Nghiên cứu phân nhóm phân tử của ung thư biểu mô tuyến vú ống xâm nhập bằng hóa mô miễn dịch
Đặt vấn đề: Bệnh nhân ung thư biểu mô tuyến vú ống xâm nhập (UTBMTVOXN)
mặc dù có cùng đặc điểm mô bệnh học và cùng giai đoạn nhưng có biểu hiện lâm sàng,
tiến triển và đáp ứng với điều trị hoàn toàn khác nhau. Sự khác biệt này là do trong UTBMTVOXN có nhiều phân nhóm phân tử. Do vậy nghiên cứu này của chúng tôi nhằm
áp dụng hóa mô miễn dịch vào phân nhóm phân tử UTBMTVOXN.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 120 mẫu bệnh phẩm UTBMTVOXN được
nhuộm hóa mô miễn dịch với các dấu ấn ER, PR, HER2, CK34βE12, CD117 tại Khoa
Giải phẫu bệnh - Bệnh viện K trung ương, trong năm 2014.
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu phân nhóm phân tử của ung thư biểu mô tuyến vú ống xâm nhập bằng hóa mô miễn dịch", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu phân nhóm phân tử của ung thư biểu mô tuyến vú ống xâm nhập bằng hóa mô miễn dịch
TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175-SOÁ 1/2015 45 TÓM TẮT Đặt vấn đề: Bệnh nhân ung thư biểu mô tuyến vú ống xâm nhập (UTBMTVOXN) mặc dù có cùng đặc điểm mô bệnh học và cùng giai đoạn nhưng có biểu hiện lâm sàng, tiến triển và đáp ứng với điều trị hoàn toàn khác nhau. Sự khác biệt này là do trong UT- BMTVOXN có nhiều phân nhóm phân tử. Do vậy nghiên cứu này của chúng tôi nhằm áp dụng hóa mô miễn dịch vào phân nhóm phân tử UTBMTVOXN. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 120 mẫu bệnh phẩm UTBMTVOXN được nhuộm hóa mô miễn dịch với các dấu ấn ER, PR, HER2, CK34βE12, CD117 tại Khoa Giải phẫu bệnh - Bệnh viện K trung ương, trong năm 2014. Kết quả: Tỷ lệ dương tính với ER, PR, HER2 tương ứng là 51,67%; 45% và 45,83%. Trong 23 trường hợp bộ ba âm tính thì có 10 trường hợp CK34ßE12(+); 1 trường hợp CD117 (+). Trong 120 trường hợp UTBMTVOXN có 5,83% phân nhóm lòng ống A; 29,17% phân nhóm lồng ống B; 20,83% phân nhóm HER2; 9,17% phân nhóm giống đáy; 10% phân nhóm bộ năm âm tính; 1,67% phân nhóm lòng ống A/HER2(+) và 23,33% phân nhóm lòng ống B/HER2 (+). Kết luận: Hóa mô miễn dịch là công cụ hữu ích trong xác định phân nhóm phân tử của UTBMTVOXN. Trong các phân nhóm phân tử, hai phân nhóm lòng ống B và phân nhóm lòng ống B/HER2(+) chiếm tỷ lệ cao (52,5%). Từ khóa: Ung thư biểu mô ống xâm nhập, phân nhóm phân tử ung thư vú. RESEARCH ON MOLECULAR SUBTYPES OF INVASIVE DUCTAL CARCINOMA BY IMMUNOHISTOCHEMISTRY ABSTRACT Background: Inspite of the fact that the patients with invasive ductal carcinoma (IDC) have the same pathological characteristics and are in the same stage, their clini- cal characteristics, progression of disease and response to treatment are completely NGHIÊN CỨU PHÂN NHÓM PHÂN TỬ CỦA UNG THƯ BIỂU MÔ TUYẾN VÚ ỐNG XÂM NHẬP BẰNG HÓA MÔ MIỄN DỊCH Nguyễn Thùy Linh(1); Nguyễn Phi Hùng(2) Trần Ngọc Dũng(1); Nguyễn Thành Chung(1) (1) Bệnh viện quân y 103 (2) Bệnh viện K Trung Ương Người phản hồi (Corresponding): Nguyễn Thùy Linh ([email protected] ) TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175-SOÁ 1/2015 46 different. Because IDC have many molecular subtypes. Our study aimed to apply im- munohistochemistry in classification of molecular subtypes of IDC. Materials and methods: 120 samples IDC were stained with immunohistochemical markers: ER, PR, HER2, CK34βE12, CD117, studied in The Department of Pathology - Vietnam National Cancer Hospital in 2014 . Results: The positivity rate with ER, PR, HER2 was noted in 62/120 cases (51.67%), 54/120 cases (45%) and 55/120 cases (45.83%) respectively. Among 23 cases of triple negative, there were 10 cases of CK34ßE12(+), 1 case of CD117 (+). Of 120 IDC, 5.83% luminal A subtype; 29.17% luminal B; 20.83% HER2; 9.17% basal like; 10% five negative; 1.67% luminal A-HER2 hybrid and 23,33% luminal B-HER2 hybrid. Conclusion: Immunohistochemistry is a useful tool in determining the molercular subtypes of IDC. Among molecular subtypes, luminal B and luminal B-HER2 hybrid ac- counted for high percentage (52.5%). Keywords: Invasive ductal carcinoma, Molecular subtypes of breast cancer. ĐẶT VẤN ĐỀ Ung thư vú là một căn bệnh hay gặp và chiếm tỷ lệ tử vong hàng đầu trong số các loại ung thư của nữ giới ở nhiều nước trên thế giới. Trong các loại ung thư vú hay gặp nhất và chiếm tỷ lệ cao nhất (80%) là ung thư biểu mô ống xâm nhập. Thực tế lâm sàng, bệnh nhân ung thư vú mặc dù có cùng đặc điểm mô bệnh học và cùng giai đoạn nhưng có thể biểu hiện lâm sàng, tiến triển và đáp ứng với liệu pháp điều trị hoàn toàn khác nhau. Khảo sát ở cấp độ phân tử cho thấy rằng bệnh ung thư vú không phải là một thực thể duy nhất mà bao gồm các phân nhóm phân tử khác nhau. Những phân nhóm phân tử ung thư vú này có các yếu tố nguy cơ về dịch tễ học khác nhau, diễn tiến tự nhiên của bệnh cũng khác nhau và đáp ứng với các phác đồ trị liệu toàn thân cũng như tại chỗ cũng khác nhau. Hiện nay ở nước ta tại nhiều bệnh viện lớn đã triển khai nhuộm hóa mô miễn dịch các trường hợp ung thư vú với các dấu ấn ER, PR, HER2, đó là các dấu ấn có giá trị về tiên lượng và dự đoán đáp ứng điều trị nhưng được khảo sát và nghiên cứu riêng lẻ. Có rất ít nghiên cứu đi sâu vào phân nhóm phân tử của ung thư vú nói chung và của ung thư biểu mô tuyến vú ống xâm nhập nói riêng. Đề tài được thực hiện nhằm 2 mục tiêu sau: - Nghiên cứu sự bộc lộ các dấu ấn ER, PR, HER2, CK34βE12, CD117 của ung thư biểu mô tuyến vú ống xâm nhập. - Phân nhóm phân tử ung thư biểu mô tuyến vú ống xâm nhập dựa vào kiểu hình hóa mô miễn dịch. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Đối tượng nghiên cứu - 120 mẫu bệnh phẩm lưu trữ dưới dạng khối nến của bệnh nhân được chẩn đoán mô bệnh học là ung thư biểu mô tuyến vú ống xâm nhập tại Bệnh viện K trung ương, trong thời gian từ tháng 3 đến tháng 5 năm 2014. - Tiêu chuẩn loại trừ: Các trường hợp bệnh nhân được xạ trị hay hóa trị trước phẫu thuật. TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175-SOÁ 1/2015 47 2. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả hồi cứu và tiến cứu * Các bước tiến hành: - Nghiên cứu bộc lộ các dấu ấn trên tiêu bản nhuộm hóa mô miễn dịch: + 120 trường hợp ung thư biểu mô tuyến vú ống xâm nhập đều được nhuộm với ER, PR, HER2. + 23 trường hợp âm tính với cả ba dấu ấn ER, PR, HER2 được tiến hành nhuộm tiếp với các dấu ấn CK34βE12, CD117. - Phân nhóm phân tử ung thư biểu mô tuyến vú ống xâm nhập dựa vào kiểu hình hóa mô miễn dịch. * Đánh giá kết quả nhuộm hóa mô miễn dịch + Đánh giá biểu lộ HER2 theo tiêu chuẩn đánh giá ASCO/CAP [11] - IHC 0 (âm tính): Không có phản ứng - IHC 1+ (âm tính): Nhuộm màng nhạt màu/một phần <10% tế bào u - IHC 2+ (không rõ ràng): Nhuộm màng hoàn toàn từ yếu đến vừa >10% tế bào u. - IHC 3+ (dương tính): Bắt màu đậm hoàn toàn màng tế bào >30% tế bào u. Trong nghiên cứu của chúng tôi HER2 được xác định dương tính khi IHC 2+ và 3+ + Đánh giá biểu lộ của các thụ thể hormon (ER và PR) Trong nghiên cứu sử dụng cách tính điểm cho hai thụ thể hóc môn này theo phương pháp bán định lượng của tác giả Wilbur (1992) gọi là HSCORE (HS) [12] được tính theo cường độ và tỷ lệ như sau: HS = (Cường độ bắt màu) x (tỷ lệ % tế bào u bắt màu) Trong đó: Cường độ bắt màu mạnh = 3 Cường độ bắt màu trung bình = 2 Cường độ bắt màu yếu = 1 Không bắt màu = 0 Điểm HS sẽ từ 0 đến 300. Căn cứ vào điểm HS để xác định ER và PR dương tính và âm tính như sau: - ER và PR dương tính khi HS > 10 điểm - ER và PR âm tính khi HS ≤ 10 điểm + Đánh giá biểu lộ dấu ấn CD117, CK34βE12 - Dương tính: Khi có 1% bào tương tế bào u bắt màu nâu. - Âm tính: Khi bào tương tế bào u không bắt màu thuốc nhuộm. * Phân nhóm phân tử dựa vào kết quả nhuộm HMMD Bảng phân nhóm phân tử dùng trong nghiên cứu Phân nhóm phân tử Tiêu chuẩn chẩn đoán Lòng ống A ER ≥ 200 điểm, HER2(-) Lòng ống B ER 11-199 điểm hoặc PR > 10 điểm, HER2(-) Giống đáy ER và PR ≤ 10 điểm, HER2(-), CK34ßE12(+) hoặc CD117(+) Bộ năm âm tính ER và PR ≤ 10 điểm, HER2(-), CK34ßE12(-) và CD117(-) ERBB2 (HER2) ER và PR ≤ 10 điểm, HER2(+) Lòng ống A/HER2(+) ER ≥ 200 điểm, HER2(+) Lòng ống B/HER2(+) ER 11-199 điểm hoặc PR > 10 điểm, HER2(+) TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175-SOÁ 1/2015 48 Bảng phân nhóm phân tử dung trong nghiên cứu cơ bản theo cách phân nhóm phân tử của Bhargava (2010), nhưng với bộ ba âm tính chúng tôi không sử dụng các dấu ấn CK5/6 hay EGFR mà sử dụng CK34βE12 và CD117 để xác định phân nhóm giống đáy. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN 1. Đặc điểm bộc lộ các dấu ấn miễn dịch Bảng 1. Kết quả nhuộm HMMD với ER và PR Dấu ấn Dương tính Âm tính ER ≥ 200 diểm 11-199 điểm ≤ 10 điểm Số lượng Tỷ lệ(%) Số lượng Tỷ lệ(%) Số lượng Tỷ lệ(%) 9 7,50 53 44,17 58 48,33 PR >10 điểm ≤ 10 điểm Số lượng Tỷ lệ (%) Số lượng Tỷ lệ(%) 54 45,00 66 55,00 Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỷ lệ ung thư biểu mô tuyến vú ống xâm nhập dương tính với ER là 51,67%, trong đó có 7,5% ER ≥ 200 điểm và tỷ lệ dương tính với PR là 45%. Kết quả này thấp hơn so với các tác giả trong và ngoài nước. Theo nghiên cứu của Tạ Văn Tờ (2004) cùng tiến hành trên bệnh nhân ung thư vú Bệnh viện K cho thấy có 59,1% ER(+), 51,4% PR(+) [2]. Các nghiên cứu của Nishimura (2013) cho kết quả là 74,6% có ER(+), và 61,7% có PR(+); nghiên cứu của Engstrom (2013) tỷ lệ ER(+) lên tới 82,4%, PR(+) 57,3% [5], [7]. Kết quả đồng bộc lộ ER và PR cho thấy tỷ lệ ER(+) và/hoặc PR (+) là 60%, tỷ lệ nhóm ER(+) và PR(+) chiếm 36,67%. Kết quả này cũng thấp hơn của các tác giả khác như kết quả của Tạ Văn Tờ (2004) thì có 63,3% ER(+) và/hoặc PR(+), đồng bộc lộ cả ER và PR là 47,2% [2]. Nghiên cứu của Parise (2014) thì có 79,38% ER(+) và/ hoặc PR(+), tỷ lệ đồng bộc lộ ER và PR là 65,38%. Có sự khác biệt này là do cách đánh giá kết quả phản ứng HMMD với ER và PR trong nghiên cứu của chúng tôi khác so với các tác giả trên. Đa số các tác giả đánh giá bộc lộ ER và PR theo tiêu chuẩn của ASCO/CAP với giá trị giới hạn là 1% tế bào u [11]. Còn trong nghiên cứu của chúng tôi ER và PR được xác định dương tính khi HS > 10 điểm. TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175-SOÁ 1/2015 49 Bảng 2. Kết quả nhuộm HMMD với HER2 Dấu ấn HER2 Số lượng Tỷ lệ (%) Âm tính 39 32,50 Dương tính (1+) 26 21,67 Dương tính (2+) 38 31,67 Dương tính (3+) 17 14,16 Tổng 120 100 Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho tỷ lệ dương tính với HER2 là 45,83%, cao hơn kết quả nghiên cứu của các tác giả khác như nghiên cứu của Tạ Văn Tờ (2004) cho tỷ lệ dương tính với HER2 là 35,1% [2]; nghiên cứu của Đoàn Thị Phương Thảo (2012) có 39,2% HER2 (+), trong đó 27,2% HER2 (3+) và 11,9% HER2 (2+) [1]. Một số nghiên cứu khác cho kết quả dương tính với HER2 cao hơn nghiên cứu của chúng tôi. Nghiên cứu của Hadi (2004) ở trường đại học Washington – Mỹ có tỷ lệ dương tính với HER2 là 50,9%; trong đó có 39,5% HER2(2+), 11,4% HER2(3+). Nghiên cứu của Vũ Hồng Thắng (2011) trên mẫu bệnh nhân ung thư vú là phụ nữ Việt Nam nhưng được thực hiện nghiên cứu tại Stockholm- Thủy Điển, cho thấy tỷ lệ biểu hiện quá mức HER2 rất cao (50%), trong đó 39% HER2(3+), và 11% HER2(2+) [9] Kết quả bộc lộ HER2 giữa các tác giả có sự khác biệt như vậy là do thụ thể HER2 là một loại protein thuộc màng tế bào nên dễ bị biến tính trong quá trình xử lý mẫu bệnh phẩm và bị tác động rất lớn bởi dung dịch cố định, thời gian cố định. Ngoài ra đây là xét nghiệm bán định lượng nên tính chủ quan trong đánh giá kết quả có thể dẫn đến kết quả khác nhau. Tuy nhiên theo ASCO thì lý do quan trọng nhất của sự khác biệt về tỷ lệ biểu hiện thụ thể HER2 là do đặc tính sinh học của nhóm bệnh nhân ung thư vú được nghiên cứu [11]. Bảng 3. Kết quả nhuộm HMMD bộ ba âm tính với CK34βE12, CD117 (n=23) Dấu ấn Dương tính Âm tính Số lượng Tỷ lệ (%) Số lượng Tỷ lệ (%) CD117 1 4,35 22 95,65 CK34βE12 10 43,48 13 56,52 Trong 23 trường hợp có bộ ba âm tính ER(-)/PR(-)/HER2(-) có 10 trường hợp (+) với CK34ßE12 (43,48%) với cường độ bắt màu mạnh, 1 trường hợp dương tính với CD117 (0,83%) với cường độ yếu. Tỷ lệ dương tính với CK34βE12 trong nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn so với các nghiên cứu khác. Theo Mehta (2010) tỷ lệ dương tính với CK34βE12 là 85%, còn trong nghiên cứu của Thike (2010) tỷ lệ này là 70%. Tỷ lệ dương tính với CD117 của chúng tôi cũng thấp hơn của Thike (2010) là 45% trong đó dương tính 1+ chiếm 36% [6], [10]. TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175-SOÁ 1/2015 50 2. Phân nhóm phân tử ung thư biểu mô tuyến vú ống xâm nhập Bảng 4. Kết quả phân nhóm phân tử của ung thư biểu mô tuyến vú ống xâm nhập Phân nhóm phân tử Số lượng Tỷ lệ (%) Phân nhóm lòng ống A 7 5,83 Phân nhóm lòng ống A/HER2(+) 2 1,67 Phân nhóm lòng ống B 35 29,17 Phân nhóm lòng ống B/HER2(+) 28 23,33 Phân nhóm HER2 25 20,83 Phân nhóm giống đáy 11 9,17 Phân nhóm bộ năm âm tính 12 10,00 Tổng 120 100 Theo đa số các tác giả thì ung thư vú có 5 phân nhóm chính là lòng ống A, lòng ống B, HER2, giống đáy và bộ năm âm tính, trong đó thường sử dụng 5 dấu ấn miễn dịch là ER, PR, HER2, Ki67, CK5/6 hoặc EGFR. Theo đó phân nhóm lòng ống chiếm tỷ lệ cao nhất khoảng 65-70%, phân nhóm HER2 chiếm khoảng 10-15%, phân nhóm giống đáy chiếm 15-20%, phân nhóm bộ năm âm tính chiếm khoảng 6-10% tất cả ung thư vú. Bảng 5. Kết quả nghiên cứu phân nhóm phân tử của các tác giả khác nhau trên thế giới Tác giả (năm) N Lòng ống A(Tỷ lệ %) Lòng ống B (Tỷ lệ %) HER2 (Tỷ lệ %) Bộ ba âm tính Giống đáy (Tỷ lệ %) Bộ năm âm tính (Tỷ lệ%) Solie (2003) 115 19 53 14 14 Carey (2006) 496 45,36 15,52 6,65 20,16 6,25 Cheang (2009) 357 28 19 17 28 8 Falck (2013) 85 53 20 13 14 Nishimura (2013) 2639 66,3 10 10,2 13,5 Rambau(2014) 52 34,6 17,3 9,6 38,4 Horn (2014) 825 47,5 27,4B [HER2(-)] -) 7,8B [HER2(+)] 6,4 7 3,9 Tỷ lệ phân nhóm phân tử của ung thư vú rất khác biệt giữa các nghiên cứu, cho thấy sự đa dạng về đặc tính sinh học của tế bào u. Có sự khác nhau trong phân nhóm TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175-SOÁ 1/2015 51 phân tử ung thư vú là do cách đánh giá khác nhau về các dấu ấn miễn dịch ER, PR, HER2, Ki67 và các dấu ấn tế bào đáy được sử dụng. Bảng 6. Các giá trị giới hạn của các dấu ấn miễn dịch sử dụng trong các nghiên cứu Dấu ấn Tác giả ER(+) PR(+) HER2(+) Ki67 Carey(2006) 5% 5% HMMD HER2 (2+) và (3+) Cheang (2009) ≥ 1% ≥ 1% HMMD HER2 (3+) hoặc HER2 (2+) có FISH > 2.0 14% Bhargava (2010) > 1 0 điểm > 10 điểm HMMD HER2 (3+) hoặc HER2 (2+) có FISH > 2.0 Nishimura (2013) ≥ 10% ≥ 10% HMMD HER2 (2+) và (3+) 20% Falck (2013) ≥ 10% ≥ 10% HMMD HER2 (3+) hoặc HER2 (2+) có FISH > 2.0 20% Engstrom (2013) Horn (2014) ≥ 1% ≥ 1% HMMD HER2 (3+) hoặc HER2 (2+) có CISH > 2.0 15% Rambau (2014) ≥ 1% ≥ 1% HMMD HER2 (2+) và (3+) 10% Về cơ bản các tác giả đều thống nhất kiểu hình của ba phân nhóm HER2 là (ER(- ), PR(-), HER2(+); phân nhóm giống đáy là ER(-), PR(-), HER2(-), CK5/6(+) và/hoặc EGFR(+); phân nhóm bộ năm âm tính là ER(-), PR(-), HER2(-), CK5/6(-), EGFR(-). Còn phân biệt hai phân nhóm lòng ống A và B thì có nhiều cách khác nhau. Theo tác giả Nishimura (2013) thì kiểu hình của phân nhóm lòng ống A là ER(+) và/hoặc PR(+), HER2(-); kiểu hình của phân nhóm lòng ống B là ER(+) và/hoặc PR(+), HER2(+) [7]. Theo các tác giả Cheang (2009), Schnitt (2013) đã sử dụng Ki67 trong xác định hai phân nhóm A và B với giái trị giới hạn của Ki67 là 14%. Khi đó phân nhóm lòng ống A có kiểu hình là ER(+) và/hoặc PR(+), HER2(-), Ki67 thấp (Ki67< 14%), phân nhóm lòng ống B gồm hai nhóm nhỏ là phân nhóm lòng ống B/HER2(-) có kiểu hình là ER(+) và/hoặc PR(+), HER2(-), Ki67 cao (Ki67 ≥ 14%) và phân nhóm lòng ống B/HER2(+) có kiểu hình là ER(+) và/ hoặc PR(+), HER2(+), Ki67 bất kỳ [4], [8]. Một số tác giả khác xác định hai phân nhóm này không chỉ dựa vào các giá trị giới hạn của Ki67 mà còn căn cứ vào mức độ biểu hiện của ER và PR như tác giả Goldhirsch (2013) chỉ ra kiểu hình của phân nhóm lòng ống A là ER(+) và PR ≥ 20%, HER2(-), Ki67 thấp (Ki67< 20%), phân nhóm lòng ống B chia hai nhóm nhỏ là phân nhóm lòng ống B/HER2(-) có kiểu hình là: ER(+), HER2(-) và ít nhất một trong các điều kiện sau: Ki67 cao (Ki67 ≥ 20%); PR(-) hoặc thấp (PR < 20%); phân nhóm lòng ống B/HER2(+) có kiểu hình là ER(+), HER2(+), Ki67 bất kỳ, PR bất kỳ. Các cách phân nhóm phân tử trên phức tạp, được dùng cho các mục đích nghiên cứu khác nhau và hạn chế của chúng là không nêu bật được vai trò của ER trong phân nhóm phân tử và trong điều trị nội tiết. Do vậy trong nghiên cứu này chúng tôi sử dụng cách phân nhóm phân tử của Bhargava TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175-SOÁ 1/2015 52 (2010) với kiểu hình của phân nhóm lòng ống A là ER ≥ 200 điểm, HER2(-), kiểu hình của phân nhóm lòng ống B là ER từ 11 dến 199 điểm hoặc PR > 10 điểm, HER2(-). Từ đó thấy mức độ biểu hiện của ER trong hai phân nhóm lòng ống A và B có sự khác nhau rõ ràng. Trong phân nhóm phân tử của Bhargava (2010) ngoài 5 phân nhóm chính là lòng ống A, lòng ống B, HER2, giống đáy và bộ năm âm tính, còn có hai phân nhóm khác là lòng ống A/HER2 (+) và lòng ống B/HER2(+) [3]. Kết quả phân nhóm phân tử của ung thư biểu mô tuyến vú ống xâm nhập của chúng tôi cho thấy phân nhóm lòng ống B chiếm tỷ lệ cao nhất 29,17%; sau đó đến phân nhóm lòng ống B/HER2(+) chiếm 23,33%; phân nhóm HER2 chiếm 20,83%; phân nhóm bộ ba âm tính là 19,17%; phân nhóm lòng ống A chiếm tỷ lệ nhỏ 5,83%; thấp nhất là phân nhóm lòng ống A/HER2(+) 1,67%. Như vậy trong bảy phân nhóm thì chiếm chủ yếu (52,5%) là hai phân nhóm lòng ống B và lòng ống B/HER2 (+). Đây là hai phân nhóm có đặc điểm lâm sàng thời gian sống thêm không bệnh ngắn hơn phân nhóm lòng ống A, nguy cơ tái phát cao, hay di căn sớm, có xu hướng di căn đến xương và màng phổi, đáp ứng điều trị nội tiết kém hơn phân nhóm lòng ống A và đáp ứng với hóa trị liệu kém hơn phân nhóm giống đáy và phân nhóm HER2. Theo kết quả trên thì phân nhóm lòng ống A thấp hơn hẳn nghiên cứu của tác giả Bhargava (2010) trong đó phân nhóm lòng ống A chiếm tỷ lệ cao nhất (31%), sau đó là phân nhóm bộ ba âm tính (22%), phân nhóm lòng ống B chiếm 20%, phân nhóm HER2 chiếm 16%, phân nhóm lòng ống A/ HER2(+) là 4%, phân nhóm lòng ống B/ HER2(+) chiếm 7% [3]. Có sự khác nhau này là do tác giả Bhargava đã nghiên cứu trên tất cả các loại ung thư vú, còn nghiên cứu của chúng tôi chỉ xét riêng loại ung thư biểu mô tuyến vú ống xâm nhập, là loại ung thư chủ yếu có tiên lượng thấp và trung bình. KẾT LUẬN Nghiên cứu phân nhóm phân tử ung thư biểu mô tuyến vú ống xâm nhập bằng hóa mô miễn dịch trên 120 mẫu bệnh phẩm, chúng tôi nhận thấy: - Tỷ lệ (+) với ER là 51,67%, với PR là 45% và với HER2 là 45,83%. - Trong 23 trường hợp bộ ba âm tính có 10 trường hợp (+) với CK34ßE12 chiếm 43,48%; 1 trường hợp (+) với CD117chiếm 0,83%. - Ung thư biểu mô tuyến vú ống xâm nhập có 7 phân nhóm phân tử, trong đó chiếm chủ yếu (52,5%) là hai phân nhóm lòng ống B và phân nhóm lòng ống B/ HER2 (+). TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đoàn Thị Phương Thảo (2012), Nghiên cứu gen Her2 và phân nhóm phân tử ung thư vú, Luận án tiến sỹ y học, Đại học y dược Thành phố Hồ Chí Minh. 2. Tạ Văn Tờ (2004), Nghiên cứu hình thái, hóa mô miễn dịch và giá trị tiên lượng của chúng trong ung thư biểu mô tuyến vú, Luận án tiến sỹ y học, Đại học y, Hà Nội. 3. Bhargava R. et al (2010), “Immunohistochemical Surrogate Markers of Breast Cancer Molecular Classes Predicts Response to Neoadjuvant Chemotherapy”, Cancer, 116, pp. 1431-1439 4. Cheang M.C. et al (2009), “Ki67 Index, HER2 Status, and Prognosis of Patients With Luminal B Breast Cancer”, J Natl Cancer Inst, 101, pp. 736-750 TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175-SOÁ 1/2015 53 5. Engstrom M.J., et al (2013), “Molecular subtypes, histopathological grade and survival in a historic cohort of breast cancer patients”, Breast cancer res treat, 104: 463-473. 6. Mehta R., Jain R.K., Sneige N., Badve S., Resetkova E. (2010), “Expression of high- molecular-weight cytokeratin (34betaE12) is an independent predictor of disease-free survival in patients with triple-negative tumours of the breast”, J Clin Pathol, 63(8), pp. 744-7. 7. Nishimura R., et al (2013), “Ki67 as a prognostic marker according to breast cancer subtype and a predictor of recurrence time in primary breast cancer”, Experimental and Therapeutic Medicine, 1, pp.747-754. 8. Schnitt S.J., Millis R.R. (2007), Histology for pathologist, 3rd Edition 9. Thang V.H. (2012), Prognostic and predictive factors in Vietnamese Breast cancer: A comparison with Swedish patients and effect on survival, Karolinska Institutet 1-46. 10.Thike A.A., Cheok P.Y., et al (2010), “Triple-negative breast cancer: clinicopathological characteristics and relationship with basal-like breast cancer”, Modern Pathology, 23, pp. 123–133. (...Tiếp theo trang 44) ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ SỎI NIỆU QUẢN 1/3 TRÊN.... TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bùi Văn Chiến, Nguyễn Công Bình và cộng sự (2012). Đánh giá kết quả điều trị tán sỏi niệu quản nội soi ngược dòng bằng máy tán Laser. Y học TP. Hồ Chí Minh, tập 16(3), tr 520- 522 2. Nguyễn văn Trí Dũng, Vũ Hồng Thịnh (2011). So sánh hai phương pháp tán sỏi nội soi ngược dòng bằng siêu âm và Lser. Y học TP. Hồ Chí Minh, tập 15(3), tr 151- 155. 3. Ngô Gia Hy (1980). Sỏi niệu quản. Niệu học tập 1. NXB y học TP. HCM. 4. Thái cao Tấn, Lê đức Dũng và cs (2010). Điều trị sỏi niệu quản bằng kĩ thuật ít xâm hại tại bệnh viện C Đà nẵng. Y học Việt Nam tháng 11(2), tr 471 - 479. 5. Đỗ Ngọc thế, Trần Các và cs (2012). Đánh giá kết quả nội soi tán sỏi niệu quản bằng Laser HO: YAG trên 107 bệnh nhân sỏi niệu quản, tập 16(3), tr 318- 322. 6. Lê Anh Tuấn, Nguyễn Tuấn Vinh (2004). Hiệu quả của Homium Laser trong điều trị sỏi niệu quản. Y học TP. Hồ Chí Minh, tập 8 (1), tr 323- 325. 7. Nguyễn Minh Tuấn, Trần Thị Bích Lan và cs (2012). Đánh giá kết quả tán sỏi niệu quản nội soi bằng Laser tại bệnh viện E. Y học TP. Hồ Chí Minh, tập 16(3), tr 419- 422. 8. Turkc, Knoll et al (2011). Guidelines on urolithiasis in European Association of Urology (Ed), pp 47- 55. 9. American Urology Association (2007). Guidelines for the management of uretero calculi, Baltimo USA. 10. Wolf sj (2007). Treatment selection and outcomes: Ureteral calculi. Urolithiasis: 34, pp 421- 429.
File đính kèm:
nghien_cuu_phan_nhom_phan_tu_cua_ung_thu_bieu_mo_tuyen_vu_on.pdf

