Nghiên cứu nồng độ sST2 ở bệnh nhân tăng huyết áp nguyên phát
Đặt vấn đề: sST2 là dấu ấn sinh học mới trong tiên lượng suy tim.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Gồm 150 bệnh nhân tăng huyết áp nguyên phát. Phương pháp mô tả cắt ngang. Kết quả:Nồng độ sST2 trung bình là 19,27±4,81 ng/ml, 57,3% bệnh nhân tăng sST2. Ở nhóm tuổi < 40,="" nồng="" độ="" trung="" bình="" của="" sst2="" là="" 18,05±4,31="" ng/="" ml,="" nhóm="" 40="" -="" 49="" tuổi="" là="" 19,18±5,39="" ng/ml,="" nhóm="" 50="" -="" 59="" tuổi="" là="" 19,56="" ±="" 5,70="" ng/ml,="" nhóm="" tuổi="" 60="" -="" 69="" là="" 18,76="" ±="" 4,05="" ng/ml,="" nhóm="" 70="" -="" 79="" tuổi="" là="" 20,07="" ±="" 4,58="" ng/ml,="" nhóm="" ≥="" 80="" tuổi="" là="" 19,73="" ±="" 4,83="" ng/ml.="" nồng="" độ="" trung="" bình="" ở="" nam="" giới="" là="" 19,77±5,09="" ng/="" ml,="" ở="" nữ="" giới="" là="" 19,08±4,71="" ng/ml.="" nồng="" độ="" sst2="" ở="" nhóm="" tăng="" huyết="" áp="" giai="" đoạn="" 1="" (17,91±4,44="" ng/m)="" thấp="" hơn="" ở="" nhóm="" giai="" đoạn="" 3="" (21,23±5,18="" ng/ml)="" có="" ý="" nghĩa="" thống="" kê=""><>
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu nồng độ sST2 ở bệnh nhân tăng huyết áp nguyên phát
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 80.2017 61 Nghiên cứu nồng độ sST2 ở bệnh nhân tăng huyết áp nguyên phát Nguyễn Hữu Ngọc*, Nguyễn Tri Thức*, Nguyễn Hữu Thịnh* Lý Thụy Đoan Trinh*, Lý Văn Chiêu*, Huỳnh Văn Minh** Bệnh viện Chợ Rẫy* Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế** TÓM TẮT Đặt vấn đề: sST2 là dấu ấn sinh học mới trong tiên lượng suy tim. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Gồm 150 bệnh nhân tăng huyết áp nguyên phát. Phương pháp mô tả cắt ngang. Kết quả: Nồng độ sST2 trung bình là 19,27±4,81 ng/ml, 57,3% bệnh nhân tăng sST2. Ở nhóm tuổi < 40, nồng độ trung bình của sST2 là 18,05±4,31 ng/ ml, nhóm 40 - 49 tuổi là 19,18±5,39 ng/ml, nhóm 50 - 59 tuổi là 19,56 ± 5,70 ng/ml, nhóm tuổi 60 - 69 là 18,76 ± 4,05 ng/ml, nhóm 70 - 79 tuổi là 20,07 ± 4,58 ng/ml, nhóm ≥ 80 tuổi là 19,73 ± 4,83 ng/ml. Nồng độ trung bình ở nam giới là 19,77±5,09 ng/ ml, ở nữ giới là 19,08±4,71 ng/ml. Nồng độ sST2 ở nhóm tăng huyết áp giai đoạn 1 (17,91±4,44 ng/m) thấp hơn ở nhóm giai đoạn 3 (21,23±5,18 ng/ml) có ý nghĩa thống kê (p<0,001). Có thể dùng sST2 để tiên lượng nguy cơ dày thất trái. Phương trình hồi quy: Nguy cơ phì đại thất trái = 0,110x sST2 + 0,023x hiệu áp - 3,901. Kết luận: Có mối liên quan giữa nồng độ sST2 và tăng huyết áp cũng như với chỉ số khối cơ thất trái. Từ khóa: sST2, tăng huyết áp, phì đại thất trái. MỞ ĐẦU Tăng huyết áp đang trở thành một vấn đề sức khỏe trên toàn cầu do sự gia tăng tuổi thọ và tăng tần suất các yếu tố nguy cơ. Tăng huyết áp ước tính là nguyên nhân gây tử vong 7,1 triệu người và chiếm 4,5% gánh nặng bệnh tật trên toàn cầu (64 triệu người sống trong tàn phế) [4]. Tăng huyết áp làm biến đổi về mặt huyết động, tần số tim tăng, lưu lượng tim tăng dần, thời kỳ đầu có hiện tượng co mạch để phân bổ lại máu lưu thông từ ngoại vi về tim phổi, do đó sức cản mạch máu cũng tăng dần. Tim có những biểu hiện tăng hoạt động bù trừ và dẫn đến dầy thất trái. Huyết áp và sức cản ngoại biên toàn bộ tăng dần. Lưu lượng tim và lưu lượng tâm thu càng giảm, cuối cùng đưa đến suy tim [5]. Trong đó sST2 là một dấu ấn sinh học mới chưa được nghiên cứu nhiều tại Việt Nam. sST2 là dấu ấn sinh học của sự tái cấu trúc chất nền ở tim. Các nghiên cứu cho thấy sST2 trước tiên đã khắc phục một số nhược điểm của BNP, NT-proBNP. sST2 không phụ thuộc vào chỉ số khối cơ thể, chức năng thận. Tình trạng tổn thương tim càng nhiều thì nồng độ sST2 càng cao. Giá trị sST2 tương ứng với mức độ nặng của suy tim theo phân loại chức năng NYHA. Nồng độ sST2 trên 20 ng/mL gợi ý chẩn đoán suy tim [14]. Như vậy, trong khi nhiều nghiên cứu ở nước ngoài cho thấy vai trò hết sức quan trọng của sST2 trong suy tim, chẩn đoán và tiên lượng thì ở Việt Nam vẫn chưa có nhiều nghiên cứu về vấn đề này, NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 80.201762 đặc biệt là các giá trị nồng độ sST2 trên bệnh nhân tăng huyết áp, suy tim. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu được tiến hành tại Khoa Khám bệnh Bệnh viện Chợ Rẫy từ tháng 5/2015 đến tháng 7/2016. Đối tượng nghiên cứu: 150 bệnh nhân THA các giai đoạn khác nhau. Tiêu chuẩn chọn nhóm nghiên cứu Chúng tôi chọn những bệnh nhân THA mới vào viện khám bệnh lần đầu, chưa điều trị, tình nguyện tham gia nghiên cứu. Tiêu chuẩn chẩn đoán tăng huyết áp Bảng 1. phân độ THA theo Hội THA Việt Nam (2015) [3] Phân độ HATT(mmHg) HATTr (mmHg) Tối ưu 120 80 Bình thường < 130 < 85 Bình thường cao 130 – 139 85 - 89 TH A Độ 1 (nhẹ) Độ 2 (trung bình) Độ 3 (nặng) Tâm thu 140 - 159 160 - 179 > 180 >140 90 - 99 100 - 109 > 110 < 90 Tiêu chuẩn loại trừ - Đã xác định hoặc nghi ngờ THA thứ phát. - THA cần điều trị cấp cứu (đe dọa biến chứng, THA đặc biệt cao > 220/120 mmHg, THA nặng với bệnh võng mạc độ III-IV) mà không kiểm soát được. - Bệnh tim bẩm sinh, bệnh van tim và rối loạn nhịp tim. - Nhồi máu cơ tim cấp. - Tiền sử suy thận, suy thận mạn. - Các bệnh phổi mạn tính - Bệnh về máu, bệnh ác tính - Bệnh nhân không đồng ý tham gia nghiên cứu. Phương pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu Phương pháp: mô tả cắt ngang. Cỡ mẫu nghiên cứu Chọn mẫu thuận tiện, gồm 150 bệnh nhân THA các giai đoạn khác nhau đến khám và điều trị tại Khoa Khám bệnh Bệnh viện Chợ Rẫy từ tháng 5/2015 đến tháng 7/2016. Tiến hành nghiên cứu Mỗi bệnh nhân được khảo sát theo phiếu nghiên cứu với quy trình sau: Tiến hành hỏi tiền sử, bệnh sử, khám lâm sàng tỉ mỉ để chọn lựa đối tượng nghiên cứu đạt tiêu chuẩn đã quy định. Các xét nghiệm sinh hóa máu được lấy đảm bảo đúng quy trình, bệnh nhân được làm siêu âm tim, đo điện tim tại Bệnh viện Chợ Rẫy. Tất cả các dữ kiện được ghi chép vào phiếu nghiên cứu. *Nồng độ sST2 Nồng độ sST2 được đo bằng máy ASPECT Presage ST2, với kỹ thuật ELISA. *Phương pháp đo khối lượng thất trái trên siêu âm tim: Dựa vào nguyên tắc chung là lấy thể tích cơ tim của thất trái (là hiệu số của thể tích toàn bộ NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 80.2017 63 thất trái trừ đi thể tích buồng thất trái) nhân với khối lượng riêng của cơ tim (1,04-1,05g/cm2). Các kích thước thất trái (dùng để đo thể tích) được đo ở cuối tâm trương: tương ứng với đỉnh sóng R theo qui ước của hội nghị Penn, hoặc đầu phức bộ QRS theo khuyến cáo của Hội Siêu âm tim Hoa Kỳ. - Tính khối lượng cơ thất trái (KLCTT) theo Hội Siêu âm Hoa Kỳ : KLCTT(g) = 0,8[1,04(Dd + IVSd + LVPWd)3- Dd3)] + 0,6 - Tính chỉ số khối cơ thất trái (CSKCTT): Từ khối lượng cơ thất trái, thiết lập chỉ số khối cơ thất trái bằng cách hiệu chỉnh theo diện tích da cơ thể: CSKLCTT(g/m2) = KLCTT/ Diện tích da cơ thể (m2) Diện tích da cơ thể (m2)=[cân nặng (kg)]0,425× [chiều cao (cm)]0,725× 71.84 × 10-4 Theo khuyến cáo của Hội Siêu âm tim Hoa Kỳ (ASE: American Society of Echocardiography) 2015, đánh giá dày thất trái khi: CSKLCTT ≥ 116g/m2 đối với nam, CSKLCTT ≥ 96g/m2 đối với nữ . Phân tích số liệu Công cụ - Nhập số liệu bằng phần mềm Microsoft Excel 2013. - Xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 22.0 cho Windows. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Đặc điểm chung nhóm nghiên cứu Bảng 2 Đặc điểm chung nhóm nghiên cứu Đặc điểm n % Giới Nam 40 26,7 Nữ 110 73,3 Tuổi Trung bình 60,90 ± 11,84 BMI Trung bình 22,84±3,27 Nhận xét: Độ tuổi trung bình trong nghiên cứu của chúng tôi là 60,90 ± 11,84 tuổi. Đặc điểm huyết áp Bảng 3. Đặc điểm HA nhóm nghiên cứu Huyết áp n % THA giai đoạn 1 48 32,0 THA giai đoạn 2 49 32,7 THA giai đoạn 3 53 35,3 HATT trung bình (mmHg) 168,59 ± 14,65 HATTr trung bình (mmHg) 90,47 ± 10,61 HATB trung bình (mmHg) 116,51±10,37 Hiệu áp (mmHg) 78,11±13,23 NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 80.201764 Nghiên cứu của chúng tôi chọn đối tượng tăng huyết áp phân bố đều theo phân loại giai đoạn THA, giai đoạn 1 có 48 bệnh nhân chiếm 32,0%, giai đoạn 2 có 49 bệnh nhân chiếm tỷ lệ 32,7%, còn lại 35,5% là của giai đoạn 3. Nồng độ sST2 ở bệnh nhân tăng huyết áp Đặc điểm nồng độ sST2 ở bệnh nhân tăng huyết áp Bảng 4. Đặc điểm nồng độ sST2 ở nhóm nghiên cứu sST2 (ng/ml) n % 0 - 18 64 42,7 > 18 86 57,3 Trung bình 19,27±4,81 Nhận xét: Nồng độ sST2 trung bình là 19,27±4,81 ng/ml. Đặc điểm nồng độ sST2 theo tuổi Bảng 5. Đặc điểm nồng độ sST2 theo tuổi ở nhóm nghiên cứu sST2 Nhóm tuổi Bình thường (n=64) Tăng (n=86) p Trung bình p n % n % <40 (n=2) 1 50 1 50 So sánh 18,05±4,31 So sánh 40 - 49 (n=28) 13 46,4 15 53,6 >0,05 19,18±5,39 >0,05 50 - 59 (n=34) 11 32,4 23 67,6 >0,05 19,56±5,70 >0,05 60 - 69 (n=53) 27 50,9 26 49,1 >0,05 18,76±4,05 >0,05 70 - 79 (n=19) 6 31,6 13 68,4 >0,05 20,07±4,58 >0,05 ≥ 80 (n=14) 6 42,9 8 57,1 >0,05 19,73±4,83 >0,05 Nhận xét: Không có sự khác biệt nồng độ sST2 theo từng nhóm tuổi (p>0,05). Đặc điểm nồng độ sST2 theo giới Bảng 6. Đặc điểm sST2 theo giới ở nhóm nghiên cứu sST2 Giới Bình thường (n=64) Tăng (n=86) p Trung bình p n % n % Nam (n=40) 13 32,5 27 67,5 >0,05 19,77±5,09 >0,05 Nữ (n=110) 51 46,4 59 53,6 19,08±4,71 Nhận xét: không có sự khác biệt nồng độ sST2 theo giới (p>0,05) NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 80.2017 65 Mối liên quan và tương quan giữa nồng độ sST2 với huyết áp, bilan lipid, chỉ số dày thất trái trên điện tâm đồ, đường kính thất trái, phân suất tống máu trên siêu âm tim Mối liên quan giữa nồng độ sST2 với huyết áp Bảng 7. Mối liên quan giữa sST2 và giai đoạn THA ở nhóm nghiên cứu sST2 THA Bình thường (n=64) Tăng (n=86) p Trung bình p n % n % Giai đoạn 1 (n=48) 23 47,9 25 52,1 so sánh 17,91±4,44 so sánh Giai đoạn 2 (n=49) 25 51 24 49 >0,05 18,48±4,09 >0,05 Giai đoạn 3 (n=53) 16 30,2 37 69,8 >0,05 21,23±5,18 <0,001 Nhận xét: Nồng độ sST2 ở nhóm THA giai đoạn 1 thấp hơn ở nhóm giai đoạn 3 có ý nghĩa thống kê (p<0,001). Vai trò của nồng độ sST2 và tương quan phì đại thất trái Bảng 8. Hồi quy logic nhị phân (binary logistic) đa biến các yếu tố ảnh hưởng đến phì đại thất trái Biến số B p OR KTC 95% sST2 0,110 <0,01 1,126 1,022-1,207 HATT 0,000 >0,05 1,017 0,964-1,038 Hiệu áp 0,023 >0,05 1,023 0,980-1,069 Hằng số -3,901 Nhận xét: Nồng độ sST2 là yếu tố độc lập liên quan đến tình trạng PĐTT. Vì hệ số của HATT = 0, nên chúng tôi loại HATT ra khỏi phương trình hồi quy. Phương trình hồi quy: Nguy cơ phì đại thất trái = 0,110x sST2 + 0,023× hiệu áp - 3,901 BÀN LUẬN Đặc điểm chung nhóm nghiên cứu Độ tuổi trung bình trong nghiên cứu của chúng tôi là 60,90 ± 11,84 tuổi nằm trong độ tuổi phổ biến của THA trên thế giới. Tỷ lệ bệnh nhân phân bố đều cho các nhóm tuổi. Nhóm tuổi < 40 chiếm 1,3%, nhóm tuổi 40 - 49 chiếm 18,7%, nhóm tuổi 50 - 59 tuổi chiếm 22,7%, nhóm tuổi 60 - 69 tuổi chiếm 35,3%, nhóm tuổi 70 - 79 chiếm 12,7%, nhóm tuổi ≥ 80 tuổi chiếm 9,3%. Điều này cho thấy nghiên cứu của chúng tôi mang tính đại diện cho dân số chung. Gần như tương đương so với nghiên cứu của tác giả Đinh Vũ Phương Thảo [1] trên 90 bệnh nhân có THA tại phòng khám của Bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh nửa đầu năm 2011 tuổi trung bình là 59,69 ± 10,11 tuổi, và cao hơn so với nghiên cứu trên 180 bệnh nhân vào năm 2015 tại Ý của tác giả Vera Celic [18] năm 2013-2014 có tuổi trung bình là 52,63 ± 8,95. NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 80.201766 Nhiều tác giả khác nhau có độ tuổi trung bình rất khác nhau. Nghiên cứu của Yoon H.J. tại Hàn Quốc trên 1087 bệnh nhân THA đang điều trị, độ tuổi trung bình là 57±10 tuổi [21], nhóm bệnh của tác giả Ojji D.B. và cs có độ tuổi trung bình là 48,8 ± 10,7 tuổi [17]. Nghiên cứu của Wang Y.C. có độ tuổi trung bình là 65 ± 12 năm [19]. Nghiên cứu của Ho J.E. và cs cho thấy tuổi trung bình là 56 ± 9 tuổi [13]. Điều này phải chăng do đặc điểm chủng tộc, lối sống, cơ cấu độ tuổi trong dân số khác nhau. Kết quả của chúng tôi cho thấy: Nam giới chiếm tỷ lệ 26,7%, nữ giới chiếm tỷ lệ 73,3%. Số lượng bệnh nhân nữ cao hơn hẳn so với nam, nữ giới cao gấp 3 lần so với nam giới, có thể do đa số bệnh nhân trong lứa tuổi mãn kinh. Và tỷ lệ này có phần tương đương với nghiên cứu của tác giả Đinh Vũ Phương Thảo [1] (nam giới chiếm 37,8%), khác biệt so với nghiên cứu của tác giả Vera Celic (nam giới chiếm 51,7%), [18]. Sự phân bố này mang tính chất ngẫu nhiên chưa thể phản ánh hay đại diện cho xu hướng chung nào. BMI trung bình là 22,84±3,27. Trong đó 5,3% bệnh nhân gầy, 55,3% có BMI bình thường, 20,7% thừa cân, 14,7% bệnh nhân béo phì độ 1, 4,0% bệnh nhân béo phì độ 2. Chỉ số khối cơ thể trong nghiên cứu của chúng tôi có giá trị trung bình là 22,84 ± 3,27 gần như tương đương với kết quả của tác giả Đ.V.Phương Thảo (23,4± 3,5)[1], thấp hơn so với trị trung bình 30,58 của tác giả Vera Celic [18], cao hơn 21,73 của tác giả Dương Đình Hoàng [6]. Tỷ lệ quá cân của Đ.V.Phương Thảo là 21,1%, béo phì độ 1 là 32,2%, béo phì độ 2 là 2,2% [1]. Các kết quả này tương tự nghiên cứu của chúng tôi. Đặc điểm huyết áp Nghiên cứu của chúng tôi chọn đối tượng tăng huyết áp phân bố đều theo phân loại giai đoạn THA, giai đoạn 1 có 48 bệnh nhân chiếm 32,0%, giai đoạn 2 có 49 bệnh nhân chiếm tỷ lệ 32,7%, còn lại 35,5% là của giai đoạn 3. HATT trung bình: 168,59±14,65 mmHg, HATTr trung bình: 90,47±10,61 mmHg, HATB trung bình: 116,51±10,37 mmHg, hiệu áp trung bình: 78,11±13,23 mmHg. Với huyết áp trung bình của các đối tượng trong nghiên cứu của chúng tôi là khá cao, cho thấy các đối tượng bệnh nhân được chẩn đoán THA là chính xác, đồng thời với việc phân bổ đều các đối tượng theo từng giai đoạn THA cho thấy nghiên cứu này không thiên lệch về phân loại THA nào. Nghiên cứu của Tô Minh Tuấn cho thấy: Tỷ lệ THA độ 1 là 34,18%, độ 2 là 41,77%, độ 3 là 29,05% [7]. So với tác giả Vera Celic với kết quả trị số trung bình huyết áp tâm thu và tâm trương lần lượt là: 139,55 và 83,96 mmHg, các đối tượng của chúng tôi có khuynh hướng huyết áp cao hơn; trong khi kết quả này lại gần như tương đương với nghiên cứu của tác giả Dương Đình Hoàng [6] có trị số trung bình huyết áp tâm thu - tâm trương là 163,3 - 94,6 mmHg. Nghiên cứu của Yoon H.J. tại Hàn Quốc trên 1087 bệnh nhân THA đang điều trị, HATT trung bình là 136,4±16,13 mmHg, HATTr trung bình: 83,0±11,10 mmHg, HATB trung bình: 118,6±13,33 mmHg, hiệu áp trung bình: 53,5±12,82 mmHg [21]. Trong nghiên cứu của chúng tôi có khảo sát về trị số hiệu áp (HATT - HATTr), với kết quả trung bình vào khoảng 78,11± 13,23 mmHg, chỉ số này cao biểu hiện sự lão hóa thành mạch máu trong các đối tượng của chúng tôi; chỉ số này càng cao cho thấy nguy cơ xuất hiện biến cố tim mạch (rung nhĩ, suy tim) càng cao. Trung bình của trị số hiệu áp cao vì vậy cần theo dõi và điều chỉnh để đạt huyết áp mục tiêu, nhằm đạt được mục tiêu điều trị lâu dài, giúp giảm các biến cố tim mạch. Đặc điểm nồng độ sST2 Nồng độ sST2 trung bình là 19,27±4,81 ng/ml. 57,3% bệnh nhân tăng huyết áp. NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 80.2017 67 Nghiên cứu của Ho J.E. và cs cho thấy nồng độ sST2 có trung vị là 19,9ng/ml (khoảng tứ vị: 16,1 - 24,8 ng/ml) [13]. Kết quả của Ojji D.B. cho thấy: nồng độ sST2 trung bình ở nhóm có dày nhĩ là 20,4±8,4 pg/mL, trong khi nhóm không có dày nhĩ là 14,3±5,4 pg/ ml [17]. Cũng tác giả này công bố trong năm 2004: nồng độ trung bình của sST2 ở nhóm THA là 14,5± 4,9 ng/ml, nhóm THA có dày thất trái là 23,0 ± 8,33 ng/ml, và nhóm THA có suy tim là 134,7± 57,3 ng/ml [16]. Kết quả của tác giả Vera Celic có phần cao hơn, trong nghiên cứu của tác giả này nồng độ sST2 trung bình có được là: 27,35± 15,74 ng/mL [10]. Không có sự khác biệt nồng độ sST2 theo từng nhóm tuổi (p>0,05). Ở nhóm tuổi < 40, tỷ lệ tăng sST2 là 50,0%, nhóm 40 - 49 tuổi là 53,6%, nhóm 50 - 59 tuổi là 67,6%, nhóm tuổi 60 - 69 là 49,1%, nhóm 70 - 79 tuổi là 68,4%, nhóm ≥ 80 tuổi là 57,1%. Không có sự khác biệt về nồng độ trung bình của sST2 theo các nhóm tuổi (p>0,05). Ở nhóm tuổi < 40, nồng độ trung bình của sST2 là 18,05±4,31 ng/ ml, nhóm 40 - 49 tuổi là 19,18±5,39 ng/ml, nhóm 50 - 59 tuổi là 19,56±5,70 ng/ml, nhóm tuổi 60 - 69 là 18,76±4,05 ng/ml, nhóm 70 - 79 tuổi là 20,07±4,58 ng/ml, nhóm ≥ 80 tuổi là 19,73±4,83 ng/ml. Trong nghiên cứu của Ojji trên đối tượng THA, sST2 không có tương quan với tuổi [17]. Nghiên cứu của Lê Ngọc Hùng và cộng sự trên đối tượng người Việt Nam khoẻ mạnh cũng cho thấy nồng độ sST2 không khác biệt theo tuổi [2]. Dieplinger và cộng sự [12] cho thấy sST2 không phụ thuộc vào tuổi, chỉ số khối cơ thể. Trên một số đối tượng bệnh lý, sST2 cũng không có tương quan với tuổi, huyết áp, BMI [8]. sST2 trong nghiên cứu của Manzano-Fernández và cộng sự [15] không tương quan với tuổi, chỉ số khối cơ thể, huyết áp tâm thu, huyết áp tâm trương. Đây là ưu điểm của sST2 so với BNP, NT-proBNP, vốn được xem là những dấu ấn sinh học đặc trưng trong suy tim. Không có sự khác biệt nồng độ sST2 theo giới (p>0,05). Nồng độ trung bình ở nam giới là 19,77±5,09 ng/ml, ở nữ giới là 19,08±4,71 ng/ml. Tỷ lệ tăng sST2 ở nam giới là 67,5%, ở nữ giới là 53,6%. Kết quả nghiên cứu của Xanthakis V. cho thấy: trung vị nồng độ của sST2 ở nam giới là 23,36 ng/ mL (19,12 - 28,9), ở nữ giới là 18,38 ng/mL (14,96 - 22,73) [20]. Kết quả này tương tự như kết quả của chúng tôi. Kết quả của Vera Celic cho thấy: nồng độ trung bình của sST2 ở nam giới là 26,24±13,88 ng/mL, ở nữ giới là 28,73±17,1 ng/mL. Sự khác biệt giữa nam và nữ không có ý nghĩa thống kê [10]. Nồng độ sST2 ở tác giả này cao hơn so với chúng tôi, tuy nhiên chưa có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Mối liên quan giữa nồng độ sST2 với huyết áp Tỷ lệ tăng nồng độ sST2 ở nhóm THA giai đoạn 1 là 52,1%, giai đoạn 2 là 49%, giai đoạn 3 là 69,8%. Sự khác biệt tỷ lệ tăng sST2 ở các giai đoạn không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p>0,05).Nồng độ sST2 ở nhóm THA giai đoạn 1 (17,91±4,44 ng/m) thấp hơn ở nhóm giai đoạn 3 (21,23±5,18 ng/ml) có ý nghĩa thống kê (p<0,001). Nghiên cứu của Ho J.E. và cộng sự cho thấy nồng độ cao của sST2 liên quan với xuất hiện THA sau 3 năm theo dõi [13]. Thực vậy, tăng 1 độ lệch chuẩn trong sST2 nguy cơ này là 1,22, KTC 95% 1,05-1,42, p = 0,01. Các cá nhân trong các tứ phân vị sST2 75% đã có một sự gia tăng HATT 2,6 mmHg hơn so với những người trong tứ phân vị thấp nhất (p = 0.002) và tăng 1,8 mmHg lớn hơn áp lực mạch (p = 0,005). Ngược lại, nồng độ sST2 không liên quan với những thay đổi trong huyết áp tâm trương (p = 0,27). Những phát hiện này cho thấy rằng nồng độ sST2 dự đoán những thay đổi trong huyết áp sinh lý NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 80.201768 thường thấy với sự tiến triển của lão hóa và xơ cứng động mạch theo thời gian. Cần có nhiều nghiên cứu sâu hơn nữa về vấn đề này để làm sáng tỏ cơ chế cơ bản mà con đường ST2 / IL-33 liên quan đến sinh lý huyết áp. Vai trò của sST2 trong tiên lượng phì đại thất trái Khi tiến hành hồi quy nhị phân (binary logictis) đơn biến, các yếu tố có ảnh hưởng đến tình trạng PĐTT: sST2, giới, huyết áp tâm thu, áp lực mạch. Khi tiến hành hồi quy nhị phân (binary logictis) đa biến, nồng độ sST2 là yếu tố độc lập liên quan đến tình trạng PĐTT. Vì hệ số của HATT = 0, nên chúng tôi loại HATT ra khỏi phương trình hồi quy. Phương trình hồi quy: Nguy cơ phì đại thất trái = 0,110x sST2 + 0,023x hiệu áp - 3,901 Nghiên cứu của Vera Celic cho thấy: Với điểm cắt >30,94 ng/ml, sST2 có giá trị trong tiên lượng tăng LVMI, độ nhạy 44,15%, độ đặc hiệu 77,78%, diện tích dưới đường cong ROC là 0,62, p = 0,02 [10]. Nghiên cứu của Wang Y.C. cho thấy: với điểm cắt sST2 >13,5 ng/ml, giá trị của diện tích dưới đường cong ROC trong chẩn đoán suy tim của sST2 là 0,80, p <0,001, độ nhạy 74%, độ đặc hiệu 74%[19]. Trong nghiên cứu của Ojji trên đối tượng THA, điểm cắt sST2 >24,969 ng/ml có giá trị chẩn đoán phân biệt THA đơn thuần và bệnh nhân THA có dày thất trái hoặc có suy tim, với độ nhạy 82,4%, độ đặc hiệu 100,0%. Trong khi đó, điểm cắt >14,45 ng/ ml có giá trị trong chẩn đoán phân biệt giữa nhóm THA đơn thuần và nhóm THA có suy tim. Cuối cùng, điểm cắt >38,01 ng/ml có giá trị trong chẩn đoán phân biệt giữa nhóm THA có dày thất trái với nhóm có suy tim [16]. Trong số 3428 đối tượng trong nghiên cứu Framingham, nồng độ cao của sST2 liên quan độc lập với suy tim, hoặc tử vong trong thời gian theo dõi trung bình là 11 năm; giá trị tiên đoán này có thể được giải thích bởi khả năng của sST2 trong dự đoán huyết áp tâm thu [11]. Tuy nhiên, nhiều dữ liệu gần đây từ một nghiên cứu của Phần Lan dựa vào dân số gồm 8444 đối tượng với sự theo dõi của 15 năm cho thấy mức sST2 cơ bản không dự đoán sự cố suy tim hoặc tai biến tim mạch trong các mô hình điều chỉnh, nhưng đã dự đoán được tử vong trên mọi nguyên nhân [11]. Nghiên cứu của Brown A.M. cho thấy: sST2 không có giá trị trong việc đánh giá nguy cơ hội chứng mạch vành cấp trong 30 ngày ở bệnh nhân đau thắt ngực [9]. Ngoài ra, sST2 cũng dự đoán sự khởi đầu của suy tim ở những người có hội chứng mạch vành cấp tính. Ví dụ, trong số 4426 bệnh nhân hội chứng mạch vành cấp ST không chênh lên, sST2> 35 ng/ mL có liên quan với tăng nguy cơ biến chứng suy tim ở 30 ngày và 1 năm, thậm chí sau khi điều chỉnh các yếu tố nhiễu (OR 1.90) [11]. KẾT LUẬN Qua nghiên cứu nồng độ sST2 ở bệnh nhân tăng huyết áp nguyên phát từ 5/2015 đến tháng 7/2016 gồm 150 bệnh nhân, chúng tôi rút ra một số kết luận sau: Đặc điểm nồng độ sST2 ở bệnh nhân tăng huyết áp Nồng độ sST2 trung bình là 19,27±4,81 ng/ml, 57,3% bệnh nhân tăng sST2. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ tăng nồng độ sST2 theo từng nhóm tuổi (p>0,05): Ở nhóm tuổi < 40, tỷ lệ tăng sST2 là 50,0%, nhóm 40 - 49 tuổi là 53,6%, nhóm 50 - 59 tuổi là 67,6%, nhóm tuổi 60 - 69 là 49,1%, nhóm 70 - 79 tuổi là 68,4%, nhóm ≥ 80 tuổi là 57,1%. Không có sự khác biệt về nồng độ trung bình của sST2 theo các nhóm tuổi (p>0,05): Ở nhóm tuổi < 40, nồng độ trung bình của sST2 là 18,05±4,31 ng/ NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 80.2017 69 ml, nhóm 40 - 49 tuổi là 19,18±5,39 ng/ml, nhóm 50 - 59 tuổi là 19,56 ± 5,70 ng/ml, nhóm tuổi 60 - 69 là 18,76 ± 4,05 ng/ml, nhóm 70 - 79 tuổi là 20,07 ± 4,58 ng/ml, nhóm ≥ 80 tuổi là 19,73 ± 4,83 ng/ml. Không có sự khác biệt nồng độ sST2 theo giới (p>0,05). Nồng độ trung bình ở nam giới là 19,77±5,09 ng/ml, ở nữ giới là 19,08±4,71 ng/ml. Tỷ lệ tăng sST2 ở nam giới là 67,5%, ở nữ giới là 53,6%. Mối liên quan và tương quan giữa nồng độ sST2 với huyết áp, bilan lipid, chỉ số dày thất trái trên điện tâm đồ, đường kính thất trái, phân suất tống máu trên siêu âm tim - Mối liên quan và tương quan giữa nồng độ sST2 với huyết áp Tỷ lệ tăng nồng độ sST2 ở nhóm tăng huyết áp giai đoạn 1 là 52,1%, giai đoạn 2 là 49%, giai đoạn 3 là 69,8%. Sự khác biệt tỷ lệ tăng sST2 ở các giai đoạn không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Nồng độ sST2 ở nhóm tăng huyết áp giai đoạn 1 (17,91±4,44 ng/m) thấp hơn ở nhóm giai đoạn 3 (21,23±5,18 ng/ml) có ý nghĩa thống kê (p<0,001). - Có thể dùng sST2 để tiên lượng nguy cơ dày thất trái. Phương trình hồi quy: Nguy cơ phì đại thất trái = 0,110x sST2 + 0,023x hiệu áp - 3,901. SUMMARY THE STUDY OF sST2 CONCENTRATION IN PRIMARY HYPERTENSION PATIENTS Background: sST2 is a new biomarker of heart failure prognosis. Objects and methods: Including 150 patients with primary hypertension. Descriptive cross-sectional. Results: The average concentration of sST2 19.27 ± 4.81 ng/ml, 57.3% of patients increased sST2. In the age group <40, the average concentration of sST2 is 18.05 ± 4.31 ng / ml, the group 40-49 years: 19.18 ± 5.39 ng / ml, the group 50-59 years: 19.56 ± 5.70 ng / ml, the group 60-69 years: 18.76 ± 4.05 ng / ml, group 70-79 years: 20.07 ± 4.58 ng / mL, the group ≥ 80 years : 19.73 ± 4.83 ng / ml. The average concentration of sST2 in male: 19.77 ± 5.09 ng/ml, in women: 19.08 ± 4.71 ng/ml. SST2 concentration in group hypertension stage 1 (17.91 ± 4.44 ng/ml) lower in the group stage 3 (21.23 ± 5.18 ng/ml) (p < 0.001). Can be used sST2 to predict risk left ventricular hypertrophy. Equation regression: The risk of left ventricular hypertrophy = 0.110 * sST2 concentration + 0.023x *(SBP - DBP) - 3.901. Conclusion: There is a relationship between the concentration sST2 and hypertension as well as left ventricular mass index. Keywords: sST2, hypertension, left ventricular hypertrophy. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Việt 1. Trương Quang Bình, Đinh Vũ Phương Thảo (2013), "Khảo sát phì đại thất trái trên bệnh nhân tăng huyết áp tại Bệnh viện Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh", Y học thực hành, tr. 83-86. 2. Lê Ngọc Hùng, Thái Trúc Linh (2015), "Khảo sát giá trị tham chiếu của xét nghiệm sST2 trong mẫu huyết thanh của người Việt Nam bình thường", Hội nghị khoa học kỹ thuật thường niên Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2015. 3. Khuyến cáo chẩn đoán và điều trị Tăng huyết áp 2015, Phân hội Tăng huyết áp - Hội Tim mạch học Việt Nam, tr. 3-20. 4. Khuyến cáo của hội Tim mạch học Việt Nam về chẩn đoán, điều trị, dự phòng Tăng huyết áp ở người lớn, NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 80.201770 Khuyến cáo 2008 về các bệnh lý tim mạch và chuyển hóa, tr. 235-291. 5. Huỳnh Văn Minh, Nguyễn Anh Vũ (2014), Tim mạch học, Giáo trình sau đại học, Nhà Xuất bản Đại học Huế, tr. 70-105. 6. Lê Thị Bích Thuận, Dương Đình Hoàng (2014), Nghiên cứu biến chứng phì đại thất trái ở bệnh nhân tăng huyết áp. 7. Tô Minh Tuấn, Nguyễn Văn Tuấn, Hồ Ngọc Linh, Hoàng Công Minh (2014), Mối tương quan chỉ số khối cơ thất trái trên siêu âm tim so với điện tâm đồ theo chỉ số Sokolov-Lion ở bệnh nhân tăng huyết áp tại Bệnh viện tỉnh Kon Tum năm 2012-2013. 8. Vương Anh Tuấn, Lê Thanh Liêm (2015), Đánh giá vai trò dấu ấn sinh học sST2 trong chẩn đoán khó thở do suy tim cấp, Luận văn tốt nghiệp nội trú, Trường Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh. 9. Nguyễn Anh Vũ (2008), Siêu âm tim-Cập nhật chẩn đoán, Nhà Xuất bản Đại học Huế, tr. 67-158. Tiếng Anh 10. Brown A.M., et al. (2007), "ST2 in emergency department chest pain patients with potential acute coronary syndromes", Ann Emerg Med, 50(2), pp. 153-158. 11. Celic V., et al (2016), "Soluble ST2 Levels and Left Ventricular Structure and Function in Patients With Metabolic Syndrome", Ann Lab Med, 36(6), pp. 542-549. 12. De Boer R.A., Daniels L.B., Maisel A.S., and Januzzi J.L. (2015), "State of the Art: Newer biomarkers in heart failure", European Journal of Heart Failure, doi: 10.1002/ejhf.273. 13. Dieplinger B., et al (2009), "Analytical and clinical evaluation of a novel high-sensitivity assay for measurement of soluble ST2 in human plasma--the Presage ST2 assay", Clin Chim Acta, 409(1-2), pp. 33-40. 14. Ho J.E., Larsona M.G., Ghorbanid A. (2013), “Soluble ST2 predicts elevated SBP in the community”, J Hypertens, 31(7), pp.1431-1436. 15. Januzzi J.L., et al (2007), "Measurement of the interleukin family member ST2 in patients with acute dyspnea: results from the PRIDE (Pro-Brain Natriuretic Peptide Investigation of Dyspnea in the Emergency Department) study", J Am Coll Cardiol, 50(7), pp. 607-613. 16. Manzano-Fernandez S., et al (2012), "Serial monitoring of soluble interleukin family member ST2 in patients with acutely decompensated heart failure", Cardiology, 122(3), pp. 158-166. 17. Ojji D.B., et al (2014), "The effect of left ventricular remodelling on soluble ST2 in a cohort of hypertensive subjects", J Hum Hypertens, 28(7), pp. 432-437. 18. Ojji D.B., et al. (2013), "Relationship between left ventricular geometry and soluble ST2 in a cohort of hypertensive patients", J Clin Hypertens (Greenwich), 15(12), pp. 899-904. 19. Vera Celic A.M., Biljana Pencic-Popovic (2016), "Soluble ST2 Levels and Left Ventricular Structure and Function in Patients With Metabolic Syndrome", 36, pp. 542-549. 20. Wang Y.C., Yu C.C., Chiu F.C. et al (2013), "Soluble ST2 as a Biomarker for Detecting Stable Heart Failure With a Normal Ejection Fraction in Hypertensive Patients", J Card Fail, 19(3), pp. 163-168. 21. Xanthakis V., Larson M.G., Wollert K.C. et al (2013), “Association of novel biomarkers of cardiovascular stress with left ventricular hypertrophy and dysfunction: implications for screening”, J Am Heart Assoc, 2, pp. e000399. 22. Yoon H.J., Ahn Y., Kim K.H. et al (2012), "Can Pulse Pressure Predict the White-Coat Effect in Treated Hypertensive Patients?", Clinical and Experimental Hypertension, 34(8), pp. 555-560.
File đính kèm:
nghien_cuu_nong_do_sst2_o_benh_nhan_tang_huyet_ap_nguyen_pha.pdf

