hành đề tài: “Nghiên cứu sức căng dọc cơ tim ở người lớn bình thường bằng phương pháp siêu âm đánh dấu mô speckle tracking 2D” nhằm hai mục tiêu: 1. Nghiên cứu sức căng dọc cơ tim ở người lớn khoẻ mạnh bình thường. 2. Tìm hiểu mối liên quan giữa sức căng dọc cơ tim thất trái với một số thông số lâm sàng ở các đối tượng nghiên cứu này. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng Chúng tôi tiến hành nghiên cứu trên những người lớn khoẻ mạnh, bình thường, tuổi từ 20 đến 79, tình nguyện tham gia nghiên cứu. Tiêu chuẩn loại trừ: Chúng tôi không lấy vào nghiên cứu những người đang có bệnh nội khoa, những người có rối loạn nhịp tim và rối loạn dẫn truyền trên điện tâm đồ, những người có hình ảnh siêu âm mờ, và những người không đồng ý tham gia nghiên cứu. Phương pháp Tất cả các đối tượng nghiên cứu đều được hỏi tiền sử và các triệu trứng, được thăm khám lâm sàng tỷ mỉ, làm các xét nghiệm máu, chụp X-quang tim phổi, làm điện tâm đồ, làm siêu âm tim để loại trừ các bệnh lý ảnh hưởng đến cấu trúc và chức năng tim, đo chiều cao, cân nặng, đo huyết áp và nhịp tim theo cùng một quy trình chuẩn. Siêu âm tim thường quy được tiến hành để loại trừ các bất thường về cấu trúc và chức năng tim như phì đại thất trái, các rối loạn vận động vùng thành tim, các bệnh van tim, NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 81.2018 11 các bệnh tim bẩm sinh, các bệnh cơ tim, bệnh màng ngoài tim... - Phương tiện nghiên cứu: Máy siêu âm Vivid E9 (GE, Hoa Kỳ) có trang bị phần mềm đánh giá chức năng tim bằng phương pháp speckle tracking. - Quy trình thực hiện siêu âm speckle tracking: + Bước 1: Ghi hình động theo thứ tự mặt cắt 3 buồng, 4 buồng, 2 buồng trục dọc trong ít nhất 3 chu kỳ với tốc độ quét 60 - 100 ảnh/giây + Bước 2: Phân tích hình ảnh động bằng phần mềm AFI có sẵn trên máy siêu âm: Với mỗi mặt cắt, chọn 2 điểm ở vòng van hai lá và 1 điểm ở mỏm tim, sau đó máy sẽ tự động viền theo nội mạc tim, tuy nhiên cần phải điều chỉnh để có kết quả chính xác nhất. Sau đó máy sẽ tự động phân tích để tìm ra đỉnh sức căng dọc toàn bộ thất trái và đỉnh sức căng dọc của từng vùng trong thì tâm thu. Hình ảnh cuối cùng thu được gọi là hình ảnh bull’s eye. Toàn bộ thất trái được chia thành 17 vùng theo khuyến cáo của Hiệp hội Siêu âm Tim Hoa Kỳ(1). Hình 1. Minh hoạ phương pháp đánh giá sức căng cơ tim bằng siêu âm tim đánh dấu mô speckle tracking - Địa điểm tiến hành nghiên cứu: Viện Tim mạch Việt Nam - Bệnh viện Bạch Mai, Hà Nội. - Phương pháp xử lý số liệu: Bằng các thuật toán thống kê trên máy vi tính với phần mềm Stata 14.0. KẾT QUẢ Đặc điểm chung của các đối tượng nghiên cứu: Trong thời gian từ tháng 12/2015 đến tháng 8/2016, chúng tôi tiến hành nghiên cứu trên 212 người lớn từ 20 đến 79 tuổi. bao gồm 103 nam (48,6%) và 109 nữ (51,4%). Sức căng dọc cơ tim của các đối tượng nghiên cứu từ 15,2% đến 23,0%, trung bình là -19,9 ± 3,7 (%). Biểu đồ 1. Phân bố tuổi của các đối tượng nghiên cứu Nhận xét: 26,4% các đối tượng nghiên cứu tuổi từ 20 đến 29, 31,6% tuổi từ 30 đến 39, 16,5% tuổi từ 40 đến 49%, 15,5% tuổi từ 50 đến 59, 7,1% tuổi từ 60 đến 69, 2,8% tuổi từ 70 đến 79. Bảng 1. Một số đặc điểm lâm sàng và siêu âm tim thường quy của các đối tượng nghiên cứu Một số đặc điểm lâm sàng và siêu âm tim thường quy Kết quả Nữ n(%) hoặc X± SD Nam n(%) hoặc X±SD Giới 109 (51,4%) 103 (48,6%) Chiều cao (cm) 154,6 ± 7,8 162,5 ± 8,2 Cân nặng (kg) 51,5 ± 9,4 56,5 ± 10,2 Tần số tim (ck/phút) 72,2 ± 8,7 69,6 ± 9,4 Huyết áp tâm thu (mmHg) 116,5 ± 11,4 118,7 ± 16,4 Huyết áp tâm trương (mmHg) 71,7 ± 8,8 82,3 ± 7,1 Bề dày vách liên thất tâm trương (mm) 8,2 ± 1,6 8,7 ± 1,9 Bề dày thành sau thất trái tâm trương (mm) 7,9 ± 1,4 8,1 ± 1,7 NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 81.201812 Đường kính thất trái cuối tâm trương (mm) 45,1 ± 4,8 47,3 ± 3,9 Thể tích thất trái cuối tâm trương (ml) 97,7 ± 11,5 105,9 ± 21,6 Phân số tống máu thất trái EF (%) 63,9 ± 7,3 65,7 ± 10,2 Vận tốc sóng E van hai lá (cm/s) 74,5 ± 21,4 69,7 ± 19,5 Vận tốc sóng A van hai lá (cm/s) 52,6 ± 16,3 51,6 ± 16,7 Thời gian giảm tốc sóng E van hai lá (ms) 205,7 ± 56,3 214,5 ± 72,9 Thời gian giãn đồng thể tích thất trái (ms) 83,3 ± 21,6 98,1 ± 23,4 Vận tốc sóng E’ tại chân vòng van hai lá (cm/s) 7,5 ± 2,1 8,5 ± 2,3 Nhận xét: Trong số 212 các đối tượng nghiên cứu, tỷ lệ nam/nữ tương đương nhau (48,6%/51,4%). Các thông số về chiều cao, cân nặng, huyết áp và tần số tim đều trong giới hạn bình thường ở cả hai giới. Các thông số về kích thước và chức năng tim ở hai giới cũng đều trong giới hạn bình thường. Bảng 2. Kết quả sức căng dọc toàn bộ thất trái theo tuổi và giới Các nhóm Sức căng dọc toàn bộ thất trái (%) p Nữ Nam Ở người < 40 tuổi (nữ/nam: n=67/n=56) -21,7 ± 1,3 -20,9 ± 2,0 > 0,05 Ở người 40 - 59 tuổi (nữ/nam: n=32/n=36) -19,5 ± 1,5 -18,8 ± 1,6 > 0,05 Ở người > 60 tuổi (nữ/nam: n=10/n=11) -16,5 ± 1,2 -16,3 ± 1,1 > 0,05 Trung bình của tất cả các đối tượng nghiên cứu (nữ/nam: n=109/ n=103) -20,5 ± 2,5 -19,8 ± 3,1 > 0,05 Nhận xét: Sức căng dọc cơ tim trung bình ở nữ là -20,5 ± 2,5(%). Sức căng dọc cơ tim trung bình ở nam là -19,8 ± 3,1 (%). Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa sức căng dọc cơ tim ở nam và ở nữ (p > 0,05). Bảng 3. Kết quả sức căng dọc cơ tim theo từng vùng thất trái Vùng mỏm (%) Vùng giữa (%) Vùng đáy (%) Trung bình các vùng (%) Thành trước -21,7 ± 2,9 -19,5 ± 3,7 -18,7 ± 3,3 -19,5 ± 4,4 Vách liên thất trước -19,3 ± 3,2 -19,3 ± 2,9 -20,8 ± 2,1 -19,7 ± 3,5 Thành dưới -18,7 ± 3,2 -20,5 ± 2,5 -18,5 ± 3,7 -18,5 ± 3,2 Thành bên -21,5 ± 1,7 -20,7 ± 2,1 -18,6 ± 2,9 -20,7 ± 5,1 Thành sau -18,6 ± 2,8 -19,3 ± 2,7 -17,5 ± 3,1 -18,5 ± 4,2 Vách liên thất -17,5 ± 3,2 -17,4 ± 3,6 -16,7 ± 1,7 -17,2 ± 3,8 Trung bình các thành -22,6 ± 1,5 -18,5 ± 3,8 -16,3 ± 1,1* -18,9 ± 2,2 *p< 0,05 so sánh giữa vùng đáy với vùng giữa và vùng mỏm. Nhận xét: Có sự khác biệt về sức căng dọc cơ tim ở các vùng cơ tim khác nhau (mỏm, giữa, đáy). Sức căng dọc cơ tim thấp nhất ở vùng đáy tim, tăng dần lên ở vùng giữa tim và vùng mỏm tim (p<0,05). NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 81.2018 13 Bảng 4. Mối tương quan giữa sức căng dọc toàn bộ thất trái với một số thông số lâm sàng. Hệ số tương quan r p Chiều cao 0,12 >0,05 Cân nặng -0,42 0,012 Huyết áp tâm thu -0,46 0,023 Huyết áp tâm trương -0,17 >0,05 Tần số tim 0,18 >0,05 Nhận xét: Sức căng dọc toàn bộ thất trái có mối tương quan tuyến tính nghịch mức độ vừa với cân nặng (r = -0,42, p<0,05) và với huyết áp tâm thu (r = - 0,46, p<0,05). BÀN LUẬN Trong hơn một thập kỷ qua, sự phát triển của kỹ thuật siêu âm đánh dấu mô speckle tracking đã cho phép đánh giá sâu sắc những vận động cơ học của thất trái, sự thay đổi về sức căng cơ tim toàn bộ và từng vùng. Việc nghiên cứu về giá trị bình thường của sức căng cơ tim có ý nghĩa quan trọng trong thực hành lâm sàng và trong các nghiên cứu tim mạch. Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi gồm 212 người lớn bình thường, trong đó có 48,6% nam giới, 51,4% nữ giới. Tỷ lệ nam/nữ trong nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với tỷ lệ nam/nữ trong dân số Việt Nam(2,3). Phân bố tuổi các đối tượng nghiên cứu tuổi gồm 26,4% từ 20 đến 29, 31,6% tuổi từ 30 đến 39, 16,5% tuổi từ 40 đến 49%, 15,5% tuổi từ 50 đến 59, 7,1% tuổi từ 60 đến 69, 2,8% tuổi từ 70 đến 79. Phân bố tuổi trong nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với cơ cấu tuổi trong dân số Việt Nam năm 2016(4). Trong nghiên cứu của chúng tôi, sức căng dọc toàn bộ thất trái trung bình là 19,9 ± 3,7(%), nằm trong phạm vi từ 15,2% đến 23,0%. Nghiên cứu của Marwick cho thấy sức căng dọc cơ tim trung bình là -18,6 ± 0,1(%)(5). Nghiên cứu tổng phân tích của Yingchocharoen trên 2597 người bình thường qua 24 nghiên cứu cho thấy phạm vi bình thường của sức căng dọc toàn bộ thất trái từ 15,9% đến 22,1%(6). Như vậy, kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng tương tự với kết quả của các nghiên cứu trên thế giới. Trong nghiên cứu của chúng tôi, sức căng dọc toàn bộ thất trái ở nữ giới là -20,5 ±2,5 (%), ở nam giới là -19,8 ± 3,1 (%), không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa sức căng dọc cơ tim ở nam và ở nữ (p>0,05). Nghiên cứu tổng phân tích của Yingchocharoen trên 2597 người bình thường qua 24 nghiên cứu cũng cho thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về sức căng dọc cơ tim giữa nam và nữ(6). Một số nghiên cứu khác cho thấy chỉ có sự khác biệt chút ít về sức căng dọc cơ tim giữa hai giới, nữ cao hơn đôi chút so với nam(7). Để giải thích điều này, chúng tôi cho rằng các nghiên cứu sử dụng các hệ thống máy siêu âm khác nhau, phương pháp đánh giá cũng có khác nhau. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tuổi càng cao thì sức căng dọc cơ tim có xu hướng giảm dần ở cả hai giới. Tuy nhiên, do nhóm tuổi >60 có ít đối tượng nghiên cứu nên chúng tôi không đưa ra được sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Nghiên cứu HUNT tại Na Uy trên 1266 người khoẻ mạnh bình thường cho thấy sức căng dọc cơ tim giảm dần khi tuổi càng cao, dù đo bằng phương pháp siêu âm tim đánh dấu mô speckle tracking hay đo bằng phương pháp siêu âm Doppler mô cơ tim. Những thay đổi theo tuổi này là những thay đổi sinh lý, tương tự với những thay đổi về chức năng tâm trương, chức năng tâm thu thất trái đã được các nghiên cứu trước đây chứng minh qua các bằng chứng về biến đổi của đổ đầy thất, của vận tốc sóng E’, độ dịch chuyển vòng van hai lá theo tuổi(7,8). Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy có sự khác NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 81.201814 biệt có ý nghĩa thống kê về sức căng dọc cơ tim trung bình các thành ở phần đáy so với phần giữa và so với phần mỏm, với sức căng giảm dần từ mỏm tới đáy (p < 0,05). Kết quả của chúng tôi tương tự với kết quả của tác giả Marwick khi nghiên cứu trên 250 người bình thường (5). Các phương pháp đánh giá sức căng cơ tim khác nhau có thể cho kết quả khá khác nhau về sự đồng bộ về sức căng cơ tim từ mỏm đến đáy. Phương pháp cộng hưởng từ hạt nhân và phương pháp siêu âm đánh dấu mô speckle tracking đều cho thấy sức căng dọc cơ tim cao nhất ở phần mỏm và giảm dần về đáy tim. Phương pháp siêu âm Doppler mô cơ tim lại không cho thấy sự khác biệt về sức căng dọc cơ tim từ mỏm tới đáy, điều này có thể do sự phụ thuộc của sức căng cơ tim vào góc của chùm tia siêu âm khi đánh giá bằng siêu âm Doppler mô cơ tim(9,10). Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy có sức căng dọc toàn bộ thất trái có mối tương quan tuyến tính mức độ vừa với cân nặng (r = -0,42, p<0,05) và với huyết áp tâm thu (r = -0,46, p<0,05). Kết quả này cũng tương tự với kết quả của tác giả Marwick(5). KẾT LUẬN Qua nghiên cứu sức căng dọc cơ tim ở 212 người lớn bình thường từ 20 đến 79 tuổi gồm 103 nam (48,6%) và 109 nữ (51,4%), chúng tôi nhận thấy: 1. Sức căng dọc toàn bộ thất trái ở người lớn bình thường là từ 15,2% đến 23,0%, trung bình là -19,9 ±3,7 (%). Sức căng dọc cơ tim trung bình ở nữ là -20,5 ± 2,5 (%). Sức căng dọc cơ tim trung bình ở nam là -19,8 ± 3,1 (%). 2. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về sức căng dọc cơ tim ở hai giới nam và nữ (p > 0,05). Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về sức căng dọc cơ tim trung bình các thành ở phần đáy so với phần giữa và so với phần mỏm, với sức căng giảm dần từ mỏm tới đáy (p < 0,05). Sức căng dọc toàn bộ thất trái có mối tương quan tuyến tính mức độ vừa với cân nặng (r = -0,42, p<0,05) và với huyết áp tâm thu (r = -0,46, p<0,05). ABSTRACT Left ventricular segmental and global longitudinal strain based on 2D speckle tracking echocardiography in healthy adults Nguyen Thi Thu Hoai, Pham Nguyen Son, Tran Hai Yen, Do Doan Loi The definition of normal values of left ventricular longitudinal strain is of critical importance to the clinical application of this modality. Aims: To investigate global and regional left ventricular longitudinal strain in healthy adults and to study the relations between left ventricular longitudinal strain and some clinical parameters. Methods: From 12/2015 to 8/2016, 212 healthy adults were included. Detailed clinical and biochemical examination, standard echocardiography were performed in each individual to exclude any underlying pathology that could alter cardiovascular structure and function. Echocardiography was performed with GE Vivid E9 (USA), Speckle tracking echocardiography images were analyzed to assess global longitudinal strain and regional longitudinal strain by AFI software (GE, USA). Results: Male: 103(48,6%), female: 109 (51,4%). 26,4% aged 20-29, 31,6% aged 30-39, 16,5% aged 40-49, 15,5% aged 50-59, 7,1% aged 60-69, 2,8% aged 70-79 (years). Global longitudinal strain ranged from 15,2% to 23,0%, average global longitudinal strain of all subjects was -19,9 ± 3,7(%), there were no significant difference between male and female: male -19,8 ± 3,1 (%) vs. female -20,5 ± 2,5(%), (p>0,05). NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 81.2018 15 There were significant differences between means across basal (-16,3% ± 1,1%), middle (-18,5% ± 3,8%) and apical (-22,6% ± 1,5%) segments, (p<0,05). Global longitudinal strain correlated moderately with weight (r = -0,42, p<0,05) and with systolic blood pressure (r = -0,46, p<0,05). Conclusions: Global systolic strain (mean ± SD) was -18.6 ± 0.1%, ranged from 15,2% to 23,0%, there were no significant difference between male and female: male -19,8 ± 3,1 (%) vs. female -20,5 ± 2,5(%), (p>0,05). Regional systolic strain differed significantly between basal, middle, and apical segments: -16,3% ± 1,1% vs. -18,5% ± 3,8% vs. -22,6% ± 1,5%, p<0,05, respectively, with the basal strain was the lowest and increased gradually from basal to apical regions. Global longitudinal strain correlated moderately with weight and systolic blood pressure, r = -0,42, p<0,05 and r = -0,46, p<0,05, respectively. Key words: Global longitudinal strain, speckle tracking echocardiography. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Roberto M. Lang; Lugi P. Badano; Victor Mor-Avi et al (2015), “Recommendation for cardiac chamber Quantification by Echocardiography in Adults: An Update from the American Society of Echocardiography and the European Association of Cardiovascular Imaging” Journal of American Society of Echocardiography Volume 28 number 1. 2. Niên Giám Thống Kê (2011) Nhà Xuất bản Thống Kê. 3. Phạm Ngọc Toàn (2014) Cơ cấu tuổi và già hoá ở Việt Nam theo giới. news/co-cau-tuoi-va-gia-hoa-o-viet-nam-theo-gioi-123. Viện Khoa Học Lao Động và Xã Hội, Bộ Lao Động Thương Binh và Xã Hội. 4. Tổng cục thống kê (2016). Dân số Việt Nam 2016. nam-2016.html. 5. Marwick TH, Leano RL, Brown J, et al (2009). Myocardial Strain Measurement With 2-Dimensional Speckle-Tracking Echocardiography. Definition of normal range. J Am Col Cardiol: Cardiovascular Imaging 2009; Vol 2, number 1, page 80-84. 6. Yingchoncharoen T, Agarwal S, Popovic ZB, Marwick TH (2013). Normal Ranges of Left Ventricular Strain: A Meta-Analysis. J Am Soc Echocardiogr 2013; 26:185-91. 7. Dalen H, Thorstensen A, Aase SA et al (2010). Segmental and global longitudinal strain and strain rate based on echocardiography of 1266 healthy individuals: the HUNT study in Norway. European Journal of Echocardiography (2010) 11, 176183. 8. Sun JP, Popovic ZB, Greenberg NL, et al (2004). Noninvasive quantification of regional myocardial function using Doppler-derived velocity, displacement, strain rate, and strain in healthy volunteers: effects of aging. J Am Soc Echocardiogr 2004;17:132-8. 9. Edvardsen T, Gerber BL, Garot J, Bluemke DA, Lima JA, Smiseth OA (2002). Quantitative assessment of intrinsic regional myocardial deformation by Doppler strain rate echocardiography in humans: validation against three-dimensional tagged magnetic resonance imaging. Circulation 2002; 106:50-6. 10. Kowalski M, Kukulski T, Jamal F, et al (2001). Can natural strain and strain rate quantify regional myocardial deformation? A study in healthy subjects. Ultrasound Med Biol 2001;27:1087-97.
File đính kèm:
- nghien_cuu_suc_cang_doc_co_tim_that_trai_o_nguoi_lon_binh_th.pdf