Nghiên cứu so sánh tín ngưỡng thờ táo quân của người Việt ở Việt Nam và người Hán ở Trung Quốc

Tóm tắt: Tín ngưỡng dân gian của người Việt ở Việt Nam và người

Hán ở Trung Quốc đều coi Táo quân là vị thần cai quản việc bếp

núc và là một trong những vị thần quan trọng của hệ thống thần

bảo hộ gia đình, gồm Thổ công, Thổ địa, Tổ tiên. Thần Táo quân

có nguồn gốc từ thời Cổ đại ở Trung Quốc. Khi truyền sang Việt

Nam, người Việt đã tiếp nhận và cải biên tín ngưỡng thờ thần Táo

quân cho phù hợp với phong tục tập quán của mình, nhưng vẫn

bảo lưu nhiều yếu tố thờ cúng, lễ vật, chức năng xã hội của người

Hán. Bài viết này thông qua việc nghiên cứu so sánh tín ngưỡng

thờ thần Táo quân của người Việt ở Đồng bằng Bắc Bộ và người

Hán ở Trung Quốc để làm rõ chức năng xã hội và các yếu tố giống

nhau, khác nhau của loại hình tín ngưỡng này của hai tộc người

Việt - Hán.

pdf 19 trang phuongnguyen 4680
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu so sánh tín ngưỡng thờ táo quân của người Việt ở Việt Nam và người Hán ở Trung Quốc", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu so sánh tín ngưỡng thờ táo quân của người Việt ở Việt Nam và người Hán ở Trung Quốc

Nghiên cứu so sánh tín ngưỡng thờ táo quân của người Việt ở Việt Nam và người Hán ở Trung Quốc
98 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 1 - 2014 
TRẦN HẠNH NGUYÊN (*) 
NGHIÊN CỨU SO SÁNH TÍN NGƯỠNG THỜ TÁO QUÂN CỦA 
NGƯỜI VIỆT Ở VIỆT NAM VÀ NGƯỜI HÁN Ở TRUNG QUỐC 
Tóm tắt: Tín ngưỡng dân gian của người Việt ở Việt Nam và người 
Hán ở Trung Quốc đều coi Táo quân là vị thần cai quản việc bếp 
núc và là một trong những vị thần quan trọng của hệ thống thần 
bảo hộ gia đình, gồm Thổ công, Thổ địa, Tổ tiên. Thần Táo quân 
có nguồn gốc từ thời Cổ đại ở Trung Quốc. Khi truyền sang Việt 
Nam, người Việt đã tiếp nhận và cải biên tín ngưỡng thờ thần Táo 
quân cho phù hợp với phong tục tập quán của mình, nhưng vẫn 
bảo lưu nhiều yếu tố thờ cúng, lễ vật, chức năng xã hội của người 
Hán. Bài viết này thông qua việc nghiên cứu so sánh tín ngưỡng 
thờ thần Táo quân của người Việt ở Đồng bằng Bắc Bộ và người 
Hán ở Trung Quốc để làm rõ chức năng xã hội và các yếu tố giống 
nhau, khác nhau của loại hình tín ngưỡng này của hai tộc người 
Việt - Hán. 
Từ khóa: tín ngưỡng thờ thần Táo quân, tín ngưỡng thờ thần Bếp, 
người Việt ở Việt Nam, người Hán ở Trung Quốc. 
1. Nguồn gốc tín ngưỡng thờ thần Táo quân của người Việt ở Việt 
Nam và người Hán ở Trung Quốc 
Người Việt ngoài gọi tên thần Táo quân theo âm Hán Việt, còn gọi 
theo tên Nôm là thần Bếp, và sau này, do thờ cùng với thần Thổ địa nên 
được gọi chung là thần Thổ công. Người Hán có nhiều cách gọi tên thần 
Táo quân như Táo quân, Táo thần, Táo vương, Táo vương gia, Táo công, 
Táo mẫu, Đông trù Tư mệnh, Bản gia Tư mệnh, Trủng hỏa Lão mẫu 
Nguyên quân, v.v 
Táo quân là một vị thần có lịch sử lâu đời và lai lịch hiển hách trong 
văn hóa tín ngưỡng truyền thống Trung Quốc. Trong lịch sử Trung Quốc, 
từ thời Tiên Tần đến thời Minh Thanh, việc cúng tế thần Táo quân được 
coi là một lễ tế quan trọng của triều đình phong kiến. Các thư tịch cổ của 
*. Giảng viên, Đại học Tây Bắc, tỉnh Sơn La. 
Trần Hạnh Nguyên. Nghiên cứu so sánh 99 
 99
Trung Quốc có nhiều ghi chép về phong tục tế thần Táo quân. Ví dụ, Tư 
Mã Thiên trong Sử ký - Vũ đế bản ký ghi: “Thiên tử sử thân tư táo”, nghĩa 
là Thiên tử đích thân chủ tế Táo quân. Sách Hán thư viết: “Đại phu tế 
môn, hộ, tỉnh, táo, trung lưu ngũ tế”(1), nghĩa là Đại phu đảm trách năm 
loại lễ tế: Môn thần, Hộ thần, Tỉnh thần (thần Giếng), Táo thần (thần Bếp) 
và Trung lưu thần. Sách Bạch hổ thông - Ngũ tế của Trần Lập, đời Thanh 
giải thích: “Ngũ tế giả, hà vị dã? Vị môn, hộ, tỉnh, táo, trung lưu dã. Sở dĩ 
tế hà? Nhân chi sở xứ xuất nhập, sở ẩm thực, cố vi thần nhi tế chi”(2), 
nghĩa là Ngũ tế bao gồm lễ tế Môn thần, Hộ thần, Tỉnh thần, Táo thần, 
Trung lưu thần. Vì sao phải cúng tế các vị thần này? Vì đi lại, ăn uống có 
liên quan mật thiết với cuộc sống của con người. Thờ phụng các vị thần 
đó để luôn được phù hộ bình an, may mắn trong cuộc sống. 
Ở Trung Quốc lưu truyền nhiều ghi chép khác nhau về nguồn gốc của 
thần Táo quân. Thời Tần Hán, thần Táo quân được coi là hiện thân hoặc 
hậu duệ của các bậc đế vương thời Cổ đại của Trung Quốc như Hoàng Đế, 
Viêm Đế, Chúc Dung,v.v Sách Sự vật nguyên hội viết: “Hoàng Đế tác 
táo, từ vi Táo thần”(3), nghĩa là Hoàng Đế tạo ra bếp đun, sau khi mất, được 
phong là thần Táo quân. Sách Hoài Nam tử - Phàm luận biên viết: “Viêm 
Đế tác hỏa nhi tử vi táo”(4), nghĩa là Viêm Đế tạo ra lửa, nên sau khi mất 
được phong làm Táo thần. Sách Chu lễ thuyết viết: “Chuyên Húc thị hữu 
tử viết Lê, vi Chúc Dung, tế dĩ vi táo thần”(5), nghĩa là Chuyên Húc có con 
là Lê, còn gọi là Chúc Dung, được thờ phụng như thần Táo quân. 
Một số văn tịch cổ Trung Quốc cho rằng, thần Táo quân Chúc Dung là 
một cụ bà phúc hậu. Sách Thái Bình ngự lãm quyển 59 dẫn sách Ngũ 
Kinh dị nghĩa viết: “Táo thần Chúc Dung, thị lão phụ”, nghĩa là thần Táo 
quân Chúc Dung là một cụ bà. Trịnh Huyền thời Hán chú thích rằng: 
“Vương vi quần tính lập thất tế, viết táo, chủ ẩm thực dã, táo thần 
Chúc Dung thị lão phụ”(6), nghĩa là vua lập ra thất tế cho dân chúng, 
thần Táo quân chủ quản việc ăn uống, Táo thần là một cụ bà tên là Chúc 
Dung. Theo sách Lễ khí: “Táo giả, thị lão phu nhân chi tế”(7), nghĩa là (tế) 
thần Táo quân, là lễ tế một cụ bà. 
Về sau, thần Táo quân từng bước được thế tục hóa, trở thành một nhân 
thần có tên tuổi lai lịch và có dung mạo xinh đẹp như mỹ nữ. Thần cũng 
có vợ con và cuộc sống gia đình bình thường. Trong sách Ngũ Kinh dị 
nghĩa, Hứa Thận thời Đông Hán ghi: “Táo thần, tính Tô danh Cát Lợi, 
phụ tính Vương danh Bác Giáp”(8), nghĩa là thần Táo quân, họ Tô tên là 
100 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 1 - 2014 
 100
Cát Lợi; vợ thần họ Vương, tên là Bác Giáp. Sách Hậu Hán thư - Âm 
thức truyện trích dẫn sách Tạp ngũ hành thư viết: “Táo thần danh Thiềm, 
tự Tử Quách, y hoàng y”(9), nghĩa là thần Táo quân tên là Thiềm, tự là Tử 
Quách, mặc y phục màu vàng. Đời Đường, Đoạn Thành Thí trong sách 
Tây Dương tạp trở - Nhược Cao ký thượng viết: “Táo thần danh Ngỗi, 
trang như mỹ nữ, hựu tính Trương, danh Đơn, tự Tử Quách, phu nhân tự 
Kị Khanh, hữu lục nữ giai danh Tế Hiệp”(10), nghĩa là thần Táo quân tên 
là Ngỗi, bề ngoài trông như mỹ nữ. Thần họ Trương, tên là Đơn, tự là Tử 
Quách; vợ thần tên là Kị Khanh. Vợ chồng thần có 6 con gái, đều tên là 
Tế Hiệp. 
Như vậy, theo ghi chép trong các thư tịch cổ của Trung Quốc, ban đầu 
thần Táo quân là hiện thân của những vị thần nửa người nửa thú, là 
những người đầu tiên biết sử dụng lửa hoặc phát minh ra bếp đun nấu. Họ 
là một dạng biến thân của thần Ánh sáng và thần Lửa trong tín ngưỡng 
nguyên thủy. Sự ra đời của tín ngưỡng thờ cúng thần Táo quân đã phản 
ánh chân thực quá trình tín ngưỡng sùng bái tự nhiên hòa nhập vào không 
gian sinh hoạt đời thường của con người thời Cổ đại. Về sau, thần Táo 
quân dần biến thành một lão bà phúc hậu, chuyên quản việc bếp núc theo 
quan niệm dân gian về thiên chức nấu ăn và chăm sóc gia đình của người 
phụ nữ Trung Quốc. Cuối cùng, với việc cúng tế trở thành một phong tục 
lưu truyền ngày càng rộng rãi trong dân gian, thần Táo quân trở thành 
một vị nam thần có dung mạo xinh đẹp như mỹ nữ và có gia đình vợ con. 
Tồn tại song song với những ghi chép trong thư tịch cổ, một số vùng 
khác nhau ở Trung Quốc lại lưu truyền những câu chuyện về nguồn gốc 
Táo thần với nội dung hết sức phong phú. 
Vùng Phúc Châu lưu truyền câu chuyện về một người tên là Trương 
Định Phúc, gia cảnh bần hàn, nhưng lại lười biếng, ham mê cờ bạc đến 
mức khuynh gia bại sản, phải bán cả vợ. Người vợ vẫn thương xót chồng, 
thường giấu giếm cho ăn. Về sau, Trương Định Phúc xấu hổ vô cùng, 
đâm đầu vào bếp lò chết. Sau khi chết, Thượng Đế cho anh ta làm Táo 
thần(11). 
Vùng Sơn Đông lại lưu truyền câu chuyện: trước kia, một gia đình họ 
Trương có hai vợ chồng già sống cùng con trai tên là Trương Lang và con 
dâu tên là Đinh Hương. Trương Lang không thích làm ruộng, bỏ ra ngoài 
đi buôn. Đinh Hương ở nhà một mình trồng cấy, gánh vác công việc nhà 
chồng và chăm sóc cha mẹ chồng. Cuộc sống của nàng vô cùng vất vả. 
Trần Hạnh Nguyên. Nghiên cứu so sánh 101 
 101
Sau 5 năm biền biệt bặt vô âm tín, vừa về đến nhà, Trương Lang đuổi 
Đinh Hương và lấy một người phụ nữ lẳng lơ về làm vợ. Đinh Hương 
không nơi nương tựa được một bà lão đưa về nuôi, về sau trở thành con 
dâu của bà và có cuộc sống viên mãn. Một năm nọ, gia đình Trương Lang 
gặp phải đám cháy lớn, tài sản bị thiêu rụi, người vợ sau cũng bị thiêu 
chết. Trương Lang bị thiêu mù đôi mắt, không còn cách nào đành lưu lạc 
xin ăn ngoài đường. Một hôm, Trương Lang đến nhà Đinh Hương xin ăn. 
Nàng không chỉ mang cơm ngon canh ngọt ra mời, mà còn tặng thêm 
vàng bạc cho chồng cũ. Về sau, Trương Lang biết được người phụ nữ hảo 
tâm chính là vợ cũ của mình, trong lòng hối hận, xấu hổ vô cùng, bèn 
đâm đầu vào bếp lửa và bị chết cháy trong đó. Vì Trương Lang có họ 
hàng với Ngọc Hoàng Thượng Đế, nên được Ngọc Hoàng phong cho làm 
Táo vương(12). 
Cư dân hai bên bờ sông Trường Giang cũng lưu truyền câu chuyện về 
vị Táo vương bạc tình như sau: Ngày trước, có một chàng trai con phú 
gia tên là Lý Hồi Tâm. Vợ anh ta tên là Vương Huệ Mẫn, vốn là con gái 
một gia đình làm ruộng. Hai vợ chồng lấy nhau đã lâu mà không có con, 
có bà mối gần nhà đã làm mối cho Lý Hồi Tâm lấy cháu gái mình làm vợ 
lẽ. Không lâu sau, Lý Hồi Tâm nghe lời xúi giục của vợ bé đuổi Vương 
Huệ Mẫn ra khỏi nhà. Vương Huệ Mẫn vô cùng đau khổ, bỏ đến một nơi 
hoang vắng, tự khai hoang lập ấp. Nàng còn chiêu mộ, giúp đỡ thêm 
nhiều người dân nghèo lang thang cơ nhỡ đến an cư lạc nghiệp ở đó. Mọi 
người đồng cam cộng khổ, chăm chỉ lao động, xây dựng vùng đất hoang 
vu ngày nào thành một trang ấp trù mật, giàu có. Mọi người trong ấp đều 
nhất trí tôn Vương Huệ Mẫn làm thủ lĩnh. Còn về Lý Hồi Tâm, từ khi 
đuổi vợ cả đi, hằng ngày ăn uống chơi bời với vợ lẽ. Vài năm sau, gia sản 
ông cha để lại đã bị tiêu tán hết. Người vợ kế vốn lười làm ham chơi, 
thấy chồng trở nên nghèo khó, đã vội vã đi lấy người khác. Lý Hồi Tâm 
đành phải đi xin ăn để duy trì cuộc sống. Một hôm, anh ta đến xin ăn 
đúng nhà Vương Huệ Mẫn. Mọi người trong nhà tiếp đón anh ta ân cần 
tử tế. Về sau, nhận ra chủ nhà chính là người vợ cũ đã bị mình đuổi đi, 
anh ta xấu hổ và hối hận vô cùng, bèn đâm đầu vào bếp lò chết cháy. 
Vương Huệ Mẫn cũng qua đời ít lâu sau đó vì quá thương xót chồng. 
Ngọc Hoàng Thượng Đế cho rằng Lý Hồi Tâm dũng cảm nhận sai, bèn 
phong làm Táo thần; Vương Huệ Mẫn thông minh hiền thục được phong 
làm Táo Vương Bà Bà(13). 
102 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 1 - 2014 
 102
Vùng Hồ Nam lưu truyền một câu chuyện dân gian về lai lịch của tục 
cúng tế thần Táo quân như sau: Con gái út của Ngọc Hoàng Thượng Đế 
là một cô gái hiền hậu đức độ, biết cảm thông và thương xót người nghèo 
khó. Nàng yêu một chàng trai nghèo chuyên đi đốt bếp thuê dưới hạ giới. 
Ngọc Hoàng biết được cảm thấy vô cùng phiền não, bèn đuổi nàng xuống 
trần gian, chịu tội cùng chàng trai nghèo đốt than. Tây Vương Mẫu 
thương con gái, bèn xin Ngọc Hoàng phong cho chàng trai chức Táo 
vương. Từ đó, con gái út của Ngọc Hoàng cũng được làm Táo Vương Bà 
Bà. Thấu hiểu sự nghèo khổ và thiếu thốn dưới trần gian, nên Táo Vương 
Bà Bà thường lấy cớ về Thiên đình thăm cha mẹ đẻ, nhân tiện thấy có 
của ngon vật lạ đều để dành mang về trần gian chia cho mọi người. Ngọc 
Hoàng phát hiện ra chuyện này vô cùng giận dữ, bèn hạ lệnh chỉ cho 
phép con gái và con rể mỗi năm về thăm Thiên đình một lần vào ngày 23 
tháng Chạp. Táo Vương Bà Bà lại tranh thủ chuẩn bị những thực phẩm 
như đậu phụ, thịt, gà, mỳ, rượu, bánh; nấn ná từ ngày 24 tháng Chạp đến 
tối ngày 30 mới rời khỏi Thiên đình, đến tận canh 5 ngày mùng 1 mới về 
đến trần gian. Vì vậy, trong đêm 30 tháng Chạp, mọi người thường ngồi 
quanh bếp lửa, thắp hương, đốt vàng mã và đốt pháo để đón Táo Vương 
Bà Bà về trần gian(14). 
Những câu chuyện dân gian Trung Quốc về sự tích thần Táo quân có 
nội dung phong phú, vừa ca tụng công đức, lại vừa châm biếm đả kích 
thần. Qua đó, có thể thấy được tình cảm và thái độ của người dân với 
thần Táo quân. Vì chuyên quản việc bếp núc, ăn uống, là “Nhất gia chi 
chủ”, nên mọi người hết sức kính trọng và cảm ơn ân đức của thần. Tuy 
nhiên, thần lại có trách nhiệm giám sát tội trạng, thiện ác của cả gia đình 
trong một năm, để đến cuối năm “Thượng thiên bạch nhân tội”, nên mọi 
người cũng hết sức nể sợ thần, từ sợ sinh ra ghét, nên xuất hiện các câu 
chuyện trào lộng để châm biếm, đả kích Táo thần. 
Còn ở Việt Nam lại lưu truyền câu chuyện dân gian gây xúc động lòng 
người về nguồn gốc thần Táo quân như sau: Ngày xưa, có hai vợ chồng 
nghèo khổ. Một năm nọ, Trời làm mất mùa, người chồng phải đi làm ăn 
xa, đã nhiều năm trôi qua mà không thấy về. Người vợ để tang chồng rồi 
nối duyên với một người đã cưu mang nàng. Một hôm, trong khi người 
chồng mới đi vắng thì người chồng cũ sau bao năm bặt tin bỗng trở về. 
Người vợ chỉ còn biết ôm người chồng cũ khóc than rồi đem cơm rượu 
cho ăn. Rồi để tránh tiếng, người vợ bảo người chồng cũ ra đống rơm núp 
Trần Hạnh Nguyên. Nghiên cứu so sánh 103 
 103
tạm. Người chồng mới về vào bếp lấy tro bón ruộng không có, bèn ra đốt 
đống rơm, vô tình giết chết người chồng cũ. Thấy người chồng cũ chết 
oan trong đống rơm, người vợ thương xót quá bèn nhảy vào lửa cùng 
chết. Người chồng mới thấy vậy, tuy không hiểu đầu đuôi, nhưng vì 
thương vợ cũng nhảy vào lửa chết theo. Trời thấy ba người sống đầy tình 
nghĩa bèn phong cho cả ba cùng làm Vua Bếp (Táo quân, ông Táo, do 
vậy mà bếp có ba ông đầu rau) để được gần nhau mãi mãi và để lửa luôn 
đốt nóng tình yêu của họ(15). Tuy dân gian còn lưu truyền nhiều dị bản 
khác biệt một vài chi tiết nhỏ, nhưng nhìn chung, nội dung chính yếu vẫn 
như câu chuyện nêu trên. 
2. Chức năng xã hội của thần Táo quân 
Thời Tiên Tần, thần Táo quân chỉ phụ trách việc ăn uống của mỗi gia 
đình. Sách Thích danh - Thích cung thất viết: “Táo, tạo dã, sáng tạo thực 
vật dã”(16), nghĩa là Táo thần là người tạo ra thức ăn. Còn theo sách Hán 
thư - Ngũ hành chí: “Táo giả, sinh dưỡng chi bản”(17), nghĩa là Táo quân 
là cái gốc của việc dinh dưỡng. Như vậy, có thể thấy, thời Tần Hán, 
người ta coi Táo quân là vị thần chuyên quản lý chuyện ăn uống. 
Sách Hậu Hán thư - Âm thức truyện ghi: “Âm Tử Phương, thời Tuyên 
Đế, sống rất hiếu thảo, nhân đức. Vào buổi sáng sớm, ngày lạp nhật, ông 
nhóm lửa ở bếp lên thì nhìn thấy Táo thần hiện thân. Âm Tử Phương vô 
cùng kính cẩn lễ bái thần. Ông còn mổ thịt cả con dê vàng duy nhất trong 
nhà làm lễ cúng Táo thần. Từ đó về sau, Táo thần phù hộ gia đình ông gặp 
nhiều may mắn trong cuộc sống. Về già, ông có hơn 700 mẫu ruộng với vô 
số gia súc, gia cầm và nô lệ. Người ta nói của cải của Âm Tử Phương giàu 
có sánh ngang với các bậc đế vương. Vậy mà, ngày thường Âm Tử 
Phương vẫn thường nói: “Sau này, con cháu ta còn hiển hách hơn ta”. 
Thực vậy, đến tận ba đời sau, con cháu ông vẫn giàu sang phú quý, nhiều 
người được làm quan to trong triều. Tiếng lành đồn xa, từ đó về sau, nhiều 
gia đình học theo ông giết dê vàng làm lễ cúng tế thần Táo quân vào ngày 
23 tháng Chạp”(18). Như vậy, đến đời Hán, chức vị của thần Táo quân đã 
được mở rộng phụ trách tài vận và công danh của con người. 
Sang đời Tấn, thần Táo quân phụ trách việc tăng giảm tuổi thọ của 
con người dựa trên những hành vi thiện ác của họ, ghi chép tội lỗi của 
con người và theo định kỳ bẩm báo lên Thiên giới. Sách Hoài Nam vạn 
tốt thuật viết: “Táo thần hải nhật quy thiên, bạch nhân tội”(19), nghĩa là 
thần Táo quân về Trời vào các ngày nguyệt hải để bẩm báo với Thiên 
104 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 1 - 2014 
 104
đình tội trạng của con người. Cát Hồng, thời Đông Tấn, trong sách Bão 
Phác tử nội biên - Vi chỉ cũng viết: “Nguyệt hải chi dạ, Táo thần diệc 
thượng thiên bạch nhân tội trạng. Đại giả đoạt kỷ. Kỷ giả tam bách nhật 
dã. Tiểu giả đoạt toán. Toán giả, tam nhật dã”(20), nghĩa là vào đêm cuối 
tháng, thần Táo quân lên chầu Trời để bẩm báo với Ngọc Hoàng về tội 
trạng của con người dưới hạ giới. Ai phạm tội nặng thì sẽ bị trừ đi 300 
ngày tuổi thọ, ai phạm tội nhẹ sẽ bị trừ đi 3 ngày tuổi thọ. Như vậy, 
đư ... ong hệ 
thống thần linh bảo hộ gia đình. 
6. Nguyên nhân của sự giống nhau và khác nhau trong tín ngưỡng 
thờ thần Táo quân giữa người Hán ở Trung Quốc và người Việt ở 
Việt Nam 
Tín ngưỡng thờ thần Táo quân của người Hán và người Việt có một số 
điểm giống nhau về hình thức thờ cúng, nhưng về tính chất thờ cúng của 
hai tộc người lại khác nhau. Nguyên nhân của sự giống nhau là do sự 
chỉnh hợp và người Việt chịu ảnh hưởng văn hóa dân gian của người Hán. 
Còn nguyên nhân của sự khác nhau là do tầng sâu văn hóa mang tính 
tượng trưng tín ngưỡng của hai tộc người khác nhau. 
Thần Táo quân của người Hán ban đầu là vị Hỏa thần, Thái dương 
thần dần hóa thân thành thần Táo quân, cuối cùng nhân cách hóa thành 
một vị thần quan lại dưới thời phong kiến. Sự chuyển biến Táo quân 
thành một vị thần mang tính xã hội có lẽ bắt đầu từ thời Tây Hán, đánh 
dấu mức độ nhân cách hóa và chức năng xã hội của vị thần này lên một 
cấp bậc cao hơn, từ một vị thần trông coi việc bếp núc trở thành vị thần 
cai quản họa phúc, tuổi thọ của nhân gian, thậm chí trở thành vị Bồ tát - 
một vị thần lưu truyền rộng rãi trong đời sống tín ngưỡng tôn giáo của 
người dân Trung Quốc. 
Tín ngưỡng thờ cúng thần Táo quân của người Việt chịu ảnh hưởng 
của người Hán từ thời Tống. Nét chung của tập tục này là bài vị của thần 
Táo quân được viết bằng chữ Hán. Tuy nhiên, người Việt tiếp thu tín 
ngưỡng thờ Táo quân có chọn lọc và cải biên cho phù hợp: hư cấu truyền 
Trần Hạnh Nguyên. Nghiên cứu so sánh 111 
 111 
thuyết về thần Táo quân, từ độc thần là nam thần của người Hán thành 
tam vị thần có cả nam lẫn nữ của người Việt. Đây có thể được coi là bản 
sắc văn hóa của người Việt: “Hòa đồng chứ không hòa tan”. 
Ngày nay, văn hóa bếp của người Việt đã có nhiều thay đổi, từ ba ông 
đầu rau đun bằng rơm rạ, chuyển sang bếp kiềng sắt đun bằng củi, bếp lò 
đun bằng than và bếp đun bằng ga. Tuy loại hình có thay đổi, nhưng chức 
năng của bếp và đời sống văn hóa tinh thần liên quan đến bếp thì vẫn tồn 
tại trong cuộc sống hiện đại. Tín ngưỡng thờ thần Táo quân không chỉ có 
ở Trung Quốc, Việt Nam, mà còn có ở nhiều quốc gia Nam Á. Điều này 
cho thấy, trước khi tập tục thờ thần Táo quân của người Hán ảnh hưởng 
đến khu vực Bách Việt, có thể ở đây đã có những truyền thuyết tương 
ứng với hình tượng vị thần này và được ẩn sâu trong hệ thống tín ngưỡng 
thờ đa thần của người Việt. 
Chúng tôi cho rằng, ban đầu sự sùng bái đối với bếp lửa có ba ông đầu 
rau chính là tầng sâu tính biểu tượng và nội hàm văn hóa của tín ngưỡng 
thờ cúng thần Thổ công kiểu “Tam vị nhất thể” của người Việt, đã tồn tại 
trước khi tín ngưỡng thờ thần Táo quân của người Hán truyền sang. Hình 
thái tín ngưỡng cổ truyền đó là sự kế thừa từ thời xa xưa của các bậc tiền 
nhân và lưu truyền cho đến tận ngày nay. Dựa trên các chứng cứ khảo cổ 
học, Trần Quốc Vượng đã chứng minh: cách đây gần 10.000 năm, chủ 
nhân của văn hóa Hòa Bình đã sử dụng bếp lửa có ba ông đầu rau. Các di 
chỉ thời đồ sắt của Việt Nam ở Đường Mai (Hà Nội), Nội Cầm (Bắc Ninh) 
đã phát hiện ra những chiếc bếp có ba ông đầu rau được chế tạo bằng 
gốm đất nung dường như không khác biệt nhiều so với ngày nay(25). 
Nhưng dưới góc độ Dân tộc học, tín ngưỡng thờ thần Táo quân của 
người Việt có từ thời viễn cổ, chứ không phải như luận cứ của Trần Quốc 
Vượng đưa ra dựa trên cứ liệu khảo cổ học là từ tục thờ thần Đá chuyển 
sang tín ngưỡng thờ thần Táo quân. Sùng bái đá có nguồn gốc lâu đời ở 
khu vực Đông Nam Á. Sự sùng bái này có liên quan đến lửa, vì đá có thể 
tạo ra lửa. Nhưng hiện tượng ba hòn đá tạo thành chỉnh thể của “Tam vị 
nhất thể” lại là tượng trưng của đống lửa và có quan hệ mật thiết với sùng 
bái đá từ thời xa xưa. Bếp lửa bao hàm nội hàm văn hóa và tích lũy lịch 
sử một cách sâu sắc, từ chức năng đơn thuần là chiếu sáng, sưởi ấm, nấu 
ăn đến hình thành một tín ngưỡng vừa mang nội dung văn hóa xã hội vừa 
là nơi để người và thần giao tiếp với nhau. Đồng thời, bếp lửa cũng là 
tượng trưng của gia đình với nhiều chức năng khác nhau. Bếp lửa, có thể 
112 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 1 - 2014 
 112 
nói, là một trong những điểm khởi đầu cho cuộc sống tinh thần của mỗi 
dân tộc. 
Người Việt ngày nay sùng bái Thổ công chính là sự kế thừa tập tục 
thờ cúng thần Lửa, thần Bếp trước đây, là sự tri ân của con người với bếp 
lửa. Trong quá trình diễn biến từ sùng bái bếp lửa đến tín ngưỡng thờ 
thần Táo quân của người Việt là một quá trình xã hội hóa và sự tiếp thu 
văn hóa Hán của người Việt cho thấy rõ, người Việt tiếp nhận văn hóa 
ngoại lai có tính sàng lọc, sau đó cải biên thành cái riêng của dân tộc 
mình. Đáng nói là, tín ngưỡng thờ thần Táo quân của người Việt bắt 
nguồn từ việc sùng bái bếp lửa có ba ông đầu rau của con người thời Cổ 
đại. Nhưng vì sự khác nhau của môi trường xã hội, lịch sử, địa lý..., nên 
người Hán và người Việt đã lựa chọn những phương thức khác nhau để 
thờ thần Táo quân. Tín ngưỡng thờ thần Táo quân của người Việt bảo lưu 
được nhiều yếu tố tượng trưng và nội hàm văn hóa của việc sùng bái lửa 
và bếp lửa. Ngược lại, tín ngưỡng thờ thần Táo quân của người Hán lại 
có những biến dị tương đối lớn, mất đi nội hàm văn hóa cổ và mang 
nhiều tượng trưng của xã hội thế tục, thậm chí còn đưa cả yếu tố văn hóa 
Phật giáo vào trong bếp lửa, đó là việc nhân cách hóa thần Táo quân trở 
thành vị Bồ tát. 
Một vấn đề khác cần được lý giải là vì sao người Việt lại có sự chuyển 
hóa từ thần Táo quân thành Thổ công? Theo chúng tôi, điều này do mấy 
nguyên nhân sau đây. Trước tiên là tính quan trọng và chức vụ của thần 
Táo quân không ngừng được mở rộng và đề cao trong gia đình người 
Việt. Ban đầu, thần Táo quân của người Việt chuyên quản lý lửa, trông 
coi việc bếp núc liên quan đến sinh kế trong gia đình. Khi tiếp nhận văn 
hóa Hán, thần Táo quân của người Việt có thêm chức vụ quán xuyến, báo 
cáo những việc tốt xấu của con người dưới trần gian để Ngọc Hoàng định 
họa phúc cho mỗi gia đình. 
Thứ hai, tín ngưỡng thờ thần Táo quân của người Việt có chịu ảnh 
hưởng của phong cách và quan niệm tín ngưỡng thờ Thổ địa của dân gian 
Trung Quốc, vì từ thời Đường Tống, hình thái chính trị quan phương của 
xã hội phong kiến đã thâm nhập vào trong mỗi gia đình. Để thích ứng với 
hình thái này, tín ngưỡng thờ Thổ địa cũng bắt đầu thay đổi cho phù hợp, 
nên sự phân công trách nhiệm, quản lý của thần Thổ địa cũng rõ ràng hơn. 
Ngoài ra, xã hội ở thời Đường đã có những thay đổi về quan hệ kinh tế. 
Sang thời Tống, các quan phủ phong kiến chủ trương cho dân gian phát 
Trần Hạnh Nguyên. Nghiên cứu so sánh 113 
 113 
triển thần Thổ địa theo xu hướng tự nhiên. Cho nên, chức năng, nhiệm vụ, 
quyền uy và phép thuật của thần Thổ địa không ngừng được nâng cao. 
Chính sự thay đổi về nhận thức và phương thức sùng bái thần Thổ địa 
của người Hán, người Việt đã kết hợp với quan niệm về gia đình được 
hình thành trong bối cảnh văn hóa nông nghiệp và ý thức sùng bái thần 
Thổ địa để từ đó tiến hành chỉnh hợp lần thứ nhất với tín ngưỡng dân 
gian người Việt. Quan niệm “đất có Thổ công, sông có Hà bá” đã ăn sâu 
vào đầu óc của người Việt. Mặt khác, chức năng, nhiệm vụ, quyền uy của 
ba vị thần Táo quân tương đương với chức năng của thần Thổ địa bảo hộ 
trong mỗi gia đình, nên người Việt đã hợp nhất ba vị thần này thành một 
thần Thổ công. Trần Ngọc Thêm cho rằng: “Sở dĩ Thổ công vừa là thần 
Thổ địa vừa là Táo thần là bởi vì đất đai, nhà và bếp đối với các dân cư 
định canh định cư là đồng nhất, địa vị của chúng đều hết sức quan 
trọng”(26). 
Táo thần chịu ảnh hưởng của Thổ địa thần và sự xuất hiện của Thổ địa 
thần trong gia đình là ý thức sùng bái đất đai của con người được phản 
ánh trong không gian cư trú. Trong bối cảnh văn hóa nông nghiệp truyền 
thống của người Việt, thần Táo quân ngầm hàm chứa ý thức sùng bái đất 
đai của con người hoàn toàn không phải là ngẫu nhiên. Ý thức này cực kỳ 
thâm căn cố đế, dẫn đến thần Thổ công trong phạm vi gia đình đã kiêm 
chức của cả Táo thần và Thổ địa thần và trở thành vị thần quan trọng của 
người Việt. Việc thờ cúng Thổ công vì thế cũng thường xuyên được tiến 
hành song song với việc thờ cúng Tổ tiên. Thổ công cũng giống như Tổ 
tiên có khuynh hướng huyết thống hóa và gia đình hóa. Thần Thổ công 
và thần Tổ tiên trong các gia đình đều cùng nhau chủ trì sinh lão bệnh tử, 
phát đạt hay suy vong của gia đình, cùng nhau giữ sự kéo dài của mối 
quan hệ huyết duyên, địa duyên trong thời gian sinh tồn và không gian 
sống của các gia đình. 
7. Thay lời kết luận 
Sự hình thành tín ngưỡng thờ thần Táo quân của người Việt ở Việt 
Nam là quá trình chỉnh hợp văn hóa bản địa của người Việt và văn hóa 
của người Hán. Trong quá trình này, văn hóa người Việt, đặc biệt là văn 
hóa dân gian, hoàn toàn không tiếp thu phong tục văn hóa dân gian của 
người Hán một cách thụ động. Hai đối tượng trên không phải quan hệ 
cho nhận một cách giản đơn. Sự định hình của nó vẫn là một sự chỉnh 
hợp thực hiện sau quá trình thẩm thấu, lựa chọn và tái cấu trúc của văn 
114 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 1 - 2014 
 114 
hóa bản địa. Tín ngưỡng thờ thần Táo quân đã phản ánh một cách khá 
điển hình tín ngưỡng dân gian người Việt và quy luật chủ yếu của sự hình 
thành văn hóa Việt nam. Kỳ thực, tín ngưỡng dân gian nói riêng, văn hóa 
dân gian nói chung là một vấn đề quan trọng trong nghiên cứu so sánh 
quan hệ văn hóa hai nước Việt - Trung đáng được đi sâu nghiên cứu./. 
CHÚ THÍCH: 
1. Hán thư, Quyển nhị thập ngũ thượng Trịnh tư chí (tiếng Trung), Nxb. Trung 
Hoa thư cục, 2006: 1194. 
2. Trần Lập (1994), Bạch hổ thông sơ chứng (tiếng Trung), Nxb. Trung Hoa thư 
cục, Bắc Kinh: 77. 
3. Lý Phương (1960), Thái Bình ngự lãm, quyển 186 trích dẫn (tiếng Trung), Nxb. 
Trung Hoa thư cục, Bắc Kinh. 
4. Cố Thiên dịch và chú giải (2009), Hoài Nam tử (tiếng Trung), Nxb. Trung Hoa 
thư cục, Bắc Kinh: 171. 
5. Vương Lợi Khí (1981), Phong tục thông nghĩa hiệu chú (tiếng Trung), Nxb. 
Trung Hoa thư cục, Bắc Kinh: 310. 
6. Dẫn theo Dương Phúc Tuyền (1995), Dân tục Trung Hoa - Bếp và thần Bếp 
(tiếng Trung), Nxb. Học Uyển, Bắc Kinh: 53. 
7. Dương Phúc Tuyền (1995), Dân tục Trung Hoa - Bếp và thần Bếp (tiếng 
Trung), sách đã dẫn: 54. 
8. Dương Phúc Tuyền (1995), Dân tục Trung Hoa- Bếp và thần Bếp (tiếng 
Trung), sách đã dẫn: 55. 
9. Hậu Hán thư, quyển 32 Âm thức truyện (tiếng Trung), Nxb. Trung Hoa thư cục, 
2006: 1133. 
10. Dương Phúc Tuyền (1995), Dân tục Trung Hoa - Bếp và thần Bếp (tiếng 
Trung), sách đã dẫn: 46. 
11. Tuyển tập các câu chuyện dân gian Trung Quốc (tiếng Trung), Ban Biên tập 
Văn học Dân gian Phúc Châu, 1989: 179. 
12. Ngô Tử Tân (1957) “Lai lịch của thần Táo quân” (tiếng Trung), Tạp chí Văn 
học Dân gian, số 12. 
13. Hồ Học Minh, “Câu chuyện Táo thần”, trong Từ Hoa Long, Ngô Cúc Phấn 
(1985), Các truyền thuyết phong tục dân gian Trung Quốc (tiếng Trung), Nxb. 
Nhân dân Vân Nam. 
14. Cát Tinh (1985), Truyện cổ tích Trung Quốc (tiếng Trung), Nxb. Văn nghệ Dân 
gian Trung Quốc: 219 - 220. 
15. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb. Văn hóa Giáo dục: 139. 
16. Dẫn theo Lý Hiện Hồng (2012), “Từ thời gian hình thành phong tục tế thần Bếp 
nghiên cứu những biến đổi của văn hóa tín ngưỡng thần Bếp” (tiếng Trung), 
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc, số 2: 51. 
17. Lý Hiện Hồng (2012) “Từ thời gian hình thành phong tục tế thần Bếp nghiên cứu 
những biến đổi của văn hóa tín ngưỡng thần Bếp” (tiếng Trung), bài đã dẫn: 51. 
Trần Hạnh Nguyên. Nghiên cứu so sánh 115 
 115 
18. Hậu Hán thư, quyển 32 Âm thức truyện (tiếng Trung), Nxb. Trung Hoa thư cục, 
2006: 1133. 
19. Dương Phúc Tuyền (1995) Dân tục Trung Hoa - Bếp và thần Bếp (tiếng Trung), 
sách đã dẫn: 57. 
20. Cát Hồng (Cố Cửu dịch, 1995) Bao Phác tử nội biên toàn dịch (tiếng Trung), 
Nxb. Nhân dân Quý Châu: 161. 
21. Táo vương phủ quân chân kinh (tiếng Trung), khắc lại năm Tuyên Thống nhà 
Thanh, bản lưu của Tuyên Hóa phủ, Trương Gia khẩu, ngõ Triều Dương: 3 - 4. 
22. Phương Dũng (2008), Trang Tử giảng độc (tiếng Trung), Nxb. Đại học Sư 
phạm Hoa Đông: 173. 
23. Hậu Hán thư, quyển 32 Âm thức truyện (tiếng Trung), Nxb Trung Hoa thư cục, 
2006: 1133. 
24. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb. Văn hóa Giáo dục: 139. 
25. Trần Quốc Vượng (1976), Tết và phong tục Việt Nam, Nxb. Văn hóa: 59 - 60. 
26. Trần Ngọc Thêm (1997), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb. Thành phố 
Hồ Chí Minh: 283. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Dư Hân (2005), “Khảo sát về tín ngưỡng thờ thần Bếp ở Đôn Hoàng” (tiếng 
Trung), Tạp chí Đôn Hoàng học, số 3: 155-160. 
2. Dương Phúc Tuyền (1995), Dân tục Trung Hoa - Bếp và thần Bếp (tiếng 
Trung), Nxb. Học Uyển, Bắc Kinh. 
3. Hà Tinh Lượng (1992), “Sơ lược về tín ngưỡng sùng bái lửa” (tiếng Trung), 
Khoa học xã hội Nội Mông Cổ, số 1: 73 - 80. 
4. Hoàng Vĩnh Phong (2006), “Sơ lược về tín ngưỡng thờ thần Bếp” (tiếng Trung), 
Đạo giáo Trung Quốc, số 5: 34 - 37. 
5. Lâm Kế Phúc (2006), “Nội hàm văn hóa và lịch sử của hình tượng thần Bếp” 
(tiếng Trung), Báo Đại học Sư phạm Hoa Trung, số 1: 99 - 105. 
6. Lý Hiện Hồng (2012) “Từ thời gian hình thành phong tục tế thần Bếp nghiên 
cứu những biến đổi của văn hóa tín ngưỡng thần Bếp” (tiếng Trung), Tạp chí 
Nghiên cứu Dân tộc, số 2: 50 - 60. 
7. Tào Diễm Hồng (2003), “Sơ lược về tín ngưỡng thần Tư mệnh trong dân gian 
xã hội cổ đại” (tiếng Trung), Báo Trường Cao đẳng Cao Minh, số1: 57 - 60. 
8. Tào Diễm Hồng (2003), “Sơ lược về sùng bái thần Bếp trong tín ngưỡng dân 
gian thời Tiên Tần, Lưỡng Hán” (tiếng Trung), Tạp chí Quản tử, số 3: 80 - 84. 
9. Thiềm Thạch Sương, Trương Tú Phương (1994), “Thảo luận về lửa và hình 
tượng thần Bếp” (tiếng Trung), Nghiên cứu Tôn giáo Thế giới, số 1: 81 - 92. 
10. Từ Phương Vũ (2006), “Nghiên cứu so sánh tín ngưỡng thờ thần Bếp của người 
Việt và người Hán” (tiếng Trung), Nghiên cứu Đông Nam Á, số 3: 87 - 91. 
11. Trương Hiểu Tĩnh (2010), “Lịch sử phát triển của phong tục thờ cúng thần Bếp 
trong dân tục truyền thống của Trung Quốc” (tiếng Trung), Hoa Chương, số 18: 19. 
116 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 1 - 2014 
 116 
Abstract 
A COMPARATIVE STUDY ON THE WORSHIP OF 
KITCHEN GOD OF VIETNAMESE IN VIETNAM AND OF 
CHINESE IN CHINA 
The folk belief of Vietnamese in Vietnam and of Chinese in China 
regards kitchen god as deity who manages cooking. He is one of the 
important deities protecting family. These deities are kitchen god, god of 
soil and ancestors. The origin of kitchen god was in China in ancient 
times. When the worship of kitchen god was spread to Vietnam, the 
Vietnamese changed it to correspond with their custom, but they 
observed the elements of worship and offerings to kitchen god of Chinese. 
Through comparative study on the worship of kitchen god of Vietnamese 
in the Northern delta and of Chinese in China, the writer would like to 
bring out social function of kitchen god and the similar and different 
elements of the worship of kitchen god in two countries - Vietnam and 
China. 
Key words: The worship of kitchen god, Vietnamese, Chinese, 
Vietnam, China. 

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_so_sanh_tin_nguong_tho_tao_quan_cua_nguoi_viet_o.pdf