Nghiên cứu rối loạn thần kinh nhận thức qua thang điểm MMSE và MoCA trên bệnh nhân đái tháo đường type 2 có suy giảm nhận thức

Đặt vấn đề và mục tiêu: Đái tháo đường

được xem là yếu tố nguy cơ độc lập về suy

giảm nhận thức thần kinh và ssa sút trí tuệ.

Trong nghiên cứu này chúng tôi đánh giá tình

trạng rối loạn thần kinh nhận thức (RLTKNT)

qua hai thang điểm MMSE và MoCA trên

bệnh nhân đái tháo đường type 2 có suy giảm

nhận thức thần kinh. Đối tượng và phương

pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang 102

bệnh nhân đái tháo đường type 2 từ 45 tuổi

trở lên có suy giảm thần kinh nhận thức theo

tiêu chuẩn DSM-5. Bệnh nhân được khảo sát

mức độ RLTKNT qua hai thang điểm MMSE

và MoCA.

pdf 9 trang phuongnguyen 60
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu rối loạn thần kinh nhận thức qua thang điểm MMSE và MoCA trên bệnh nhân đái tháo đường type 2 có suy giảm nhận thức", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu rối loạn thần kinh nhận thức qua thang điểm MMSE và MoCA trên bệnh nhân đái tháo đường type 2 có suy giảm nhận thức

Nghiên cứu rối loạn thần kinh nhận thức qua thang điểm MMSE và MoCA trên bệnh nhân đái tháo đường type 2 có suy giảm nhận thức
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 37 - Năm 2019 
74 
NGHIÊN CỨU RỐI LOẠN THẦN KINH NHẬN THỨC QUA 
THANG ĐIỂM MMSE VÀ MoCA TRÊN BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG 
TYPE 2 CÓ SUY GIẢM NHẬN THỨC 
Nguyễn Văn Vy Hậu, Nguyễn Hải Thủy, Hoàng Minh Lợi 
Trường Đại học Y Dược Huế 
ABTRACT 
Study of neurocognitive disorders by mini 
mental state examination (MMSE) and 
montreal cognitive assessement (MoCA) 
tests in the type 2 diabetic patients with 
cognitive impairment 
Background and Objectives: Diabetes 
Mellitus is considered as an independent risk 
factor for cognitive impairment and dementia. 
In this study, we evaluated the neurocognitive 
disorders by the MMSE and MoCA 
examination among the type 2 diabetic 
patients with cognitive impairment. Patients 
and Methods: This prospective study 
enrolled 102 patients over 45 years old who 
having cognitive impairment. The mild 
neurocognitive and major neurocognitive 
disorders were ruled out by using the the 
Diagnostic and Statistical Manual of Mental 
Disorders (DSM–5). All type 2 diabetic 
patients were underwentneurocognitive 
disorders by using both the MMSE and 
MoCA tests. Results: The mean crude score 
of the MMSE was 25,72± 4,10 and MoCA 
was 20,73± 5,08, the average point score of 
male was higher than female group. The 
prevalence of mild neurocognitive disorders 
was 41,18% and major neurocognitive 
disorder was 58,82% (p> 0,247). The score of 
the MMSE in the Mild neurocognitive 
disorder group higher than in major cognitive 
disorder group (27,83±1,87 vs 24,23±4,56 , 
p< 0,0001). The score of the MoCA in the 
mild neurocognitive disorder group was 
higher than in major neurocognitive disorder 
group (24,86±2,62 vs 17,83±4,33, p< 
0,0001). MoCA test have specificity and 
sensitivity higher than MMSE test for 
screening neurocognitive disorder [AUC 
ROC 92,6% (Se= 80,0%, Sp=92,9 %) vs 
75,3% (Se=100,00%, Sp= 38,8%)]. The new 
cut off for MoCA was 21 and MMSE was 23 
for the type 2 diabetic patients with 
neurocognitive disorders. Conclusions: The 
score of MoCA and MMSE in the type 2 
diabetic patients with neurocognitive 
disorders were lower than in the diabetic 
patients without them. The specificity and 
sensitivity of MoCA test were higher than 
MMSE test for screening neurocognitive 
disorders. 
Key words: Mini Mental State 
Examination (MMSE), Montreal Cognitive 
Assessement (MoCA), Diagnostic and 
Statistical Manual of Mental Disorders 
(DSM–5). Cognitive impairment, 
Neurocognitive disorders. 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề và mục tiêu: Đái tháo đường 
được xem là yếu tố nguy cơ độc lập về suy 
giảm nhận thức thần kinh và ssa sút trí tuệ. 
Trong nghiên cứu này chúng tôi đánh giá tình 
trạng rối loạn thần kinh nhận thức (RLTKNT) 
qua hai thang điểm MMSE và MoCA trên 
bệnh nhân đái tháo đường type 2 có suy giảm 
nhận thức thần kinh. Đối tượng và phương 
pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang 102 
bệnh nhân đái tháo đường type 2 từ 45 tuổi 
trở lên có suy giảm thần kinh nhận thức theo 
tiêu chuẩn DSM-5. Bệnh nhân được khảo sát 
mức độ RLTKNT qua hai thang điểm MMSE 
và MoCA. Kết quả: Tỷ lệ RLTKNT nhẹ là 
41,18% và RLTKNT điển hình là 58,82%. 
Điểm số MMSE trung bình là 25,72±4,10 
điểm và MoCA trung bình là 20,73±5,08 
điểm, trong đó điểm số ở nhóm nam cao hơn 
nhóm nữ. Số điểm đánh giá RLTKNT nhẹ 
theo MMSE là 27,83±1,87 và MoCA là 
24,86±2,62, p< 0,0001. Số điểm đánh giá 
RLTKNT điển hình theo MMSE là 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 37 - Năm 2019 
75 
24,23±4,56 và MoCA: 17,83±4,33, p < 
0,0001. Thang điểm MoCA có độ nhạy và đồ 
đặc hiệu cao hơn MMSE trong tầm soát 
RLTKNT với AUC ROC 92,6% (Se= 92,9%, 
Sp= 80,0%) so với 75,3% (Se=73,8%, Sp= 
60,0%), tương ứng trong đó điểm cắt mới của 
bệnh nhân đái tháo đường với MoCA là 21 
và MMSE là 23. Kết luận: Điểm cắt mới của 
bệnh nhân đái tháo đường RLTKNT thấp hơn 
giá trị bình thường, trong đó thang điểm 
MoCA nhạy hơn MMSE. 
Chịu trách nhiệm chính: Nguyễn Văn Vy 
Hậu 
Ngày nhận bài: 19/11/2019 
Ngày phản biện khoa học: 27/12/2019 
Ngày duyệt bài: 31/12/2019 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Đái tháo đường (ĐTĐ) là một bệnh 
chuyển hóa phức tạp, không lây, và gây ra 
nhiều biến chứng nặng nề lên các cơ quan của 
cơ thể như: biến chứng mạch máu lớn và 
mạch máu nhỏ,Đây là nguyên nhân gây tử 
vong đứng thứ ba sau ung thư và bệnh lý tim 
mạch.Theo Liên đoàn ĐTĐ quốc tế ( IDF) 
năm 2017 khuyến cáo cứ mỗi 7 giây qua đi có 
1 người chết vì đái tháo đườngvà hằng năm 
đái tháo đường cũng cướp đi sinh mạng của 
khoảng 4.9 triệu người trên thế giới. ĐTĐ 
được ví như là như tảng băng trôi, tiến triển 
âm thầm, luôn gây ra những biến chứng bất 
ngờ khiến người bệnh khó nhận thấy được. 
Tuy nhiên, mức độ hiểu biết về bệnh và biến 
chứng bệnh của người dân còn rất hạn chế. 
Đặc biệt biến chứng ít được quan tâm về tâm 
thần kinh như Rối loạn thần kinh nhận thức 
(RLTKNT)ít được quan tâm. Trên lâm sàng 
các biểu hiện biến chứng RLTKNT khởi đầu 
bao gồm giảm trí nhớ, mất sự t ậ p t r u n g chú 
ý, chức năng điều hành tin, giảm khả năng 
nói lưu loát, giảm khả năng hoạt động sinh 
hoạt thường ngày,về lâu dài sẽ tiến triển 
đến nguy cơ sa sút trí tuệ nếu không được 
điều trị kịp thời. Tại Việt Nam, tỷ lệ người 
bệnh mắc đái tháo đường type 2 có tình trạng 
RLTKNT chưa được quan tâm nhiều với một 
số công trình nghiên cứu trong nước về 
RLTKNT chung cũng như trên các đối tượng 
cơ nguy cơ cao trong sa sút trí tuệ mạch máu 
như: THA, ĐTĐ. Việc áp dụng thang điểm 
chẩn đoán RLTKNT đang sử dụng theo phân 
loại cũ và các thang điểm tầm soát thì chưa 
thống nhất thang điểm nào phù hợp hơn cho 
các đối tượng có nguy cơ cao về sa sút trí tuệ 
mạch máu như bệnh đái tháo đường. Xuất 
phát từ những vấn đề trên, chúng tôi tiến hành 
nghiên cứu đề tài này nhằm mục tiêu đánh gia 
mức độ RLTKNT của đối tượng đái tháo 
đường type 2 có suy giảm thần kinh nhận 
thức qua hai thang điểm MMSE và MoCA 
trong tầm soát RLTKNT. 
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU 
2.1 Đối tượng nghiên cứu 
2.1.1. Tiêu chuẩn chọn bệnh 
Các người bệnh được lựa chọn ngẫu nhiên 
đưa vào nghiên cứu có các đặc điểm: 
Đủ 45 tuổi trở lên, không phân biệt giới 
tính, dân tộc, nghề nghiệp. 
Trình độ học vấn: từ cấp I trở lên (có biết 
chữ). 
Được chẩn đoán ĐTĐ type 2 theo tiêu 
chuẩn chẩn đoán của ADA năm 2016và cập 
nhật 2019. 
Tiêu chuẩn phân loại RLTKNT theo 
DSM 5 
A. Có bằng chứng suy giảm nhận thức 
đáng kể ở ít nhất 2 trong các lĩnh vực nhận 
thức (sự tập trung chú ý, chức năng điều 
hành, học tập và trí nhớ, chức năng ngôn ngữ, 
thị giác không gian và nhận thức xã hội) dựa 
trên: 
1. Than phiền của người bệnh hoặc của 
người thân hoặc ghi nhận bởi bác sĩ về sự suy 
giảm rõ rệt chức năng nhận thức của bệnh 
nhân và 
2. Suy giảm đáng kể trong biểu hiện nhận 
thức, tốt nhất là được xác định các test tâm 
thần kinh đã được chuẩn hóa hoặc nếu không 
thì dựa trên đánh giá lâm sàng có chất lượng 
khác. 
B. Suy giảm nhận thức làm ảnh hưởng 
đến tính độc lập trong các hoạt động hằng 
ngày (tức là cần sự hỗ trợ tối thiểu ở các hoạt 
động sống phức tạp như trả hóa đơn, dùng 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 37 - Năm 2019 
76 
thuốc điều trị, ) 
C. Bệnh nhân không bị mê sảng, lú lẫn 
cấp 
Suy giảm nhận thức không phải do nguyên 
nhân tâm thần kinh khác (ví dụ trầm cảm hay 
tâm thần phân liệt) [28]. 
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ 
Không đưa vào nghiên cứu các đối tượng 
ĐTĐ có nghiện rượu tổn thương thần kinh 
thực thể, các bệnh lý về tâm thần, thần kinh: 
trầm cảm, tâm thần phân liệt, sử dụng thuốc 
an thần, chống loạn thần, thuốc gây ngủ, gây 
nghiện, suy gan, suy thận nặng và hành vi 
không hợp tác. 
Thời gian nghiên cứu: Từ 01/2017 đến 
tháng 06/2019 tại Bệnh viện Đa khoa Gia 
Đình Đà Nẵng. 
2.2. Phương pháp nghiên cứu 
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu theo phương pháp mô tả cắt 
ngang trên 102 bệnh nhân đái tháo đường 
type 2 có RLTKNT. 
2.2.2. Phương pháp thu thập dữ liệu 
Việc thu thập dữ liệu được tiến hành theo 
trình tự các bước: 
- Bước 1: Khai thác thông tin người bệnh: 
tiền sử bệnh, các YTNC, nhân trắc, BMI, 
VB 
- Bước 2: Đánh giá mức độ RLTKNT qua 
2 thang điểm có điểm số giảm qua các thang 
điểm đánh giá t h ầ n k i n h nhận thức: MINI 
MENTAL STATE EXAMINATION 
(MMSE) và MONTREAL COGNITIVE 
ASSESSEMENT (MoCA) qua phỏng vấn 
trực tiếp. Đưa vào nghiên cứ đối tượng có 
thay đổi điểm số MMSE và MoCA. Phân 
loại RLTKNT theo DSM 5 
- Bước 3: Xét nghiệm chẩn đoán và kiểm 
tra MRI sọ não 
2.2.3. Các biến số nghiên cứu 
Thang điểm đánh giá nhận thức MMSE 
và MoCA 
Thang điểm MMSE [2]: 
Cách tiến hành: 
Phỏng vấn trực tiếp với mẫu MMSE chuẩn 
bị sẵn. 
Tiến hành tính điểm MMSE của mỗi 
người bệnh. 
Đánh giá mức độ SGNT qua thang điểm 
MMSE: 
24 điểm: bình thường. 
20-23 điểm: RLTKNT nhẹ. 
14-19 điểm: RLTKNT vừa. 
0-13 điểm: RLTKNT nặng. 
Đánh giá mức độ nhận thức đạt khi: 
MMSE ≥ 26 điểm. 
Thang điểm MoCA: 
Cách tiến hành: 
Phỏng vấn trực tiếp với mẫu MoCA chuẩn 
bị sẵn. 
Tiến hành tính điểm MoCA của mỗi người 
bệnh (cộng 1 điểm nếu học <12). 
Đánh giá mức độ RLTKNT qua thang 
điểm MoCA: 
≥ 26 điểm: bình thường. 
< 26 điểm: RLTKNT. 
Biến số liên quan đến hoạt động chức 
năng nhận thức: 
- Rối loạn chức năng điều hành: điểm tối 
đa 5 
- Rối loạn khả năng tập trung chú ý: điểm 
tối đa 6 
- Rối loạn khả năng học tập- trí nhớ: tối đa 
5 điểm 
- Rối loạn ngôn ngữ: tối đa 3 điểm 
- Rối loạn chức năng thị giác không gian: 
tối đa 3 điểm 
- Rối loạn tư duy trừu tượng: tối đa 2 điểm 
- Rối loạn định hướng không gian, thời 
gian: tối đa 6 điểm 
2.2.5. Xử lý số liệu 
Tất cả dữ liệu thu thập được qua điều tra 
được nhập và xử lý theo chương trình xử lý 
thống kê SPSS 20.0. 
3. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN 
Qua nghiên cứu theo phương pháp mô tả cắt ngang nhằm đánh giá rối loạn thần kinh nhận 
thức bằng hai thang điểm MoCA và MMSE trên 102 bệnh nhân đái tháo đường type 2 có suy 
giảm thần kinh nhận thức chúng tôi nghi nhận kết quả như sau. 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 37 - Năm 2019 
77 
Bảng 3.1. Phân tầng RLTKNT theo thang điểm MMSE 
Giới 
MMSE 
Nam (n=37) Nữ (n=65) Chung (n=102) 
p 
n % n % n % 
MMSE ( X SD) 26,14±4,07 25,48±4,13 25,72±4,10 0,439 
Bình thường (≥24) 29 28,43 50 49,02 79 77,45 
0,832 
Nhẹ (từ 20-23) 3 2,94 8 7,84 11 10,78 
Vừa (từ 14-19) 5 4,90 5 4,90 10 9,80 
Nặng (từ 0-13) 0 0,00 2 1,96 2 1,96 
Điểm nhận thức trung bình qua thang điểm MMSE 25,72±4,10 trong đó không có sự khác 
biệt giữa nam và nữ (26,14±4,07 so với 25,48±4,13, p > 0,05). Ngoài ra 77,45% đối tượng có 
mức điểm MMSE ≥24 và 22,54% đối tượng có mức điểm MMSE < 24 . 
Không thấy có sự khác biệt giữa nam và nữ (p > 0,05). 
Bảng 3.2. Phân tầng RLTKNT theo thang điểm MoCA 
Giới 
MoCa 
Nam (n=37) Nữ (n=65) Chung (n=102) 
p 
n % n % n % 
MoCa ( X SD) 21,95±4,58 20,03±5,25 20,73±5,08 0,067 
MoCa ≥ 26 7 6,86 9 8,82 16 15,69 
0,498 
MoCa< 26 30 29,41 56 54,90 86 84,31 
Điểm nhận thức trung bình qua thang điểm MoCA20,73±5,08, trong đó không có sự khác biệt 
giữa nam và nữ (21,95±4,58 so với 20,03±5,25, p> 0,05). Ngoài ra nhóm có MoCA< 26 điểm 
chiếm tỷ lệ 84,31%. Qua kết quả trên đây chúng tôi ghi nhận nếu chỉ dùng đơn độc thang điểm 
MMSE để tầm soát các RLTKNT chúng ta sẽ bỏ sót các trường hợp RLTKNT khi mà mức điểm 
MMSE > 24 ở mức bình thường (77,45%). Trong khi đó nếu chúng ta sử dụng thang điểm MoCA 
thì tỷ lệ RLTKNT phát hiện ở đối tượng đái tháo đường type 2 có tỷ lệ cao hơn (84,31%). Điều này 
cho thấy vai trò của thang điểm MoCA có giá trị ưu việt hơn trong phát hiện RLTKNT ở BN ĐTĐ. 
Bảng 3.3. Phân bố mức điểm MMSE và MoCA theo phân loại RLTKNT DSM 5 
Thang điểm 
DSM 5 
MMSE MoCA 
p 
( X ± SD) 
( X ± SD) 
RLTKNT nhẹ 27,83±1,87 24,86±2,62 < 0,001 
RLTKNT điển hình 24,23±4,56 17,83±4,33 < 0,001 
Dựa vào phân loại DSM 5, chúng tôi ghi nhận giá trị điểm số trung bình tương ứng với 
RLTKNT nhẹ và RLTKNT điển hình theo đánh giá MMSE lần lượt là: 27,83±1,87 và 
24,23±4,56; nhưng theo MoCAlại có sự khác biệt đáng kể giữa 2 nhóm với giá trị lần lượt là: 
24,86±2,62 và 17,83±4,33 (p< 0,001). Một lần nữa khẳng định vai trò của thang điểm MoCA có 
giá trị ưu việt hơn trong phát hiện RLTKNT ở bệnh nhân ĐTĐ. 
Bảng 3.4. So sánh diện tích vùng dưới đường cong ROC (AUC) và điểm cắt (cut off) 
giữa thang điểm MMSE và MoCAtrong đánh giá RLTKNT giữa 
Thông số AUC Điểm cắt Se (%) Sp (%) p 
Khoảng tin cậy 
GTNN GTLN 
MMSE 75,3 23,5 100,00 38,8 < 0,0001 0,661 0,845 
MoCa 92,6 21,5 92,90 80,00 < 0,0001 0,878 0,973 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 37 - Năm 2019 
78 
Biểu đồ 1. Giá trị đường cong ROC trong chẩn đoán RLTKNT của hai thang điểm MMSE và MoCA 
Kết quả ghi nhận giá trị diện tích vùng 
dưới đường cong ROC của thang điểm MoCA 
có cao hơn thang điểm MMSE trong chẩn 
đoán RLTKNT (92,6% so với 75,3%) với độ 
nhạy và độ đặc hiệu cũng cao hơn; trong đó 
điểm cắt tương ứng của MoCA 21,5 (23) (Se 
92,9% và Sp 80,0%; p< 0,001) và MMSE 
26,5 (28) (Se: 73,8% và Sp: 60,0%, p< 
0,0001). Vì thế chúng tôi lấy điểm cắt MoCA 
≤ 21 và MMSE ≤ 23cho tầm soát RLTKNT ở 
bệnh nhân ĐTĐ 
Nguyễn Đình Toàn và CS (2016) khi so 
sánh giá trị giữa thang điểm MoCA và MMSE 
trong tầm soát RLTKNT ở bệnh nhân ĐTĐ 
ghi nhận: điểm cắt của MoCA là 17 điểm có 
độ nhạy cao hơn (84,8%) so với MMSE với 
điểm cắt 23 điểm là (78,3%) trong chẩn đoán 
sa sút trí tuệ (SSTT) hay RLTKNT điển hình 
[5]. 
Yukiko Mori. Futamura H và CS tại Nhật 
Bản (2015) ghi nhận trên 33 đối tượng đái 
tháo đường type 2 đã dùng thang điểm tầm 
soát MoCA hiệu chỉnh và phân loại RLTKNT 
bằng DSM IV, cho thấy tỷ lệ RLTKNT nhẹ 
chiếm 72% tương ứng với điểm trung bình 
MoCA là 22,1 ± 2,8 điểm và kèm với các rối 
loạn chức năng ngôn ngữ và giảm chức năng 
thùy trán có ý nghĩa thống kê so với đối tượng 
đái tháo đường không có RLTKNT [26] 
Nghiên cứu tại Rotterdam trên 6.000 bệnh 
nhân từ 55 trở lên trong khoảng thời gian 2 
năm bằng cách sử dụng 2 thang điểm MMSE 
và Geriatric Mental State Schedule (GMSS) 
cho thấy ĐTĐ type 2 tăng gấp đôi nguy cơ 
phát triển RLTKNT điển hình . Những bệnh 
nhân được điều trị bằng Insulin có nguy cơ 
tương đối cao hơn 3 đến 4 lần. Arvanitakis và 
cộng sự đã nghiên cứu tiến cứu 800 tu sĩ 
Công giáo trên 9 năm, 15% số người này có 
hoặc phát triển ĐTĐ type 2 và cho thấy 65% 
tăng nguy cơ phát triển Alzheimer [12]. 
Mousiolis A và CS (2016), nghiên cứu 135 
đối tượng đái tháo đường type 2 có RLTKNT 
nhẹ và bình thường ghi nhận điểm cắt 
MoCAlà 23 và MMSE là 28 phù hợp cho 
chẩn đoán RLTKNT nhẹ [27] 
Qua kết quả nghiên cứu của chúng tôi góp 
phần đề xuất nâng điểm cắt tầm soát 
RLTKNT nhẹ theo MMSE là 26 điểm và 
MoCA là 21 điểm, đặc biệt cần sử dụng thang 
điểm MoCA trong tầm soát RLTKNT ở đối 
tượng đái tháo đường type 2 thay vì chỉ dùng 
một thang điểm MMSE chúng ta sẽ bỏ sót các 
RLTKNT. 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 37 - Năm 2019 
79 
Bảng 3.5. Phân tầng các rối loạn lĩnh vực chức năng nhận thức theo độ tuổi 
Độ tuổi 
Thông số 
45-54 
(n=10) 
54-64 
(n=36) 
65-74 
(n=38) 
≥75 
(n=18) 
Chung 
(n=102) 
p 
Chức năng điều 
hành 
( X ± SD) 
3,90±1,10 
3,67±1,41 
3,00±1,29 
2,06±0,99 
3,16±1,40 
0,001 
Thị giác không gian 
( X ± SD) 
2,70±0,68 2,33±0,83 2,29±0,93 1,78±0,73 2,25±0,86 0,034 
Tập trung chú ý 
( X ± SD) 
5,40±0,70 4,58±1,32 4,55±1,25 3,56±1,20 4,47±1,30 0,002 
Học tập + trí nhớ 
( X ± SD) 
2,90±1,79 3,14±1,50 2,61±1,48 2,11±1,18 1,50±0,15 0,102 
Chức năng ngôn ngữ 
( X ± SD) 
1,40±0,70 1,56±0,99 1,53±0,80 1,28±0,96 1,48±0,89 0,716 
Tư duy trừu tượng 
( X ± SD) 
0,90±0,88 1,28±0,82 1,08±0,88 0,72±0,75 1,07±0,85 0,132 
Định hướng 
( X ± SD) 
5,50±0,97 5,69±0,89 5,45±1,06 5,00±1,50 5,46±1,10 0,184 
Yếu tố tuổi tác cũng ảnh hưởng một phần rối loạn lĩnh vực chức năng nhận thức. Qua nghiên 
cứu chúng tôi ghi nhận chức năng điều hành, khả năng tập trung chú ý và thị giác không gian 
(gọi tên và vẽ hình) có sự khác biệt theo nhóm tuổi (p< 0,005). Tuy nhiên các lĩnh vực chức năng 
nhận thức khác như học tập và trí nhớ, chức năng ngôn ngữ, tư duy trừu tượng và định hướng 
không gian thời gian thì không có sự khác biệt rỏ theo nhóm tuổi (p> 0,05). 
Bảng 3.6. Phần tầng các rối loạn chức năng thần kinh nhận thức theo DSM 5 
Độ tuổi 
Thông số 
RLTKNT nhẹ 
( X ± SD) 
RLTKNT điển 
hình ( X ± SD) 
Chung 
p 
Chức năng điều 
hành 
4,13±0,91 2,36±1,21 3,16±1,40 <0,001 
Thị giác không gian 2,65±0,57 1,93±0,93 2,25±0,86 <0,001 
Tập trung chú ý 5,02±0,98 4,02±1,37 4,47±1,30 <0,001 
Học tập + trí nhớ 3,48±1,39 2,13±1,29 2,74±1,50 <0,001 
Chức năng ngôn ngữ 1,85±0,82 1,18±0,83 1,48±0,89 <0,001 
Tư duy trừu tượng 1,41±0,72 0,79±0,85 1,07±0,85 <0,001 
Định hướng thời 
gian, không gian 
5,87±0,50 5,13±1,32 5,46±1,10 <0,001 
Có sự khác biệt đáng kể về mức điểm trung bình của các lĩnh vực chức năng nhận thức giữa 
hai nhóm RLTKNT nhẹ và RLTKNT điển hình theo phân loại DSM 5, phân bố mức điểm trung 
bình ở nhóm RLTKNT điển hình thấp hơn so với nhóm RLTKNT nhẹ (p< 0,001). 
Điều này cho thấy chức năng điều hành, thị giác không gian, tư duy trừu tượng và chức năng 
ngôn ngữ giảm sớm ở nhóm có RLTKNT nhẹ. Đây là cơ sở quan trọng trong thực hành lâm sàng 
đánh giá tầm soát RLTKNT để có thể phân loại chẩn đoán sớm RLTKNT nhẹ ở bệnh nhân đái 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 37 - Năm 2019 
80 
tháo đường type 2, đưa vào danh sách theo dõi điều trị quản lý các yếu tố nguy cơ và biến 
chứng; nhằm mục đích ngăn chặn tiến trình đến RLTKNT điển hình và Alzhemier’s. 
Bảng 3.7. Phân tích liên quan các rối loạn chức năng TKNT theo phân loại DSM 5 
Độ tuổi 
Thông số 
Giá trị 
RLTKNT 
nhẹ (n, %) 
RLTKNT 
điển hình 
(n, %) 
Chung 
(n, %) 
p 
Chức năng điều 
hành 
Giảm 26 (25,49) 51 (50,00) 77 (75,49) 
<0,001 
Bình thường 20 (19,61) 5 (4,90) 25 (24,51) 
Thị giác không gian 
Giảm 14 (13,73) 38 (37,26) 52 (50,98) 
<0,001 
Bình thường 32 (31,37) 18 (17,65) 50 (49,02) 
Tập trung chú ý 
Giảm 29 (28,43) 50 (49,02) 79 (77,45) 
0,002 
Bình thường 17 (16,67) 6 (5,88) 23 (22,55) 
Học tập + trí nhớ 
Giảm 34 (33,33) 55 (53,92) 89 (87,25) 
<0,001 
Bình thường 12 (11,77) 1 (0,98) 13 (12,75) 
Chức năng ngôn ngữ 
Giảm 35 (34,31) 53 (51,96) 88 (86,28) 
0,007 
Bình thường 11 (10,78) 3 (2,94) 14 (13,72) 
Tư duy trừu tượng 
Giảm 21 (20,59) 41 (40,19) 62 (60,78) 
0,005 
Bình thường 25 (24,51) 15 (14,71) 40 (39,22) 
Định hướng thời 
gian, không gian 
Giảm 4 (3,92) 22 (21,57) 26 (25,49) 
<0,001 
Bình thường 42 (41,18) 34 (33,33) 76 (74,51) 
Tất cả các lĩnh vực chức năng thần kinh 
nhận thức suy giảm đều có tỷ lệ cao hơn ở 
nhóm RLTKNT điển hình so với nhóm 
RLTKNT nhẹ ( p< 0,001). 
Điều đáng lưu ý ngay trong giai đoạn 
RLTKNT nhẹ đã có rối loạn trong 6 lĩnh vực 
chức năng nhận thức. 
Rối loạn về chức năng học tập trí nhớ, 
chức năng ngôn ngữ, tập trung chú ý tư duy 
trừu tượng và chức năng điều hành chiếm tỷ 
lệ cao trong đối tượng nghiên cứu. 
G. J. Biessels và CS nghiên cứu RLTKNT 
ở nhóm đái tháo đường và nhóm chứng ghi 
nhận tỷ lệ bệnh Alzheimer 36% so với 28%, 
chứng RLTKNT mạch máu 5% so với 2%; 
suy giảm nhận thức nhẹ 24% so với 17% (p > 
0,05). 
Kết quả của chúng tôi có giá trị tương tự 
với các công bố của Sanne M Manschot 
(2006), Smith E (2008) Yael D. Reijmer và 
cộng sự (2011), Moran (2013), Roberts 
(2014), Van Bussel (2018), Sheila. K. Patel và 
cộng sự (2018). 
3. KẾT LUẬN 
Qua khảo sát hai thang điểm MMSE và 
MoCA trên bệnh nhân ĐTĐ týp 2 có suy 
giảm nhận thức chúng tôi đi đến kết luận như 
sau: 
Tỷ lệ RLTKNT nhẹ là 41,18% và 
RLTKNT điển hình là 58,82%, trong đó điểm 
số của MMSE là 25,72± 4,10 điểm và MoCA 
là 20,73±5,08 điểm. Điểm đánh giá RLTKNT 
nhẹ theo MMSE là 27,83±1,87 và theo MoCA 
là 24,86±2,62, p< 0,0001. Điểm đánh giá 
RLTKNT điển hình theo MMSE là 
24,23±4,56 và MoCA: 17,83±4,33, p < 
0,0001. 
Thang điểm MoCA có độ nhạy và độ đặc 
hiệu cao hơn MMSE trong tầm soát RLTKNT 
với AUC của ROC 92,6% (Se= 92,9%, Sp= 
80,0%) so với 75,3% (Se=100,00%, Sp= 
38,8%), tương ứng. Điểm cắt của MoCA: 21 
và MMSE: 23. 
Tất cả các lĩnh vực chức năng thần kinh 
nhận thức suy giảm ở nhóm RLTKNT điển 
hình đều có tỷ lệ cao hơn so với nhóm 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 37 - Năm 2019 
81 
RLTKNT nhẹ với p< 0,001. Rối loạn về chức 
năng học tập trí nhớ, chức năng ngôn ngữ, tập 
trung chú ý tư duy trừu tượng và chức năng 
điều hành chiếm tỷ lệ cao trong đối tượng 
nghiên cứu. Đặc biệt ngay trong giai đoạn 
RLTKNT nhẹ đã có đến rối loạn trong 6 lĩnh 
vực chức năng nhận thức. 
TÀILIỆU THAM KHẢO 
1. Đỗ Trung Quân (2011), Bệnh nội tiết 
chuyển hóa, NXB Giáo dục Việt Nam, tr.266. 
2. Nguyễn Kinh Quốc, Vũ Anh Nhị 
(2005), “Khảo sát thang điểm MMSE trên 
người Việt Nam bình thường”, Tạp chí Y học 
Thành phố Hồ Chí Minh tập 9. 
3. Nguyễn Hải Thủy (2008), Rối loạn 
lipid máu, Giáo trình sau đại học chuyên 
ngành nội tiết và chuyển hóa, Nhà xuất bản 
Đại học Huế, tr. 246-285. 
4. Nguyễn Hải Thủy (2008), Đề kháng 
insulin, Bệnh tim mạch trong rối loạn nội tiết 
và chuyển hóa, Nhà xuất bản Đại học Huế, tr. 
39-40. 
5. Nguyễn Đình Toàn (2016), So sánh 
thang điểm MoCa và MMSE trong tầm soát 
sa sút trí tuệ ở bệnh nhân đái tháo đường type 
2, Tạp chí Y Dược Học, tập 7 (03), trang 35. 
6. Lê Văn Tuấn (2014), “Đặc điểm dịch tễ 
học sa sút trí tuệ ở người cao tuổi tại hai quận, 
huyện Hà Nội”, Luận án tiến sĩ. 
7. American Diabetes Association (2010), 
Diagnosis and Classification of Diabetes 
Mellitus, Diabetes Care, 33 (1), pp. 62 -68. 
8. American Diabetes Association (2015), 
Diabetes Care, Volume 38/supplement 1, S8, 
S9. 
9. ADA (2019), Classification and 
Diagnosis of Diabetes: Standards of Medical 
Care in Diabetes- 2019, Diabetes Care 2019, 
Vol 42: S7- S12. 
10. AmericanPsychologicalAssociation(1 
994),DiagnosticandStatisticalManualofMental 
Disorders.FourthEdition,Washington,DC:Am 
ericanPsychiatricAssociation among 
Bahrainis attending primary health care 
centres”, The Eastern Mediterranean Health 
Journal, Vol.2 (2), pp. 274. 
11. Anderson JW, Kendall CW (2003), 
"Importance of weight management in type 
2 diabetes: review with meta analysis of 
clinical studies", J Am CollNutr 22. 
12. Arvanitakis Z, Wilson RS, Bievias 
JL, Evans DA, Bennett DA (2004), 
Diabetesmellitus and risk of Alzheimer's 
disease and decline in cognitive function, 
Arch Neurol,vol 61, pp. 661-666. 
13. Christopher T.Kodland Elizabeth 
R.Seaquist (2008), Cognitive Dysfuntion and 
Diabetes Mellitus, Endocrine Reviews. 
14. David G. Bruce, Genevieve P. Casey 
et al (2003), Cognitive impairment, physical 
disability and depressive symptoms in older 
diabetic patients: the Fremantle Cognitive in 
Diabetes Study, Diabetes Res Clin Pract. 
15. Dong Y, Sharma VK, Chan BP, 
Venketasubramanian N, Teoh HL, Seet RC, 
Tanicala S, Chan YH, Chen C. The Montreal 
Cognitive Assessment (MoCA) is superior to 
the Mini-Mental State Examination (MMSE) 
for the detection of vascular cognitive 
impairment after acute stroke.JNeurol Sci. 
2010 Dec 15. 
16. Farouq I. Al Zurba and Ahmad Al 
Garf (1996), “Prevalence of diabetes mellitus 
17. GeertJanBiessels(2006), Diabetes and 
Dementia, European Endocrine Disease. 
Theo G. J. Biessels, nghiên cứu RLTKNT ở 
nhóm đái tháo đường và nhóm chứng ghi 
nhận: tỷ lệ bệnh Alzheimer 36% so với 28%, 
chứng RLTKNT mạch máu 5% so với 2%; suy 
giảm nhận thức nhẹ 24% so với 17%, có sự 
khác biệt nhưng không có ý nghĩa thông kê. 
18. Biessels, G. J., Koffeman, A., & 
Scheltens, P. (2005), Diabetes and cognitive 
impairment, Journal of Neurology, 253(4), pp. 
477–482. 
19. Biessels, G. J., & Reijmer, Y. D, 
(2014). Brain Changes Underlying Cognitive 
Dysfunction in Diabetes: What Can We Learn 
From MRI? Diabetes, 63(7), 2244–2252. 
20. Biessels, G. J. & Reagan, L. P (2015), 
Hippocampal insulin resistance and cognitive 
dysfunction, Nat. Rev. Neurosci, Vol 16, pp. 
660–671 
21. Biessels G.J, Luchsinger JA et all 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 37 - Năm 2019 
82 
(2015), Diabetes and the brain, Humana 
Press, New York 
22. Biessels G. J., & Despa, F. (2018), 
Cognitive decline and dementia in diabetes 
mellitus: mechanisms and clinical 
implications, Nature Reviews Endocrinology, 
vol 14 (10), pp. 591-604. 
23. Hiroyuki Umegaki (2010), 
Pathophysiology of cognitive dysfunction 
in older people with type 2 diabetes: 
vascular changes orneurode generation? 
Age and Ageing, vol39. 
24. International Diabetes Federation 
(2014), IDF Diabetes Atlas update poster, 6th 
editon, Brussels, Belgium: International 
Diabetes Federation. 
25. International Diabetes Federation 
(2013), IDF Diabetes Atlas, 6th 
edition, Brussels, Belgium: International 
Diabetes Federation. 
26. Mori, Y., Futamura, A., Murakami, 
H., Kohashi, K., Hirano, T., & Kawamura, M. 
(2014), Increased detection of mild cognitive 
impairment with type 2 diabetes mellitus 
using the Japanese version of the Montreal 
Cognitive Assessment: A pilot study, 
Neurology and Clinical Neuroscience, 3(3), 
pp. 89–93. 
27. Mousiolis A., Kazakos K., et all 
(2016), Investiagational study of the impact 
of diabetes on cognitive function, poster 
presented at ECE 2016. 
28. Regier, D. A., Kuhl, E. A., & Kupfer, 
D. J. (2013). The DSM-5: Classification and 
criteria changes, World Psychiatry, 12(2), pp. 
92–98. 

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_roi_loan_than_kinh_nhan_thuc_qua_thang_diem_mmse.pdf