Nghiên cứu sự thay đổi sức căng cơ tim ở bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp có sT chênh lên sau can thiệp động mạch vành

Mục tiêu: Khảo sát sự thay đổi và thời gian thay đổi sức căng cơ tim, tốc độ căng cơ tim trong vòng một tuần sau can thiệp động mạch vành (ĐMV) ở bệnh nhân nhồi máu cơ tim (NMCT) cấp có ST chênh lên bằng phương pháp siêu âm Doppler mô cơ tim.

Phương pháp: Bốn mươi hai bệnh nhân NMCT cấp lần đầu có ST chênh lên được đánh giá sức căng và tốc độ căng cơ tim và các thông số chức năng tim khác trên siêu âm Doppler mô trước can thiệp (ngày 1) và sau can thiệp ĐMV (ngày 2, 3, 7)

pdf 8 trang phuongnguyen 100
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu sự thay đổi sức căng cơ tim ở bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp có sT chênh lên sau can thiệp động mạch vành", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu sự thay đổi sức căng cơ tim ở bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp có sT chênh lên sau can thiệp động mạch vành

Nghiên cứu sự thay đổi sức căng cơ tim ở bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp có sT chênh lên sau can thiệp động mạch vành
nghiên cứu lâm sàng
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 69.201576
TÓm TẮT
Mục tiêu: Khảo sát sự thay đổi và thời gian 
thay đổi sức căng cơ tim, tốc độ căng cơ tim trong 
vòng một tuần sau can thiệp động mạch vành 
(ĐMV) ở bệnh nhân nhồi máu cơ tim (NMCT) 
cấp có ST chênh lên bằng phương pháp siêu âm 
Doppler mô cơ tim.
Phương pháp: Bốn mươi hai bệnh nhân 
NMCT cấp lần đầu có ST chênh lên được đánh 
giá sức căng và tốc độ căng cơ tim và các thông 
số chức năng tim khác trên siêu âm Doppler mô 
trước can thiệp (ngày 1) và sau can thiệp ĐMV 
(ngày 2, 3, 7). 
Kết quả: Sức căng cơ tim và tốc độ căng tâm 
thu tăng lên rõ rệt ngay từ ngày đầu tiên sau can 
thiệp (ngày 2) đối với toàn bộ thất trái, tương ứng 
-12,97 ± 3,50 % so với -10,92 ± 4,40 (%), p<0,05 và 
-1,15 ± 0,33 so với -0,97 ± 0,43 (s-1), p < 0,05 và ở 
những vùng rối loạn chức năng do liên quan đến ổ 
nhồi máu, tương ứng -9,65±4,18 so với -3,65±1,07 
(%), p < 0,001 và 0,87±0,2 so với 0,32±0,1(s-1), p 
< 0,05. Trong khi đó, sự thay đổi của chỉ số vận 
động thành, vận tốc sóng S’, vận tốc sóng E’ đo ở vị 
trí vòng van hai lá và tốc độ căng đầu tâm trương, 
tốc độ căng cuối tâm trương ở vùng rối loạn chức 
năng liên quan đến ổ nhồi máu thay đổi không có 
ý nghĩa thống kê trong hai ngày đầu sau can thiệp. 
Sự cải thiện của các thông số chức năng tim đều 
được thấy ở thời điểm 7 ngày sau can thiệp, các sự 
khác biệt đều có ý nghĩa thống kê.
Kết luận: Sự cải thiện về chức năng vùng 
thành tim ở các bệnh nhân NMCT cấp có ST 
chênh lên được can thiệp động mạch vành có thể 
được phát hiện sớm bằng việc đánh giá sức căng 
tâm thu và tốc độ căng tâm thu cơ tim. Những thay 
đổi về sức căng và tốc độ căng tâm thu sau tái tưới 
máu được thấy sớm hơn so với những thay đổi về 
điểm vận động thành trên siêu âm 2D và các thông 
số siêu âm Doppler mô cơ tim như vận tốc sóng S’ 
và vận tốc sóng E’ đo ở vòng van hai lá và so với tốc 
độ căng đầu tâm trương và tốc độ căng cuối tâm 
trương.
ĐẶT VẤn ĐỀ
Ở các bệnh nhân NMCT cấp có ST chênh lên, 
can thiệp động mạch vành thì đầu được khuyến 
cáo khi thời gian xuất hiện triệu chứng <12 giờ. 
Trong thực tế lâm sàng, các thầy thuốc vẫn can 
thiệp ĐMV khi bệnh nhân không còn ở giai đoạn 
tối cấp nữa. Việc mở thông dòng chảy ở động mạch 
vành bị tắc làm hạn chế ổ nhồi máu. Bên cạnh đó, 
nghiên cứu sự thay đổi sức căng cơ tim 
ở bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp có sT chênh lên 
sau can thiệp động mạch vành
Nguyễn Thị Thu Hoài1, Nguyễn Thị Thu Thủy4 
Nguyễn Quang Tuấn2,3, Đỗ Doãn Lợi1,3, Nguyễn Lân Việt1,3
1Viện Tim Mạch Việt Nam, Bệnh viện Bạch Mai, 2Bệnh viện Tim Hà Nội
3Trường Đại học Y Hà Nội, 4Bệnh viện 198 Bộ Công An
nghiên cứu lâm sàng
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 69.2015 77
có khoảng từ 7% đến 27% bệnh nhân NMCT có 
ST chênh lên có hiện tượng tự ly giải huyết khối 
dẫn đến làm giảm kích thước ổ nhồi máu, cải thiện 
tiên lượng. Đối với các bệnh nhân không có hiện 
tượng tự ly giải huyết khối, can thiệp động mạch 
vành qua da đem lại lợi ích lâu dài và giảm tỷ lệ 
tử vong hơn so với việc dùng thuốc tiêu sợi huyết. 
Để đánh giá hiệu quả can thiệp trên các bệnh nhân 
này, có rất nhiều phương pháp, một trong những 
biện pháp không xâm nhập hiện nay là siêu âm 
tim. Những thay đổi về chức năng vùng thành tim 
do thiếu máu cơ tim có thể được đánh giá bằng 
sức căng cơ tim, tốc độ căng cơ tim trên siêu âm 
Doppler mô hoặc trên siêu âm đánh dấu mô cơ 
tim speckle tracking. Siêu âm tim đánh giá sức 
căng cơ tim là một kỹ thuật tương đối mới có thể 
lượng hoá sự biến dạng của cơ tim trong thời kỳ 
tâm thu và tâm trương(6,7,8,9). Ở giai đoạn cấp, khi 
còn có hiện tượng đờ cơ tim, việc đánh giá chính 
xác kích thước ổ nhồi máu có thể gặp khó khăn. 
Tuy nhiên, những nghiên cứu gần đây cho thấy sức 
căng cơ tim toàn bộ có mối tương quan với kích 
thước ổ nhồi máu đo trên cộng hưởng từ hạt nhân 
ở cả giai đoạn sớm và giai đoạn muộn(10,11). Sức 
căng cơ tim cũng đã được chứng minh là yếu tố 
dự báo tái cấu trúc thất trái ở các bệnh nhân được 
can thiệp ĐMV thì đầu. Cho đến nay, một phương 
pháp kinh điển vẫn được dùng để đánh giá rối loạn 
vận động vùng và sự phục hồi chức năng vùng thất 
trái sau tái tưới máu là dùng chỉ số vận động thành 
(CSVĐT). Tuy nhiên, chỉ số vận động thành phụ 
thuộc vào kinh nghiệm của bác sĩ làm siêu âm tim 
nên chỉ số này chưa phải hoàn toàn khách quan. 
Hơn nữa, để thấy được những thay đổi về chỉ số 
vận động vùng thì cần một thời gian dài sau tưới 
máu động mạch vành. Việc đánh giá sức căng cơ 
tim hay lượng hoá sự biến dạng cơ tim là phương 
pháp giúp đánh giá những thay đổi rất sớm của 
chức năng vùng thành tim, có thể giúp đánh giá 
sự phục hồi chức năng tim sớm, chỉ trong vòng 
một số ngày đầu sau can thiệp. Đây là một phương 
pháp mới, không đắt tiền, có thể tiến hành nhiều 
lần trên cùng một bệnh nhân.(11,12,13,14)
Do vậy, với mong muốn tìm hiểu một vấn đề 
khá mới ở nước ta, chúng tôi tiến hành đề tài:
“Nghiên cứu sự thay đổi sức căng cơ tim ở 
bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp có ST chênh 
lên sau can thiệp động mạch vành”nhằm mục 
tiêu sau:
 mỤc TiÊu
Khảo sát sự thay đổi sức căng cơ tim trong 
vòng một tuần sau can thiệp động mạch vành ở 
bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp có ST chênh lên 
bằng phương pháp siêu âm Doppler mô cơ tim.
Đối TƯỢng Và PhƯƠng PhÁP nghiÊn cứu
Đối tượng nghiên cứu
42 Bệnh nhân được chẩn đoán là NMCT 
theo khuyến cáo của Hội tim mạch Châu Âu năm 
2012(4) , là NMCT lần đầu có ST chênh lên, có chỉ 
định chụp và can thiệp ĐMV qua da tại Viện Tim 
Mạch - Bệnh viện Bạch Mai. 
Tiêu chuẩn loại trừ
 Chúng tôi không lấy vào nghiên cứu các 
bệnh nhân có loạn nhịp hoàn toàn với biểu hiện 
rung nhĩ trên điện tâm đồ (ĐTĐ), các bệnh nhân 
có bệnh cấp tính, bệnh van tim nặng, các bệnh 
nội khoa nặng kèm theo, bệnh cơ tim phì đại có 
tắc nghẽn đường ra thất trái, bệnh nhân NMCT 
có bloc nhĩ thất độ 2-3, bệnh nhân có blốc nhánh 
trên ĐTĐ, đặt máy tạo nhịp, bệnh nhân có hình 
ảnh siêu âm mờ không đánh giá chính xác được 
các thông số siêu âm, các bệnh nhân không đồng ý 
tham gia vào nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu
Các bước tiến hành nghiên cứu
Tất cả các bệnh nhân được giải thích về 
nghiên cứu và ký cam đoan tham gia nghiên cứu, 
được hỏi bệnh, thăm khám lâm sàng kỹ lưỡng và 
làm bệnh án theo mẫu, làm một số thăm dò và xét 
nghiệm sinh hoá và men tim, chụp Xquang tim 
phổi thẳng, làm ĐTĐ 12 chuyển đạo, làm siêu âm 
nghiên cứu lâm sàng
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 69.201578
Doppler tim. Tất cả các bệnh nhân đều được chụp 
động mạch vành (ĐMV), nong và đặt stent ĐMV 
và được theo dõi đánh giá lại kích thước và chức 
năng thất trái trên siêu âm Doppler tim sau 2 ngày 
và sau 7 ngày.
Quy trình làm siêu âm Doppler tim
Địa điểm: Tại phòng siêu âm tim, Viện Tim 
Mạch- Bệnh viện Bạch Mai . Chúng tôi sử dụng 
máy siêu âm Alpha7 do hãng ALOKA sản xuất 
năm 2012 tại Nhật bản với đầu dò 3,5MHz có thể 
thăm dò: SA tim TM, 2D, Doppler xung, Doppler 
liên tục, Doppler màu và Doppler mô cơ tim. Trên 
máy có đường ghi điện tim đồng thời với hình ảnh 
siêu âm. Các BN đều được làm siêu âm theo quy 
trình chuẩn của Hội Siêu Âm Tim Hoa Kỳ (15,16).
Phương pháp đo sức căng cơ tim (strain) và tốc 
độ căng (strain rate)
Chọn phân đoạn cơ tim cần khảo sát, mỗi 
thành tim đo ở 3 phân đoạn: vùng đáy, vùng giữa và 
vùng mỏm. Hướng đo sức căng chọn theo hướng 
từ đáy tới mỏm, sức căng và tốc độ căng được hiển 
thị bằng phần mềm trong máy siêu âm tim. 
- Sức căng tâm thu (S): đo tại thời điểm đỉnh 
sức căng tâm thu bằng cách đặt con trỏ tại đỉnh 
đường cong sức căng tâm thu (hình 1 . S thể hiện 
mức độ biến dạng của phân đoạn cơ tim thì tâm 
thu. Sức căng mang dấu (-), đơn vị tính là %. S 
giảm là bệnh lý. 
- Tốc độ căng tâm thu (SRs) được đo bằng 
cách đặt con trỏ tại đỉnh đường cong tốc độ căng 
trong thời kỳ tâm thu. SRs mang dấu (-), đơn vị 
tính là s-1. 
- Tốc độ căng đầu tâm trương (SRe) được đo 
bằng cách đặt con trỏ tại đỉnh đầu tâm trương của 
đường cong tốc độ căng trong thời kỳ tâm trương. 
SRe mang dấu (+), đơn vị tính là s-1. SRe giảm là 
bệnh lý. 
- Tốc độ căng cuối tâm trương (SRa) được đo 
bằng cách đặt con trỏ tại đỉnh cuối tâm trương của 
đường cong tốc độ căng trong thời kỳ tâm trương. 
SRa mang dấu (+), đơn vị tính là s-1. SRa tăng là 
bệnh lý. 
Thực hiện các phép đo này trên 18 phân đoạn 
trên 3 mặt cắt từ mỏm, nhưng chỉ có 16 vùng được 
dùng để đánh giá sức căng và CSVĐT vì chúng tôi 
loại đi hai vùng gần mỏm của mặt cắt 3 buồng. Sức 
căng toàn phần được tính là giá trị trung bình của 
16 vùng(15,16). 
Hình 1: Minh hoạ phương pháp đo sức căng cơ tim 
đỉnh tâm thu.
Hình 2: Minh hoạ phương pháp đo tốc độ căng cơ tim
 tâm thu và tâm trương.
nghiên cứu lâm sàng
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 69.2015 79
 Phương pháp xử lý số liệu
 Các số liệu nghiên cứu được xử lý bằng các thuật toán thống kê y học trên máy vi tính bằng phần 
mềm STATA 10.0.
 KẾT quẢ
Đặc điểm chung của các đối tượng nghiên cứu
Trong thời gian từ tháng 4/3013 đến tháng 12/2013, chúng tôi tiến hành nghiên cứu trên 42 bệnh nhân 
NMCT cấp có tuổi từ 38 đến 84, tuổi trung bình 62,1 ± 9,5, nam giới chiếm 73,8%, nữ giới chiếm 26,2%.
Bảng 1. Đặc điểm về lâm sàng và siêu âm của các đối tượng nghiên cứu
Đặc điểm Giá trị trung bình hoặc tỷ lệ %
Nam/Nữ 31/11 (73,8%/25,2%)
Tuổi (năm) 62,18±9,5 
Chỉ số khối cơ thể (BMI-kg/m2) 22,32±2,17
Tần số tim (lần/phút) 85,4± 16,7
Huyết áp tâm thu (mmHg) 132,34 ±18,75
Huyết áp tâm trương(mmHg) 84,31±13,27
Nồng độ đỉnh Troponin T trong máu (ng/ml) 2,87±2,67
Thời gian từ lúc đau ngực đến khi can thiệp (giờ) 34,23±27,01
Tăng huyết áp 40,5%
Đái tháo đường 26,2%
Rối loạn chuyển hóa lipid 33,3%
Hút thuốc lá 54,7%
Tuổi ≥ 70 23,8%
NMCT trước rộng/ NMCT trước vách/ NMCT thành dưới/ NMCT kết hợp 54,3%/ 31%/ 9%/ 5,7%
Tổn thương động mạch (ĐM) liên thất trước/ ĐM vành phải/ ĐM mũ/Thân 
chung
75,6%/ 57,7%/ 33,3%/ 0%
Tổn thương 1nhánh ĐMV/ 2 nhánh ĐMV/ 3 nhánh ĐMV 49%/ 34,4%/ 15,6%
CSVĐT 1,59 ± 0,45
EF (phương pháp Simpson) (%) 48,53 ± 8,98
S’(cm/s) 4,85 ± 1,07
E’(cm/s) 5,43 ± 1,78
E (cm/s) 64,78 ± 5,93
Sức căng cơ tim (S) toàn phần (%) -10,92% ± 4,40 
nghiên cứu lâm sàng
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 69.201580
Nhận xét: Trong số bệnh nhân nghiên cứu thì tỷ lệ nam/nữ = 31/11, NMCT trước rộng chiếm tỷ lệ 
cao nhất, sau đó đến NMCT trước vách, rồi đến NMCT thành dưới, và đến NMCT kết hợp. Các bệnh 
nhân tổn thương ĐM liên thất trước (LTTr) chiếm tỷ lệ cao nhất, ĐM vành phải và sau đó đến ĐM mũ. 
Có 15,6% các bệnh nhân bị tổn thương cả ba nhánh ĐMV. Phân số tống máu EF trung bình của các 
bệnh nhân là 48,53 ± 8,98(%). Sức căng cơ tim toàn phần trung bình là 
-10,92% ± 4,40 (%).
 Kết quả về các thông số siêu âm tim trước và sau can thiệp ĐMV 1 tuần
Bảng 2. Một số thông số siêu âm tim ở các bệnh nhân NMCT cấp có ST chênh lên trước và sau can thiệp ĐMV 
trong vòng 1 tuần.
CSVĐT EF (%) GSR (s-1) GS (%) S’(cm/s) E’(cm/s)
Ngày 1 
(trước can thiệp)
1,59 ± 0,45 48,53 ± 8,98 -0,97 ± 0,43 -10,92% ± 4,40 4,85 ± 1,07 5,43 ± 1,78
Ngày 2 1,57 ± 0,35 50,43 ± 6,17 -1,15 ± 0,33 -12,97% ± 3,50 5,45 ± 1,13 6,03 ± 1,59
Ngày 3 1,54 ± 0,47 53,29 ± 7,34 -1,15 ± 0,43 -15,32% ± 5,10 6,02 ± 1,09 6,42 ± 2,08
Ngày 7 1,42 ± 0,35 55,53 ± 9,98 -1,21 ± 0,37 -15,92% ± 4,70 6,47 ± 1,15 6,73 ± 1,28
p (ngày 1-2) >0,05 > 0,05 0,05 > 0,05
p (ngày 2-3) > 0,05 > 0,05 > 0,05 > 0,05 > 0,05 > 0,05
p (ngày 3-7) 0,05 > 0,05 > 0,05 > 0,05 > 0,05
p (ngày 2-7) 0,05 > 0,05
p (ngày 1-7) < 0,05* < 0,01* < 0,01* < 0,05* < 0,01* < 0,01*
GSR (s-1): Tốc độ căng thất trái tâm thu, GS(%): Sức căng cơ tim thất trái toàn bộ.
Nhận xét: Các thông số chức năng toàn bộ thất trái như phân số tống máu EF, CSVĐT, S’, E’, sức 
căng toàn bộ GS% và tốc độ căng toàn bộ đều có sự cải thiện ở ngày thứ 7 so với trước can thiệp, các sự 
khác biệt đều có ý nghĩa thống kê. Nhưng nếu so sánh trước can thiệp và ngay sau can thiệp (ngày 1-2) 
thì chỉ thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về sức căng toàn bộ và tốc độ căng toàn bộ, với p <0,05, 
còn các thông số khác như CSVĐT, EF, S’, E’ đều chưa thấy có sự khác biệt ( p > 0,05). 
Bảng 3. Các thông số về sức căng vùng thành tim trước và sau can thiệp ĐMV 1 tuần
Các 
thông số
Vùng rối loạn chức năng liên quan đến ổ nhồi máu, 
điểm vận động thành >1
Vùng không liên quan đến ổ nhồi máu, 
điểm vận động thành = 1
Điểm VĐ 
thành TB
Ss%
SRs
(s-1)
SRe
(s-1)
SRa
(s-1)
Ss%
SRs
(s-1)
SRe
(s-1)
SRa
(s-1)
Ngày 1 
(trước can 
thiệp)
2,81± 0,42 -3,65±1,07 0,32±0,1 1,09±0,2 1,09±0,2 -16,87±6,07 1,26±0,3 1,87±0,5 1,49±0,5
Ngày 2 2,72± 0,34 -9,65±4,18 0,87±0,2 1,35±0,5 1,35±0,5 -15,65±4,23 1,21±0,2 1,83±0,2 1,43±0,6
Ngày 3 2,52± 0,52 -12,65±3,11 1,1±0,4 1,49±0,6 1,49±0,6 -15,78±5,26 1,22±0,4 1,80±0,5 1,44±0,5
Ngày 7 2,12± 0,32 -14,98±5,12 1,2±0,3 1,78±0,6 1,78±0,6 -16,79±6,45 1,23±0,3 1,89±0,4 1,39±0,5
nghiên cứu lâm sàng
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 69.2015 81
p (ngày 1-2) >0,05 0,05 > 0,05 >0,05 >0,05 >0,05 >0,05
p (ngày 2-3) >0,05 0,05 > 0,05 > 0,05 >0.05 >0.05 >0.05 >0.05
p (ngày 3-7) 0,05 > 0,05 > 0,05 >0,05 >0,05 >0,05 >0,05
p (ngày 2-7) 0,05 >0,05 >0,05 >0,05
p (ngày 1-7) 0,05 >0,05 >0,05 >0,05
Ss%: sức căng tâm thu, SRs (s-1): tốc độ căng tâm thu, SRe (s-1): tốc độ căng đầu tâm trương, SRa(s-1): 
tốc độ căng cuối tâm trương.
Nhận xét: Ở các vùng liên quan đến ổ nhồi 
máu, những cải thiện về sức căng cơ tim, tốc độ 
căng tâm thu xuất hiện ngay ở ngày đầu sau can 
thiệp, biểu hiện bằng sự tăng sức căng và tốc độ 
căng cơ tim giữa ngày 1 và ngày 2, sự khác biệt có 
ý nghĩa thống kê. Trong khi đó, điểm vận động 
thành và tốc độ căng đầu tâm trương và cuối tâm 
trương chưa có sự thay đổi đáng kể, sự khác biệt 
của các thông số này ở ngày 1 so với ngày 2 không 
có ý nghĩa thống kê. So sánh giữa ngày 1 và ngày 7, 
các thông số đều cho thấy sự cải thiện chức năng 
vùng, các sự khác biệt đều có ý nghĩa thống kê. 
Ở các vùng không liên quan đến ổ nhồi máu, 
sức căng, tốc độ căng tâm thu, tốc độ căng đầu tâm 
trương và cuối tâm trương đều không có sự thay 
đổi trước và sau can thiệp trong vòng 1 tuần.
Bàn luẬn
Siêu âm tim đánh giá sức căng cơ tim là một 
kỹ thuật mới được áp dụng ở Việt Nam có thể giúp 
lượng hoá sự biến dạng của cơ tim trong thời kỳ 
tâm thu và tâm trương(1,2,3). Trong nghiên cứu này, 
chúng tôi khảo sát sự thay đổi và thời gian thay 
đổi của chức năng vùng cơ tim bằng phương pháp 
đánh giá sức căng cơ tim ở các bệnh nhân NMCT 
cấp có ST chênh lên được tái tưới máu bằng 
phương pháp can thiệp động mạch vành qua da. 
Đánh giá sức căng cơ tim giúp phát hiện sớm và 
khách quan những bất thường về co giãn của vùng 
cơ tim, đánh giá rối loạn chức năng vùng thành 
tim trong NMCT cấp. 
Kết quả của chúng tôi cho thấy hầu hết các 
thay đổi về chức năng tâm thu đều bắt đầu ngay 
trong hai ngày đầu sau tái tưới máu, được thể hiện 
qua sự tăng sức căng cơ tim và tốc độ căng cơ tim 
(bảng 2, 3). Kết quả này cũng tương tự với kết quả 
của tác giả Ingul(5). Ngoài việc phát hiện sớm sự 
cải thiện chức năng vùng thành tim, việc đánh giá 
sức căng cơ tim còn giúp phát hiện sớm những 
vùng cơ tim không cải thiện chức năng sau tái tưới 
máu, ngay sau khi bệnh nhân mới được can thiệp 
động mạch vành. Những trường hợp chưa có sự 
cải thiện, cần xem xét khả năng dòng chảy ĐMV 
chưa được tái thông tốt (có thể do một nhánh 
động mạch khác chi phối mà nhánh động mạch 
này chưa được can thiệp) hoặc do tắc các nhánh 
nhỏ ở xa hoặc khả năng bệnh nhân bị đờ cơ tim. 
Kloner và Jenning đã mô tả sự phục hồi của 
cơ tim bị đờ sau thiếu máu hoặc nhồi máu cho 
thấy cần nhiều ngày đến hàng tuần sau can thiệp 
để chức năng vùng cơ tim đó phục hồi về bình 
thường, cụ thể là sự phục hồi sau thiếu oxy cơ 
tim cần ít nhất 48 giờ sau tái tưới máu(17). Kết quả 
nghiên cứu của chúng tôi cũng phù hợp với nhận 
định này vì chúng tôi thấy có sự phục hồi sau can 
thiệp ĐMV hai ngày.
Kết quả của chúng tôi cho thấy sức căng và tốc 
độ căng tâm thu của vùng thành tim và toàn bộ 
thất trái thay đổi sớm hơn so với tốc độ căng đầu 
tâm trương, tốc độ căng cuối tâm trương và so với 
các thông số siêu âm tim thường quy như điểm vận 
động thành, phân số tống máu EF, sóng S’, sóng E’. 
Các nghiên cứu trên động vật thực nghiệm cũng 
nghiên cứu lâm sàng
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 69.201582
cho thấy tốc độ căng cơ tim giúp dự đoán NMCT 
xuyên thành trong ba ngày đầu(18). Vận tốc sóng E’ 
sau can thiệp tăng dần đến ngày thứ 7 cho thấy sự 
cải thiện dần về chức năng tâm trương thất trái sau 
tái tưới máu. Ở thời điểm ngày thứ 7 sau can thiệp, 
các thông số chức năng tim đều có sự cải thiện so 
với trước can thiệp, các sự khác biệt đều có ý nghĩa 
thống kê. Kết quả này cũng tương tự với kết quả 
của tác giả Ingul(5).
Việc mở thông động mạch vành giúp làm hạn 
chế ổ nhồi máu nhưng cũng có thể gây ra hiện 
tượng tái tưới máu, gây phù nề tổ chức kẽ, làm 
giảm chức năng co giãn vùng thành tim, có thể 
kéo dài tới 6 tháng sau can thiệp ở một số bệnh 
nhân. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy 
đa số các bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu đều 
có sự cải thiện sớm chức năng vùng. Điều này có 
thể do số bệnh nhân có hiện tượng tái tưới máu 
trong nghiên cứu của chúng tôi ít.
KẾT luẬn
Ở các bệnh nhân NMCT cấp có ST chênh lên 
được can thiệp động mạch vành, sự cải thiện về 
chức năng vùng thành tim có thể được phát hiện 
sớm bằng việc đánh giá sức căng và tốc độ căng 
cơ tim. Những thay đổi về sức căng và tốc độ căng 
tâm thu cơ tim sau tái tưới máu được thấy ngay từ 
ngày đầu tiên sau can thiệp, sớm hơn so với những 
thay đổi về điểm vận động thành trên siêu âm 2D, 
phân số tống máu EF, vận tốc sóng S’, vận tốc sóng 
E’đo ở vòng van hai lá, tốc độ căng đầu tâm trương 
và tốc độ căng cuối tâm trương.
SuMMARy
Myocardial strain and strain rate change after acute myocardial infarction evaluated by tissue Doppler 
imaging.
Nguyen Thi Thu Hoai,MD., PhD., Nguyen Thi Thu Thuy, MD., Ass/Prof.Nguyen Quang Tuan, 
MD.,PhD., Prof.Do Doan Loi, MD., PhD, Prof. Nguyen Lan Viet, MD., PhD.
BACKGROUND: The aims of this study was to investigate the change and time course of recovery 
of regional myocardial function within the first week following successful primary coronary intervention 
in patients with first-time ST segment elevation myocardial infarction using myocardial deformation 
analysis, which is more quantitative and thus more objective than the wall motion score. METHODS: 
Fourty two patients who presented with first STEMI were included in the study. All patients underwent 
successful percutaneous PCI (pPCI). Standard, strain and strain rate tissue Doppler echocardiography 
was performed to all patients before pPCI and on day 2, day 3 and day 7. RESULTS: Systolic strain and 
systolic strain rate increased significantly on day 2 both globally -12,97 ± 3,50 % vs -10,92 ± 4,40 (%), p 
<0,05 and -1,15 ± 0,33 vs -0,97 ± 0,43 (s-1), p< 0,05, respectively and regionally -9,65±4,18 vs -3,65±1,07 
(%), p < 0,001 and 0,87±0,2 vs0,32±0,1(s-1), p< 0,05, respectively while the changes of WMSI was not 
significant in the first two days. CONCLUSIONS: Recovery of regional function after ST-segment 
elevation myocardial infarction occurred within 2 days and could be detected by strain and strain rate. 
This could have a clinical impact on early management in patients who undergo percutaneous coronary 
intervention.
nghiên cứu lâm sàng
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 69.2015 83
TÀi Liệu THAM KHẢO
1. Đỗ Doãn Lợi, Nguyễn Lân Việt (2012). Siêu âm Doppler tim. Nhà xuất bản Y học.
2. Phạm Nguyên Sơn, Đỗ Văn Chiến, Lương Hải Đăng (2013). “Giá trị của siêu âm đánh dấu mô với phần mềm 
đánh giá chức năng tự động (AFI) trong chẩn đoán bệnh động mạch vành”. Kỷ yếu các bài báo cáo tại hội nghị Tim 
mạch học miền Trung năm 2013.
3. Nguyễn Thị Thu Hoài, Nguyễn Thị Thu Thuỷ, Nguyễn Quang Tuấn, Nguyễn Thị Bạch yến, Đỗ Doãn Lợi, 
Nguyễn Lân Việt (2014). “Mối liên quan giữa sức căng cơ tim với các thông số chức năng thất trái trên siêu âm tim 
ở các bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp được can thiệp động mạch vành” Tạp chí Tim Mạch học Việt nam số 65:70-79.
4. ESC Committee for Practice Guidelines (CPG) (2012) ESC Guidelines for the management of acute myocardial 
infarction in patients presenting with ST-segment elevation “The Task Force on the management of ST-segment 
elevation acute myocardial infarction of the European Society of Cardiology (ESC)” European Heart Journal; 33: 
2569-2619.
5. ingul CB, Malm S. et al (2010). “Recovery of function after acute myocardial infarction evaluated by tissue doppler 
strain and strain rate” J Am Soc Echocardiogr; 23: 342- 8
6. Gregory Gilman R.D., Bijoy K., et al (2004), “Strain rate and strain: a step by step Approach to imaging and data 
acquisition”, J Am Echocardiogr, 17, pp.1183-87.
7. Hooge D.J. (2000), “Regional strain and strain rate measuments by cardiac ultrasound: principles implemention 
and limitation”, Eur J Echocardiography, pp. 154-170.
8. Sutherland G.R., Di Salvo G., Claus P., et al (2004), “Strain and strain rate imaging: a new clinical approach to 
quantifying regional myocardial funtion”, J Am Soc Echocardogr, 17(7), pp. 788-802.
9. yuichi Notomi, Maureen G.Martin-Miklovic, Stephanie J, Oryszak, Takahiro Shiota (2006), “Enhanced 
Ventricular Untwisting During Exercise: A Mechanistic Manifestation of Elastic Recoil Described by Doppler 
Tissue Imaging”. Circulation; 113; 2524-2533.
10. Mistry N, Beitnes JO, Halvorsen S, Abdelnoor M (2011). “Assessment of left ventricular function in ST-elevation 
myocardial infarction by global longitudinal strain: a comparison with ejection fraction, infarct size, and wall motion 
score index measured by non-invasive imaging modalities”. European Journal of Echocardiography, 12, pp. 678-83
11. Brian D. Hoit (2011) “Strain and strain rate echocardiography and coronary artery disease”. Circ Cardiovasc Imaging; 
4: 179 - 190.
12. Jamal F, Strotmann J, Weidemann F et al. (2001) “Noninvasive quantification of the contractile reserve of stunned 
myocardium by ultrasonic strain rate and strain”. Circulation; 104: 1059 - 1065.
13. Reisner SA, Lysyansky P, Agmon y, et al (2004) “Global longitudinal strain: A novel index of left ventricular 
systolic function”. J Am Soc Echocardiogr; 17: 630-3
14. Palmieri V, Russo C, Buonomo A, et al (2010) “Novel wall motion score-based method for estimating global 
left ventricular ejection fraction: validation by real-time 3D echocardiography and global longitudinal strain”. Eur J 
Echocardiogr; 11:125-30.
15. Members of the Chamber Quantification Writing Group: Roberto M. Lang, Michelle Bierig, Richard B. 
Devereux, Frank A. Flachskampf, Elyse Foster, Patricia A. Pellikka, Michael H. Picard, Mary J. Roman, James 
Seward, Jack S. Shanewise, Scott D. Solomon, Kirk T. Spencer, MD, Martin St John Sutton, and William J. 
Stewart. “Recommendations for Chamber Quantification: A Report from the American Society of Echocardiography’s 
Guidelines and Standards Committee and the Chamber Quantification Writing Group, Developed in Conjunction with 
the European Association of Echocardiography, a Branch of the European Society of Cardiology” J Am Soc Echocardiogr 
2005;18:1440-1463
16. Victor Mor-Avi, Roberto M. Lang, Luigi P. Badano, et al (2011) “Current and Evolving Echocardiographic 
Techniques for the Quantitative Evaluation of Cardiac Mechanics: ASE/EAE Consensus Statement on Methodology 
and Indications. Endorsed by the Japanese Society of Echocardiography” J Am Soc Echocardiogr;24:277-313.
17. Kloner RA, Jenning RB. (2001).Consequences of brief ischemia:stunning, preconditioning, and their clinical 
implications: part2. Circulation 104:3158-67
18. Thibault H, Gomez L., Donal E. et al (2009). Regional myocardial function after myocardial infarction in mice: a 
follow-up study by strain rate imaging. J Am Soc Echocardiogr 2009; 22: 198-205

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_su_thay_doi_suc_cang_co_tim_o_benh_nhan_nhoi_mau.pdf