Nghiên cứu phân nhóm phân tử của ung thư biểu mô tuyến vú ống xâm nhập bằng hóa mô miễn dịch

Đặt vấn đề: Bệnh nhân ung thư biểu mô tuyến vú ống xâm nhập (UTBMTVOXN)

mặc dù có cùng đặc điểm mô bệnh học và cùng giai đoạn nhưng có biểu hiện lâm sàng,

tiến triển và đáp ứng với điều trị hoàn toàn khác nhau. Sự khác biệt này là do trong UTBMTVOXN có nhiều phân nhóm phân tử. Do vậy nghiên cứu này của chúng tôi nhằm

áp dụng hóa mô miễn dịch vào phân nhóm phân tử UTBMTVOXN.

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 120 mẫu bệnh phẩm UTBMTVOXN được

nhuộm hóa mô miễn dịch với các dấu ấn ER, PR, HER2, CK34βE12, CD117 tại Khoa

Giải phẫu bệnh - Bệnh viện K trung ương, trong năm 2014.

pdf 9 trang phuongnguyen 80
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu phân nhóm phân tử của ung thư biểu mô tuyến vú ống xâm nhập bằng hóa mô miễn dịch", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu phân nhóm phân tử của ung thư biểu mô tuyến vú ống xâm nhập bằng hóa mô miễn dịch

Nghiên cứu phân nhóm phân tử của ung thư biểu mô tuyến vú ống xâm nhập bằng hóa mô miễn dịch
TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175-SOÁ 1/2015
45
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Bệnh nhân ung thư biểu mô tuyến vú ống xâm nhập (UTBMTVOXN) 
mặc dù có cùng đặc điểm mô bệnh học và cùng giai đoạn nhưng có biểu hiện lâm sàng, 
tiến triển và đáp ứng với điều trị hoàn toàn khác nhau. Sự khác biệt này là do trong UT-
BMTVOXN có nhiều phân nhóm phân tử. Do vậy nghiên cứu này của chúng tôi nhằm 
áp dụng hóa mô miễn dịch vào phân nhóm phân tử UTBMTVOXN.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 120 mẫu bệnh phẩm UTBMTVOXN được 
nhuộm hóa mô miễn dịch với các dấu ấn ER, PR, HER2, CK34βE12, CD117 tại Khoa 
Giải phẫu bệnh - Bệnh viện K trung ương, trong năm 2014.
Kết quả: Tỷ lệ dương tính với ER, PR, HER2 tương ứng là 51,67%; 45% và 45,83%. 
Trong 23 trường hợp bộ ba âm tính thì có 10 trường hợp CK34ßE12(+); 1 trường hợp 
CD117 (+). Trong 120 trường hợp UTBMTVOXN có 5,83% phân nhóm lòng ống A; 
29,17% phân nhóm lồng ống B; 20,83% phân nhóm HER2; 9,17% phân nhóm giống 
đáy; 10% phân nhóm bộ năm âm tính; 1,67% phân nhóm lòng ống A/HER2(+) và 
23,33% phân nhóm lòng ống B/HER2 (+).
Kết luận: Hóa mô miễn dịch là công cụ hữu ích trong xác định phân nhóm phân tử 
của UTBMTVOXN. Trong các phân nhóm phân tử, hai phân nhóm lòng ống B và phân 
nhóm lòng ống B/HER2(+) chiếm tỷ lệ cao (52,5%). 
Từ khóa: Ung thư biểu mô ống xâm nhập, phân nhóm phân tử ung thư vú.
 RESEARCH ON MOLECULAR SUBTYPES OF INVASIVE DUCTAL 
CARCINOMA BY IMMUNOHISTOCHEMISTRY
ABSTRACT
Background: Inspite of the fact that the patients with invasive ductal carcinoma 
(IDC) have the same pathological characteristics and are in the same stage, their clini-
cal characteristics, progression of disease and response to treatment are completely 
NGHIÊN CỨU PHÂN NHÓM PHÂN TỬ CỦA UNG THƯ BIỂU MÔ 
TUYẾN VÚ ỐNG XÂM NHẬP BẰNG HÓA MÔ MIỄN DỊCH
Nguyễn Thùy Linh(1); Nguyễn Phi Hùng(2)
Trần Ngọc Dũng(1); Nguyễn Thành Chung(1)
(1) Bệnh viện quân y 103
(2) Bệnh viện K Trung Ương 
Người phản hồi (Corresponding): Nguyễn Thùy Linh ([email protected] )
TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175-SOÁ 1/2015
46
different. Because IDC have many molecular subtypes. Our study aimed to apply im-
munohistochemistry in classification of molecular subtypes of IDC.
Materials and methods: 120 samples IDC were stained with immunohistochemical 
markers: ER, PR, HER2, CK34βE12, CD117, studied in The Department of Pathology 
- Vietnam National Cancer Hospital in 2014 .
Results: The positivity rate with ER, PR, HER2 was noted in 62/120 cases (51.67%), 
54/120 cases (45%) and 55/120 cases (45.83%) respectively. Among 23 cases of triple 
negative, there were 10 cases of CK34ßE12(+), 1 case of CD117 (+). Of 120 IDC, 
5.83% luminal A subtype; 29.17% luminal B; 20.83% HER2; 9.17% basal like; 10% 
five negative; 1.67% luminal A-HER2 hybrid and 23,33% luminal B-HER2 hybrid. 
Conclusion: Immunohistochemistry is a useful tool in determining the molercular 
subtypes of IDC. Among molecular subtypes, luminal B and luminal B-HER2 hybrid ac-
counted for high percentage (52.5%).
Keywords: Invasive ductal carcinoma, Molecular subtypes of breast cancer.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư vú là một căn bệnh hay gặp 
và chiếm tỷ lệ tử vong hàng đầu trong 
số các loại ung thư của nữ giới ở nhiều 
nước trên thế giới. Trong các loại ung thư 
vú hay gặp nhất và chiếm tỷ lệ cao nhất 
(80%) là ung thư biểu mô ống xâm nhập. 
Thực tế lâm sàng, bệnh nhân ung thư vú 
mặc dù có cùng đặc điểm mô bệnh học và 
cùng giai đoạn nhưng có thể biểu hiện lâm 
sàng, tiến triển và đáp ứng với liệu pháp 
điều trị hoàn toàn khác nhau. Khảo sát ở 
cấp độ phân tử cho thấy rằng bệnh ung thư 
vú không phải là một thực thể duy nhất 
mà bao gồm các phân nhóm phân tử khác 
nhau. Những phân nhóm phân tử ung thư 
vú này có các yếu tố nguy cơ về dịch tễ 
học khác nhau, diễn tiến tự nhiên của bệnh 
cũng khác nhau và đáp ứng với các phác 
đồ trị liệu toàn thân cũng như tại chỗ cũng 
khác nhau.
Hiện nay ở nước ta tại nhiều bệnh viện 
lớn đã triển khai nhuộm hóa mô miễn dịch 
các trường hợp ung thư vú với các dấu ấn 
ER, PR, HER2, đó là các dấu ấn có giá trị 
về tiên lượng và dự đoán đáp ứng điều trị 
nhưng được khảo sát và nghiên cứu riêng 
lẻ. Có rất ít nghiên cứu đi sâu vào phân 
nhóm phân tử của ung thư vú nói chung 
và của ung thư biểu mô tuyến vú ống xâm 
nhập nói riêng. Đề tài được thực hiện nhằm 
2 mục tiêu sau:
- Nghiên cứu sự bộc lộ các dấu ấn ER, 
PR, HER2, CK34βE12, CD117 của ung 
thư biểu mô tuyến vú ống xâm nhập.
- Phân nhóm phân tử ung thư biểu mô 
tuyến vú ống xâm nhập dựa vào kiểu hình 
hóa mô miễn dịch.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
 - 120 mẫu bệnh phẩm lưu trữ dưới 
dạng khối nến của bệnh nhân được chẩn 
đoán mô bệnh học là ung thư biểu mô 
tuyến vú ống xâm nhập tại Bệnh viện K 
trung ương, trong thời gian từ tháng 3 đến 
tháng 5 năm 2014. 
- Tiêu chuẩn loại trừ: Các trường hợp 
bệnh nhân được xạ trị hay hóa trị trước 
phẫu thuật. 
TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175-SOÁ 1/2015
47
2. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên 
cứu mô tả hồi cứu và tiến cứu
* Các bước tiến hành:
- Nghiên cứu bộc lộ các dấu ấn trên 
tiêu bản nhuộm hóa mô miễn dịch: 
+ 120 trường hợp ung thư biểu mô 
tuyến vú ống xâm nhập đều được nhuộm 
với ER, PR, HER2.
+ 23 trường hợp âm tính với cả ba dấu 
ấn ER, PR, HER2 được tiến hành nhuộm 
tiếp với các dấu ấn CK34βE12, CD117.
- Phân nhóm phân tử ung thư biểu mô 
tuyến vú ống xâm nhập dựa vào kiểu hình 
hóa mô miễn dịch.
* Đánh giá kết quả nhuộm hóa mô 
miễn dịch
+ Đánh giá biểu lộ HER2 theo tiêu 
chuẩn đánh giá ASCO/CAP [11]
- IHC 0 (âm tính): Không có phản ứng
- IHC 1+ (âm tính): Nhuộm màng nhạt 
màu/một phần <10% tế bào u
- IHC 2+ (không rõ ràng): Nhuộm 
màng hoàn toàn từ yếu đến vừa >10% tế 
bào u.
- IHC 3+ (dương tính): Bắt màu đậm 
hoàn toàn màng tế bào >30% tế bào u.
Trong nghiên cứu của chúng tôi HER2 
được xác định dương tính khi IHC 2+ và 3+
+ Đánh giá biểu lộ của các thụ thể 
hormon (ER và PR)
Trong nghiên cứu sử dụng cách tính 
điểm cho hai thụ thể hóc môn này theo 
phương pháp bán định lượng của tác giả 
Wilbur (1992) gọi là HSCORE (HS) [12] 
được tính theo cường độ và tỷ lệ như sau:
HS = (Cường độ bắt màu) x (tỷ lệ % tế 
bào u bắt màu)
Trong đó:
Cường độ bắt màu mạnh = 3
Cường độ bắt màu trung bình = 2
Cường độ bắt màu yếu = 1
Không bắt màu = 0
Điểm HS sẽ từ 0 đến 300. Căn cứ vào 
điểm HS để xác định ER và PR dương tính 
và âm tính như sau:
- ER và PR dương tính khi HS > 10 
điểm
- ER và PR âm tính khi HS ≤ 10 điểm
+ Đánh giá biểu lộ dấu ấn CD117, 
CK34βE12
- Dương tính: Khi có 1% bào tương tế 
bào u bắt màu nâu.
- Âm tính: Khi bào tương tế bào u 
không bắt màu thuốc nhuộm.
* Phân nhóm phân tử dựa vào kết quả 
nhuộm HMMD 
Bảng phân nhóm phân tử dùng trong nghiên cứu
Phân nhóm phân tử Tiêu chuẩn chẩn đoán
Lòng ống A ER ≥ 200 điểm, HER2(-)
Lòng ống B ER 11-199 điểm hoặc PR > 10 điểm, HER2(-)
Giống đáy ER và PR ≤ 10 điểm, HER2(-), CK34ßE12(+) hoặc CD117(+)
Bộ năm âm tính ER và PR ≤ 10 điểm, HER2(-), CK34ßE12(-) và CD117(-)
ERBB2 (HER2) ER và PR ≤ 10 điểm, HER2(+)
Lòng ống A/HER2(+) ER ≥ 200 điểm, HER2(+)
Lòng ống B/HER2(+) ER 11-199 điểm hoặc PR > 10 điểm, HER2(+)
TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175-SOÁ 1/2015
48
Bảng phân nhóm phân tử dung trong 
nghiên cứu cơ bản theo cách phân nhóm 
phân tử của Bhargava (2010), nhưng với 
bộ ba âm tính chúng tôi không sử dụng 
các dấu ấn CK5/6 hay EGFR mà sử dụng 
CK34βE12 và CD117 để xác định phân 
nhóm giống đáy. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN
1. Đặc điểm bộc lộ các dấu ấn miễn dịch
Bảng 1. Kết quả nhuộm HMMD với ER và PR
Dấu ấn Dương tính Âm tính
ER
≥ 200 diểm 11-199 điểm ≤ 10 điểm
Số lượng Tỷ lệ(%) Số lượng Tỷ lệ(%) Số lượng Tỷ lệ(%)
9 7,50 53 44,17 58 48,33
PR
>10 điểm ≤ 10 điểm
Số lượng Tỷ lệ (%) Số lượng Tỷ lệ(%)
54 45,00 66 55,00
 Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỷ 
lệ ung thư biểu mô tuyến vú ống xâm nhập 
dương tính với ER là 51,67%, trong đó có 
7,5% ER ≥ 200 điểm và tỷ lệ dương tính 
với PR là 45%. Kết quả này thấp hơn so 
với các tác giả trong và ngoài nước. Theo 
nghiên cứu của Tạ Văn Tờ (2004) cùng 
tiến hành trên bệnh nhân ung thư vú Bệnh 
viện K cho thấy có 59,1% ER(+), 51,4% 
PR(+) [2]. Các nghiên cứu của Nishimura 
(2013) cho kết quả là 74,6% có ER(+), và 
61,7% có PR(+); nghiên cứu của Engstrom 
(2013) tỷ lệ ER(+) lên tới 82,4%, PR(+) 
57,3% [5], [7]. 
Kết quả đồng bộc lộ ER và PR cho 
thấy tỷ lệ ER(+) và/hoặc PR (+) là 60%, tỷ 
lệ nhóm ER(+) và PR(+) chiếm 36,67%. 
Kết quả này cũng thấp hơn của các tác giả 
khác như kết quả của Tạ Văn Tờ (2004) thì 
có 63,3% ER(+) và/hoặc PR(+), đồng bộc 
lộ cả ER và PR là 47,2% [2]. Nghiên cứu 
của Parise (2014) thì có 79,38% ER(+) và/
hoặc PR(+), tỷ lệ đồng bộc lộ ER và PR 
là 65,38%.
Có sự khác biệt này là do cách đánh 
giá kết quả phản ứng HMMD với ER và 
PR trong nghiên cứu của chúng tôi khác 
so với các tác giả trên. Đa số các tác giả 
đánh giá bộc lộ ER và PR theo tiêu chuẩn 
của ASCO/CAP với giá trị giới hạn là 1% 
tế bào u [11]. Còn trong nghiên cứu của 
chúng tôi ER và PR được xác định dương 
tính khi HS > 10 điểm.
TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175-SOÁ 1/2015
49
Bảng 2. Kết quả nhuộm HMMD với HER2
Dấu ấn HER2 Số lượng Tỷ lệ (%)
Âm tính 39 32,50
Dương tính (1+) 26 21,67
Dương tính (2+) 38 31,67
Dương tính (3+) 17 14,16
Tổng 120 100
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho tỷ lệ dương tính với HER2 là 45,83%, cao hơn 
kết quả nghiên cứu của các tác giả khác như nghiên cứu của Tạ Văn Tờ (2004) cho tỷ lệ 
dương tính với HER2 là 35,1% [2]; nghiên cứu của Đoàn Thị Phương Thảo (2012) có 
39,2% HER2 (+), trong đó 27,2% HER2 (3+) và 11,9% HER2 (2+) [1].
Một số nghiên cứu khác cho kết quả 
dương tính với HER2 cao hơn nghiên cứu 
của chúng tôi. Nghiên cứu của Hadi (2004) 
ở trường đại học Washington – Mỹ có tỷ lệ 
dương tính với HER2 là 50,9%; trong đó 
có 39,5% HER2(2+), 11,4% HER2(3+). 
Nghiên cứu của Vũ Hồng Thắng (2011) 
trên mẫu bệnh nhân ung thư vú là phụ nữ 
Việt Nam nhưng được thực hiện nghiên 
cứu tại Stockholm- Thủy Điển, cho thấy 
tỷ lệ biểu hiện quá mức HER2 rất cao 
(50%), trong đó 39% HER2(3+), và 11% 
HER2(2+) [9]
Kết quả bộc lộ HER2 giữa các tác 
giả có sự khác biệt như vậy là do thụ thể 
HER2 là một loại protein thuộc màng tế 
bào nên dễ bị biến tính trong quá trình xử 
lý mẫu bệnh phẩm và bị tác động rất lớn 
bởi dung dịch cố định, thời gian cố định. 
Ngoài ra đây là xét nghiệm bán định lượng 
nên tính chủ quan trong đánh giá kết quả 
có thể dẫn đến kết quả khác nhau. Tuy 
nhiên theo ASCO thì lý do quan trọng nhất 
của sự khác biệt về tỷ lệ biểu hiện thụ thể 
HER2 là do đặc tính sinh học của nhóm 
bệnh nhân ung thư vú được nghiên cứu 
[11].
Bảng 3. Kết quả nhuộm HMMD bộ ba âm tính với CK34βE12, CD117 (n=23)
Dấu ấn
Dương tính Âm tính
Số lượng Tỷ lệ (%) Số lượng Tỷ lệ (%)
CD117 1 4,35 22 95,65
CK34βE12 10 43,48 13 56,52
Trong 23 trường hợp có bộ ba âm tính 
ER(-)/PR(-)/HER2(-) có 10 trường hợp 
(+) với CK34ßE12 (43,48%) với cường độ 
bắt màu mạnh, 1 trường hợp dương tính 
với CD117 (0,83%) với cường độ yếu. Tỷ 
lệ dương tính với CK34βE12 trong nghiên 
cứu của chúng tôi thấp hơn so với các 
nghiên cứu khác. Theo Mehta (2010) tỷ 
lệ dương tính với CK34βE12 là 85%, còn 
trong nghiên cứu của Thike (2010) tỷ lệ 
này là 70%. Tỷ lệ dương tính với CD117 
của chúng tôi cũng thấp hơn của Thike 
(2010) là 45% trong đó dương tính 1+ 
chiếm 36% [6], [10].
TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175-SOÁ 1/2015
50
2. Phân nhóm phân tử ung thư biểu mô tuyến vú ống xâm nhập
Bảng 4. Kết quả phân nhóm phân tử của ung thư biểu mô tuyến vú ống xâm nhập
Phân nhóm phân tử Số lượng Tỷ lệ (%)
Phân nhóm lòng ống A 7 5,83
Phân nhóm lòng ống A/HER2(+) 2 1,67
Phân nhóm lòng ống B 35 29,17
Phân nhóm lòng ống B/HER2(+) 28 23,33
Phân nhóm HER2 25 20,83
Phân nhóm giống đáy 11 9,17
Phân nhóm bộ năm âm tính 12 10,00
Tổng 120 100
Theo đa số các tác giả thì ung thư vú 
có 5 phân nhóm chính là lòng ống A, lòng 
ống B, HER2, giống đáy và bộ năm âm 
tính, trong đó thường sử dụng 5 dấu ấn 
miễn dịch là ER, PR, HER2, Ki67, CK5/6 
hoặc EGFR. Theo đó phân nhóm lòng 
ống chiếm tỷ lệ cao nhất khoảng 65-70%, 
phân nhóm HER2 chiếm khoảng 10-15%, 
phân nhóm giống đáy chiếm 15-20%, 
phân nhóm bộ năm âm tính chiếm khoảng 
6-10% tất cả ung thư vú. 
Bảng 5. Kết quả nghiên cứu phân nhóm phân tử của các tác giả khác nhau trên thế 
giới
Tác giả (năm) N
Lòng ống 
A(Tỷ lệ %)
Lòng ống B 
(Tỷ lệ %)
HER2 
(Tỷ lệ 
%)
Bộ ba âm tính
Giống 
đáy (Tỷ 
lệ %)
Bộ năm âm 
tính (Tỷ 
lệ%)
Solie (2003) 115 19 53 14 14
Carey (2006) 496 45,36 15,52 6,65 20,16 6,25
Cheang (2009) 357 28 19 17 28 8
Falck (2013) 85 53 20 13 14
Nishimura 
(2013)
2639 66,3 10 10,2 13,5
Rambau(2014) 52 34,6 17,3 9,6 38,4
Horn (2014) 825 47,5
27,4B 
[HER2(-)] -)
7,8B 
[HER2(+)]
6,4 7 3,9
Tỷ lệ phân nhóm phân tử của ung thư 
vú rất khác biệt giữa các nghiên cứu, cho 
thấy sự đa dạng về đặc tính sinh học của tế 
bào u. Có sự khác nhau trong phân nhóm 
TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175-SOÁ 1/2015
51
phân tử ung thư vú là do cách đánh giá 
khác nhau về các dấu ấn miễn dịch ER, 
PR, HER2, Ki67 và các dấu ấn tế bào đáy 
được sử dụng.
Bảng 6. Các giá trị giới hạn của các dấu ấn miễn dịch sử dụng trong các nghiên cứu
Dấu ấn
Tác giả
ER(+) PR(+) HER2(+) Ki67
Carey(2006) 5% 5% HMMD HER2 (2+) và (3+)
Cheang (2009) ≥ 1% ≥ 1%
HMMD HER2 (3+) hoặc 
HER2 (2+) có FISH > 2.0
14%
Bhargava (2010)
> 1 0 
điểm
> 10 điểm
HMMD HER2 (3+) hoặc 
HER2 (2+) có FISH > 2.0
Nishimura (2013) ≥ 10% ≥ 10% HMMD HER2 (2+) và (3+) 20%
Falck (2013) ≥ 10% ≥ 10%
HMMD HER2 (3+) hoặc 
HER2 (2+) có FISH > 2.0
20%
Engstrom (2013)
Horn (2014) ≥ 1% ≥ 1%
HMMD HER2 (3+) hoặc 
HER2 (2+) có
CISH > 2.0
15%
Rambau (2014) ≥ 1% ≥ 1% HMMD HER2 (2+) và (3+) 10%
Về cơ bản các tác giả đều thống nhất 
kiểu hình của ba phân nhóm HER2 là (ER(-
), PR(-), HER2(+); phân nhóm giống đáy là 
ER(-), PR(-), HER2(-), CK5/6(+) và/hoặc 
EGFR(+); phân nhóm bộ năm âm tính là 
ER(-), PR(-), HER2(-), CK5/6(-), EGFR(-). 
Còn phân biệt hai phân nhóm lòng ống A và 
B thì có nhiều cách khác nhau. 
Theo tác giả Nishimura (2013) thì kiểu 
hình của phân nhóm lòng ống A là ER(+) 
và/hoặc PR(+), HER2(-); kiểu hình của 
phân nhóm lòng ống B là ER(+) và/hoặc 
PR(+), HER2(+) [7]. 
Theo các tác giả Cheang (2009), 
Schnitt (2013) đã sử dụng Ki67 trong xác 
định hai phân nhóm A và B với giái trị giới 
hạn của Ki67 là 14%. Khi đó phân nhóm 
lòng ống A có kiểu hình là ER(+) và/hoặc 
PR(+), HER2(-), Ki67 thấp (Ki67< 14%), 
phân nhóm lòng ống B gồm hai nhóm nhỏ 
là phân nhóm lòng ống B/HER2(-) có kiểu 
hình là ER(+) và/hoặc PR(+), HER2(-), 
Ki67 cao (Ki67 ≥ 14%) và phân nhóm lòng 
ống B/HER2(+) có kiểu hình là ER(+) và/
hoặc PR(+), HER2(+), Ki67 bất kỳ [4], [8]. 
Một số tác giả khác xác định hai 
phân nhóm này không chỉ dựa vào các giá 
trị giới hạn của Ki67 mà còn căn cứ vào 
mức độ biểu hiện của ER và PR như tác 
giả Goldhirsch (2013) chỉ ra kiểu hình của 
phân nhóm lòng ống A là ER(+) và PR ≥ 
20%, HER2(-), Ki67 thấp (Ki67< 20%), 
phân nhóm lòng ống B chia hai nhóm nhỏ 
là phân nhóm lòng ống B/HER2(-) có kiểu 
hình là: ER(+), HER2(-) và ít nhất một 
trong các điều kiện sau: Ki67 cao (Ki67 ≥ 
20%); PR(-) hoặc thấp (PR < 20%); phân 
nhóm lòng ống B/HER2(+) có kiểu hình là 
ER(+), HER2(+), Ki67 bất kỳ, PR bất kỳ. 
Các cách phân nhóm phân tử trên phức 
tạp, được dùng cho các mục đích nghiên 
cứu khác nhau và hạn chế của chúng là 
không nêu bật được vai trò của ER trong 
phân nhóm phân tử và trong điều trị nội tiết. 
Do vậy trong nghiên cứu này chúng tôi sử 
dụng cách phân nhóm phân tử của Bhargava 
TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175-SOÁ 1/2015
52
(2010) với kiểu hình của phân nhóm lòng 
ống A là ER ≥ 200 điểm, HER2(-), kiểu 
hình của phân nhóm lòng ống B là ER từ 11 
dến 199 điểm hoặc PR > 10 điểm, HER2(-). 
Từ đó thấy mức độ biểu hiện của ER trong 
hai phân nhóm lòng ống A và B có sự khác 
nhau rõ ràng. Trong phân nhóm phân tử của 
Bhargava (2010) ngoài 5 phân nhóm chính 
là lòng ống A, lòng ống B, HER2, giống 
đáy và bộ năm âm tính, còn có hai phân 
nhóm khác là lòng ống A/HER2 (+) và lòng 
ống B/HER2(+) [3].
Kết quả phân nhóm phân tử của ung thư 
biểu mô tuyến vú ống xâm nhập của chúng 
tôi cho thấy phân nhóm lòng ống B chiếm 
tỷ lệ cao nhất 29,17%; sau đó đến phân 
nhóm lòng ống B/HER2(+) chiếm 23,33%; 
phân nhóm HER2 chiếm 20,83%; phân 
nhóm bộ ba âm tính là 19,17%; phân nhóm 
lòng ống A chiếm tỷ lệ nhỏ 5,83%; thấp 
nhất là phân nhóm lòng ống A/HER2(+) 
1,67%. Như vậy trong bảy phân nhóm thì 
chiếm chủ yếu (52,5%) là hai phân nhóm 
lòng ống B và lòng ống B/HER2 (+). Đây 
là hai phân nhóm có đặc điểm lâm sàng thời 
gian sống thêm không bệnh ngắn hơn phân 
nhóm lòng ống A, nguy cơ tái phát cao, hay 
di căn sớm, có xu hướng di căn đến xương 
và màng phổi, đáp ứng điều trị nội tiết kém 
hơn phân nhóm lòng ống A và đáp ứng với 
hóa trị liệu kém hơn phân nhóm giống đáy 
và phân nhóm HER2. 
Theo kết quả trên thì phân nhóm lòng 
ống A thấp hơn hẳn nghiên cứu của tác giả 
Bhargava (2010) trong đó phân nhóm lòng 
ống A chiếm tỷ lệ cao nhất (31%), sau đó 
là phân nhóm bộ ba âm tính (22%), phân 
nhóm lòng ống B chiếm 20%, phân nhóm 
HER2 chiếm 16%, phân nhóm lòng ống A/
HER2(+) là 4%, phân nhóm lòng ống B/
HER2(+) chiếm 7% [3]. Có sự khác nhau 
này là do tác giả Bhargava đã nghiên cứu 
trên tất cả các loại ung thư vú, còn nghiên 
cứu của chúng tôi chỉ xét riêng loại ung thư 
biểu mô tuyến vú ống xâm nhập, là loại 
ung thư chủ yếu có tiên lượng thấp và trung 
bình.
KẾT LUẬN
Nghiên cứu phân nhóm phân tử ung 
thư biểu mô tuyến vú ống xâm nhập bằng 
hóa mô miễn dịch trên 120 mẫu bệnh phẩm, 
chúng tôi nhận thấy:
- Tỷ lệ (+) với ER là 51,67%, với PR là 
45% và với HER2 là 45,83%.
- Trong 23 trường hợp bộ ba âm tính 
có 10 trường hợp (+) với CK34ßE12 chiếm 
43,48%; 1 trường hợp (+) với CD117chiếm 
0,83%.
- Ung thư biểu mô tuyến vú ống xâm 
nhập có 7 phân nhóm phân tử, trong đó 
chiếm chủ yếu (52,5%) là hai phân nhóm 
lòng ống B và phân nhóm lòng ống B/
HER2 (+). 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đoàn Thị Phương Thảo (2012), 
Nghiên cứu gen Her2 và phân nhóm phân 
tử ung thư vú, Luận án tiến sỹ y học, Đại 
học y dược Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Tạ Văn Tờ (2004), Nghiên cứu hình 
thái, hóa mô miễn dịch và giá trị tiên lượng 
của chúng trong ung thư biểu mô tuyến vú, 
Luận án tiến sỹ y học, Đại học y, Hà Nội. 
3. Bhargava R. et al (2010), 
“Immunohistochemical Surrogate Markers 
of Breast Cancer Molecular Classes Predicts 
Response to Neoadjuvant Chemotherapy”, 
Cancer, 116, pp. 1431-1439
4. Cheang M.C. et al (2009), “Ki67 
Index, HER2 Status, and Prognosis of 
Patients With Luminal B Breast Cancer”, 
J Natl Cancer Inst, 101, pp. 736-750
TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175-SOÁ 1/2015
53
5. Engstrom M.J., et al (2013), 
“Molecular subtypes, histopathological 
grade and survival in a historic cohort of 
breast cancer patients”, Breast cancer res 
treat, 104: 463-473.
6. Mehta R., Jain R.K., Sneige N., Badve 
S., Resetkova E. (2010), “Expression of high-
molecular-weight cytokeratin (34betaE12) 
is an independent predictor of disease-free 
survival in patients with triple-negative 
tumours of the breast”, J Clin Pathol, 63(8), 
pp. 744-7.
7. Nishimura R., et al (2013), “Ki67 
as a prognostic marker according to 
breast cancer subtype and a predictor of 
recurrence time in primary breast cancer”, 
Experimental and Therapeutic Medicine, 
1, pp.747-754.
8. Schnitt S.J., Millis R.R. (2007), 
Histology for pathologist, 3rd Edition
9. Thang V.H. (2012), Prognostic and 
predictive factors in Vietnamese Breast 
cancer: A comparison with Swedish patients 
and effect on survival, Karolinska Institutet 
1-46.
10.Thike A.A., Cheok P.Y., et al 
(2010), “Triple-negative breast cancer: 
clinicopathological characteristics and 
relationship with basal-like breast cancer”, 
Modern Pathology, 23, pp. 123–133.
(...Tiếp theo trang 44)
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ SỎI NIỆU QUẢN 1/3 TRÊN....
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Văn Chiến, Nguyễn Công Bình 
và cộng sự (2012). Đánh giá kết quả điều 
trị tán sỏi niệu quản nội soi ngược dòng 
bằng máy tán Laser. Y học TP. Hồ Chí 
Minh, tập 16(3), tr 520- 522
2. Nguyễn văn Trí Dũng, Vũ Hồng 
Thịnh (2011). So sánh hai phương pháp 
tán sỏi nội soi ngược dòng bằng siêu âm 
và Lser. Y học TP. Hồ Chí Minh, tập 15(3), 
tr 151- 155.
3. Ngô Gia Hy (1980). Sỏi niệu quản. 
Niệu học tập 1. NXB y học TP. HCM. 
4. Thái cao Tấn, Lê đức Dũng và cs 
(2010). Điều trị sỏi niệu quản bằng kĩ thuật 
ít xâm hại tại bệnh viện C Đà nẵng. Y học 
Việt Nam tháng 11(2), tr 471 - 479.
5. Đỗ Ngọc thế, Trần Các và cs (2012). 
Đánh giá kết quả nội soi tán sỏi niệu quản 
bằng Laser HO: YAG trên 107 bệnh nhân 
sỏi niệu quản, tập 16(3), tr 318- 322.
6. Lê Anh Tuấn, Nguyễn Tuấn Vinh 
(2004). Hiệu quả của Homium Laser trong 
điều trị sỏi niệu quản. Y học TP. Hồ Chí 
Minh, tập 8 (1), tr 323- 325.
7. Nguyễn Minh Tuấn, Trần Thị Bích 
Lan và cs (2012). Đánh giá kết quả tán sỏi 
niệu quản nội soi bằng Laser tại bệnh viện 
E. Y học TP. Hồ Chí Minh, tập 16(3), tr 
419- 422.
8. Turkc, Knoll et al (2011). Guidelines 
on urolithiasis in European Association of 
Urology (Ed), pp 47- 55.
9. American Urology Association 
(2007). Guidelines for the management of 
uretero calculi, Baltimo USA.
10. Wolf sj (2007). Treatment 
selection and outcomes: Ureteral calculi. 
Urolithiasis: 34, pp 421- 429.

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_phan_nhom_phan_tu_cua_ung_thu_bieu_mo_tuyen_vu_on.pdf