Nghiên cứu nhân giống in vitro và sự sinh trưởng phát triển cây Giảo cổ lam (Gynostemma pubescens) trong nhà kính

Tóm tắt

Cây Giảo cổ lam (Gynostemma pubescens) phân bố chủ yếu tại các tỉnh phía Bắc, là một

trong những loại thảo dược quí và tốt cho sức khỏe của con người. Trong nghiên cứu này,

chúng tôi nghiên cứu nhân giống in vitro và nuôi trồng đánh giá sự sinh trưởng phát triển

cây Giảo cổ lam cấy mô trong nhà kính tại Đà Lạt, Lâm Đồng. Kết quả cho thấy, môi

trường MS (Murashige Skoog) bổ sung 1mg/l BA, 30g/l sucrose, 8g/l agar, pH 5.8 là tốt

nhất đến sự tái sinh chồi in vitro, với chiều cao chồi 1.84 cm, số chồi 10.50 chồi/mẫu. Môi

trường MS bổ sung 0.5 mg/l TDZ, 30g/l sucrose, 8 g/l agar, pH 5.8 là tốt nhất đến sự tái

sinh chồi in vitro, với chiều cao chồi 1.99cm, số chồi 13.80 chồi/mẫu. Nồng độ IBA từ 0 - 1

mg/l đều thích hợp đến sự tái sinh rễ in vitro của cây Giảo cổ lam, với tỉ lệ tái sinh rễ đạt

100%. Vụn xơ dừa là giá thể thích hợp nhất để chuyển cây Giảo cổ lam cấy mô ra ngoài

vườn ươm, với tỷ lệ sống đạt 100%, chiều cao cây 9.73cm, chiều dài rễ 6.45cm. Đất mùn là

giá thể tốt nhất đến sự sinh trưởng phát triển của cây, với tỷ lệ sống đạt 100%, chiều cao

cây 82.08cm, chiều dài rễ 36.57cm, khối lượng tươi 57.32g/cây. Tưới 100 ml phân

Nitrophoska (2 g/l) theo định kỳ mỗi tuần một lần là tốt nhất đến sự sinh trưởng phát triển

của cây, với tỷ lệ sống đạt 100%, chiều cao cây 94.22cm, chiều dài rễ 37.71cm, khối lượng

tươi 59.38g/cây

pdf 14 trang phuongnguyen 2040
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu nhân giống in vitro và sự sinh trưởng phát triển cây Giảo cổ lam (Gynostemma pubescens) trong nhà kính", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu nhân giống in vitro và sự sinh trưởng phát triển cây Giảo cổ lam (Gynostemma pubescens) trong nhà kính

Nghiên cứu nhân giống in vitro và sự sinh trưởng phát triển cây Giảo cổ lam (Gynostemma pubescens) trong nhà kính
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT Tập 8, Số 3, 2018 99–112 
99 
NGHIÊN CỨU NHÂN GIỐNG IN VITRO 
VÀ SỰ SINH TRƯỞNG PHÁT TRIỂN CÂY GIẢO CỔ LAM 
(GYNOSTEMMA PUBESCENS) TRONG NHÀ KÍNH 
Nguyễn Thị Thanh Hằnga, Lê Ái Vâna, Đinh Văn Khiêma, 
Hoàng Văn Cươnga, Nguyễn Thị Phượng Hoànga, Phan Xuân Huyêna* 
aViện Nghiên cứu Khoa học Tây Nguyên, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, 
Lâm Đồng, Việt Nam 
*Tác giả liên hệ: Email: phanxuanhuyen1974@gmail.com 
Lịch sử bài báo 
Nhận ngày 01 tháng 09 năm 2018 
Chỉnh sửa ngày 17 tháng 09 năm 2018 | Chấp nhận đăng ngày 20 tháng 09 năm 2018 
Tóm tắt 
Cây Giảo cổ lam (Gynostemma pubescens) phân bố chủ yếu tại các tỉnh phía Bắc, là một 
trong những loại thảo dược quí và tốt cho sức khỏe của con người. Trong nghiên cứu này, 
chúng tôi nghiên cứu nhân giống in vitro và nuôi trồng đánh giá sự sinh trưởng phát triển 
cây Giảo cổ lam cấy mô trong nhà kính tại Đà Lạt, Lâm Đồng. Kết quả cho thấy, môi 
trường MS (Murashige Skoog) bổ sung 1mg/l BA, 30g/l sucrose, 8g/l agar, pH 5.8 là tốt 
nhất đến sự tái sinh chồi in vitro, với chiều cao chồi 1.84 cm, số chồi 10.50 chồi/mẫu. Môi 
trường MS bổ sung 0.5 mg/l TDZ, 30g/l sucrose, 8 g/l agar, pH 5.8 là tốt nhất đến sự tái 
sinh chồi in vitro, với chiều cao chồi 1.99cm, số chồi 13.80 chồi/mẫu. Nồng độ IBA từ 0 - 1 
mg/l đều thích hợp đến sự tái sinh rễ in vitro của cây Giảo cổ lam, với tỉ lệ tái sinh rễ đạt 
100%. Vụn xơ dừa là giá thể thích hợp nhất để chuyển cây Giảo cổ lam cấy mô ra ngoài 
vườn ươm, với tỷ lệ sống đạt 100%, chiều cao cây 9.73cm, chiều dài rễ 6.45cm. Đất mùn là 
giá thể tốt nhất đến sự sinh trưởng phát triển của cây, với tỷ lệ sống đạt 100%, chiều cao 
cây 82.08cm, chiều dài rễ 36.57cm, khối lượng tươi 57.32g/cây. Tưới 100 ml phân 
Nitrophoska (2 g/l) theo định kỳ mỗi tuần một lần là tốt nhất đến sự sinh trưởng phát triển 
của cây, với tỷ lệ sống đạt 100%, chiều cao cây 94.22cm, chiều dài rễ 37.71cm, khối lượng 
tươi 59.38g/cây. 
Từ khóa: Chiều cao cây; Chiều dài rễ; Cây Giảo cổ lam; Sinh trưởng phát triển; Số chồi. 
Mã số định danh bài báo:  
Loại bài báo: Bài báo nghiên cứu gốc có bình duyệt 
Bản quyền © 2018 (Các) Tác giả. 
Cấp phép: Bài báo này được cấp phép theo CC BY-NC-ND 4.0 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT [CHUYÊN SAN KHOA HỌC TỰ NHIÊN VÀ CÔNG NGHỆ] 
100 
STUDY ON IN VITRO PROPAGATION 
AND DEVELOPMENT GROWTH OF GYNOSTEMMA 
PUBESCENS IN THE GREENHOUSE CONDITION 
Nguyen Thi Thanh Hanga, Le Ai Vana, Dinh Van Khiema, 
Hoang Van Cuonga, Nguyen Thi Phuong Hoanga, Phan Xuan Huyena* 
aThe Tay Nguyen Institute for Scientific Research, Vietnam Academy of Science and Technology, 
Lamdong, Vietnam 
*Corresponding author: Email: phanxuanhuyen1974@gmail.com 
Article history 
Received: September 01st, 2018 
Received in revised form: September 17th, 2018 | Accepted: September 20th, 2018 
Abstract 
The Gynostemma pubescens plant, which is distributed mainly over the northern provinces, 
is a valuable and beneficial herb for human health. In this study, we investigated in vitro 
propagation and cultivation to evaluate the growth and development of Gynostemma 
pubescens in greenhouse conditions at Dalat city, Lamdong province. The results showed 
that MS medium supplemented with 1mg/l BA, 30 g/l sucrose, 8g/l agar, pH 5.8 was the 
best medium for shoot regeneration in vitro, with a shoot height of 1.84cm, and 10.50 
shoots/explant. The MS medium contained 0.5mg/l TDZ, 30g/l sucrose, 8g/l agar, pH 5.8 
was the most suitable medium for shoot regeneration in vitro, with a shoot height of 
1.99cm, and 13.80 shoots/explant. Concentrations of IBA from 0 to 1 mg/l were 
appropriate for in vitro root regeneration, yielding a root regeneration rate of 100%. 
Coconut fiber powder was the most suitable substrate to transfer the plantlets to the 
greenhouse, with a survival rate of 100%, plant height of 9.73cm, and root length of 
6.45cm. Humus proved the best substrate for plant development and growth, with a survival 
rate of 100%, plant height of 82.08cm, root length of 36.57cm and a fresh weight of 
57.32g/plant. Watering with 100 ml of Nitrophoska fertilizer (2g/l) once a week was the 
best for plant growth, with a survival rate of 100%, height of 94.22cm, root length of 
37.71cm, and a fresh weight of 59.38g/plant. 
Keywords: Development growth; Gynostemma pubescens; Number of shoots; Plant height; 
Root length. 
Article identifier:  
Article type: (peer-reviewed) Full-length research article 
Copyright © 2018 The author(s). 
Licensing: This article is licensed under a CC BY-NC-ND 4.0 
Nguyễn Thị Thanh Hằng, Lê Ái Vân, Đinh Văn Khiêm, Hoàng Văn Cương, Nguyễn Thị Phượng Hoàng, và Phan Xuân Huyên 
101 
1. GIỚI THIỆU 
Giảo cổ lam (Gynostemma pubescens) là một cây thuốc quý và có giá trị kinh tế 
cao, có chứa hơn 100 loại saponin, trong đó có nhiều cấu trúc giống như saponin của 
nhân sâm và tam thất. Cây Giảo cổ lam có công dụng bồi bổ và tăng cường sức khỏe, 
chống lão hóa, tăng cường giải độc chức năng gan, hỗ trợ điều trị bệnh ung thư, giảm 
béo phì, điều chỉnh rối loạn chuyển hóa mỡ máu, đường huyết, huyết áp, tim mạch, 
(Đỗ, 1999; Võ, 1997). Do đó, việc tiến hành nghiên cứu bảo tồn và phát triển cây Giảo 
cổ lam nhằm tạo ra nguồn nguyên liệu dược phục vụ trong lĩnh vực y học, thực phẩm và 
mỹ phẩm là vấn đề rất cần thiết. Trên thế giới hiện nay đã có nhiều công bố nghiên cứu 
trên cây Giảo cổ lam, nghiên cứu chống ung thư (Cheng & ctg., 2011; 
Li, Lin, Huang, Xie, & Ma, 2016), nghiên cứu xác định những saponin và tác dụng của 
chúng (Huo, Wang & Xiao, 1998; Utama-ang & ctg., 2006), nghiên cứu thành phần hóa 
học trong cây Giảo cổ lam (Xie & ctg., 2010; Yin & Hu, 2016), về nghiên cứu nhân 
giống in vitro đã có công bố nhưng vẫn còn rất ít (Zhang, Liu, Zhao, & Han, 1988; Jala 
& Patchpoonporn, 2012). Ở nước ta, cây Giảo cổ lam đã được trồng ở một số tỉnh phía 
Bắc và đã tạo ra nguyên liệu dược liệu phục vụ cho việc chữa bệnh, nhưng về công bố 
nghiên cứu trên cây Giảo cổ lam vẫn còn rất ít, Bùi và ctg. (2015) đã nghiên cứu nhân 
giống in vitro thành công loài Gynostemma pentaphyllum, Pham và Tran (2017) nghiên 
cứu bảo tồn và phát triển cây Giảo cổ lam. Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu nhân 
giống in vitro và đánh giá sự sinh trưởng phát triển cây Giảo cổ lam cấy mô trong điều 
kiện nhà kính tại Đà Lạt - Lâm Đồng. Kết quả của nghiên cứu này góp phần xây dựng 
qui trình nhân giống in vitro và qui trình nuôi trồng cây Giảo cổ lam tại Đà Lạt, Lâm 
Đồng. 
2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
2.1. Vật liệu 
Loài Gynostemma pubescens đã và đang được nghiên cứu tại Phòng Công nghệ 
Thực vật, Viện Nghiên cứu Khoa học Tây Nguyên được sử dụng làm nguồn vật liệu cho 
các thí nghiệm. 
2.2. Phương pháp nghiên cứu 
2.2.1. Môi trường và điều kiện nuôi cấy 
MS (Murashige & Skoog, 1962) là môi trường được sử dụng trong nghiên cứu 
in vitro, tùy theo mục đích của các thí nghiệm mà bổ sung các chất như: BA (6-benzyl 
adenin), TDZ (Thidiazuron), IBA (Indole-3-butyric), sucrose và agar. Đối với những 
nghiên cứu in vitro, thời gian chiếu sáng 10 giờ/ngày, cường độ ánh sáng 34 µmol.m-2.s-
1, nhiệt độ 25 ± 2°C và độ ẩm không khí 75-85%. Đối với những nghiên cứu ex vitro, 
các thí nghiệm được tiến hành trong điều kiện nhà kính. Giá thể sử dụng là cát, vụn xơ 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT [CHUYÊN SAN KHOA HỌC TỰ NHIÊN VÀ CÔNG NGHỆ] 
102 
dừa, đất mùn, đất bazan. Phân bón tưới cho cây là phân hữu cơ sinh học bón lá Vinh 
Thanh Humic Acid (2 g/l), Nutri-Gold (2 g/l), Nitrophoska (2 g/l) và Growmore (2 g/l). 
2.2.2. Bố trí thí nghiệm 
 Thí nghiệm 1: Khảo sát ảnh hưởng của BA đến sự tái sinh chồi in vitro: Vật 
liệu nuôi cấy là những đốt thân in vitro (Hình 1a) được cấy trên môi trường 
MS bổ sung 0; 0.5; 1; 1.5; 2mg/l BA, 30 g/l sucrose, 8 g/l agar, pH 5.8. Mỗi 
nghiệm thức cấy 12 mẫu, sau 30 ngày nuôi cấy tiến hành thu số liệu. Chỉ 
tiêu theo dõi là số chồi/mẫu và chiều cao chồi (cm). 
 Thí nghiệm 2: Khảo sát ảnh hưởng của TDZ đến sự tái sinh chồi in vitro: 
Vật liệu nuôi cấy là những đốt thân in vitro (Hình 1a) được cấy trên môi 
trường MS bổ sung 0; 0.1; 0.5; 1mg/l TDZ, 30 g/l sucrose, 8 g/l agar, pH 
5.8. Mỗi nghiệm thức cấy 12 mẫu, sau 30 ngày nuôi cấy tiến hành thu số 
liệu. Chỉ tiêu theo dõi là số chồi/mẫu và chiều cao chồi (cm). 
 Thí nghiệm 3: Khảo sát ảnh hưởng của IBA đến sự tái sinh rễ in vitro: Vật 
liệu nuôi cấy là những chồi ngọn in vitro (Hình 1a) được cấy trên môi 
trường MS bổ sung 0; 0.1; 0.5; 1mg/l IBA, 30g/l sucrose, 8g/l agar, pH 5.8. 
Mỗi nghiệm thức cấy 12 mẫu, sau 20 ngày nuôi cấy tiến hành thu số liệu. 
Chỉ tiêu theo dõi là chiều cao cây (cm), chiều dài rễ (cm), số rễ/cây và tỉ lệ 
tạo rễ (%). 
 Thí nghiệm 4: Khảo sát ảnh hưởng của giá thể đến tỉ lệ sống của cây Giảo 
cổ lam cấy mô chuyển ra ngoài vườn ươm: Những cây Giảo cổ lam cấy mô 
có đầy đủ thân lá rễ và chiều cao khoảng 5cm (Hình 2a) được trồng trên giá 
thể cát, vụn xơ dừa và giá thể ½ vụn xơ dừa phối trộn ½ cát. Mỗi nghiệm 
thức trồng 12 cây, sau 45 ngày nuôi trồng tiến hành thu số liệu. Chỉ tiêu 
theo dõi là chiều cao cây (cm), chiều dài rễ (cm) và tỉ lệ sống của cây (%). 
 Thí nghiệm 5: Khảo sát ảnh hưởng của giá thể đến sự sinh trưởng phát triển 
của cây Giảo cổ lam cấy mô trong nhà kính: Những cây Giảo cổ lam cấy 
mô có đầy đủ thân lá rễ và chiều cao khoảng 8 cm (Hình 2b) được trồng 
trên giá thể đất mùn, vụn xơ dừa và đất bazan, với mật độ 1 cây/chậu. Mỗi 
nghiệm thức trồng 12 cây, sau 90 ngày nuôi trồng tiến hành thu số liệu. Chỉ 
tiêu theo dõi là chiều cao cây (cm), chiều dài rễ (cm), khối lượng tươi/cây 
(g) và tỉ lệ sống của cây (%). 
 Thí nghiệm 6: Khảo sát ảnh hưởng của phân bón đến sự sinh trưởng phát 
triển cây Giảo cổ lam cấy mô trong nhà kính: Những cây Giảo cổ lam cấy 
mô có đầy đủ thân lá rễ và chiều cao khoảng 8 cm (Hình 2b) được trồng 
trên cùng giá thể vụn xơ dừa, với mật độ 1 cây/chậu. Các nghiệm thức được 
tưới 100 ml phân hữu cơ sinh học bón lá Vinh Thanh Humic Acid, Nutri-
Nguyễn Thị Thanh Hằng, Lê Ái Vân, Đinh Văn Khiêm, Hoàng Văn Cương, Nguyễn Thị Phượng Hoàng, và Phan Xuân Huyên 
103 
Gold, Nitrophoska và Growmore vào chậu giá thể theo định kỳ 1 tuần 1 lần. 
Mỗi nghiệm thức trồng 12 cây, sau 90 ngày nuôi trồng tiến hành thu số liệu. 
Chỉ tiêu theo dõi là chiều cao cây (cm), chiều dài rễ (cm), khối lượng 
tươi/cây (g) và tỉ lệ sống của cây (%). 
2.3. Xử lý số liệu 
Số liệu của các thí nghiệm được xử lý bằng phần mềm thống kê SPSS (bản 15.0) 
trong Duncan’s test (Duncan, 1955) với P ≤ 0.05. 
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 
3.1. Khảo sát ảnh hưởng của BA đến sự tái sinh chồi in vitro 
Khả năng tái sinh chồi in vitro sau 30 ngày nuôi cấy được thể hiện trên Bảng 1. 
Kết quả cho thấy, tất cả các mẫu ở những môi trường trên đều sống sót và tái sinh chồi, 
tuy nhiên ở những môi trường khác nhau thì quá trình tái sinh chồi có sự khác nhau. 
Môi trường bổ sung 1mg/l BA tái sinh chồi cao nhất, với 10.5 chồi/mẫu, chồi cây khỏe 
mạnh và có màu xanh đậm (Hình 1b). Nồng độ của BA tăng từ 0 đến 0.5mg/l thì sự tái 
sinh chồi tăng lên (tương ứng 3.10 và 6.80 chồi/mẫu, chồi cây khỏe mạnh và có màu 
xanh đậm (Hình 1b), nhưng khi nồng độ BA tăng lên 1.5 đến 2mg/l thì sự tái sinh chồi 
giảm xuống (tương ứng 6.90 và 5.70 chồi/mẫu), chồi cây yếu và có hiện tượng mọng 
nước (Hình 1b). Điều này cho thấy, nồng độ BA từ 0 đến 1mg/l thì có tác dụng kích 
thích tái sinh chồi, nhưng khi nồng độ BA tăng lên 1.5 đến 2mg/l thì có tác dụng ức chế 
sự hình thành chồi. 
Bảng 1. Ảnh hưởng của BA đến sự tái sinh chồi in vitro sau 30 ngày nuôi cấy 
BA (mg/l) Số chồi/mẫu Chiều cao chồi (cm) 
0.0 3.10d* 2.82a 
0.5 6.80b 2.18b 
1.0 10.50a 1.84bc 
1.5 6.90b 1.42cd 
2.0 5.70c 1.29d 
Ghi chú: *Những chữ khác nhau (a, b, c, d) trong cùng một cột biểu diễn sự khác nhau có ý nghĩa 
với P ≤ 0.05 trong Duncan’s test; n = 12. 
Kết quả của thí nghiệm này cũng cho thấy, khi nồng độ BA tăng lên thì chiều 
cao chồi giảm xuống, khi tăng nồng độ BA thì sẽ ức chế sự tăng trưởng chiều cao của 
chồi cây. BA là chất điều hòa sinh trưởng thuộc nhóm cytokinin có vai trò quan trọng 
trong phân chia tế bào và kích thích sự hình thành chồi, bởi vậy, trong nuôi cấy mô tế 
bào thực vật BA thường được sử dụng trong giai đoạn nhân nhánh. Nồng độ của BA 
được sử dụng trong nhân giống in vitro ở những loài cây khác nhau là khác nhau, có 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT [CHUYÊN SAN KHOA HỌC TỰ NHIÊN VÀ CÔNG NGHỆ] 
104 
loài cây thích hợp ở nồng độ thấp, có loài cây thích hợp ở nồng độ cao. Hiện nay, đã có 
một số công bố đã sử dụng BA trong nghiên cứu nhân giống in vitro cây Giảo cổ lam, 
nhưng vẫn còn rất ít. 
Kết quả của thí nghiệm này tương đồng với kết quả nghiên cứu của Jala và 
Patchpoonporn (2012) khi nghiên cứu nhân giống in vitro cây Giảo cổ lam đã sử dụng 
BA, kết quả cho thấy, BA ở nồng độ 1mg/l là tốt nhất, với 7.285 chồi/mẫu. Pham và 
Tran (2017) nghiên cứu bảo tồn và phát triển cây Giảo cổ lam đã sử dụng BA kết hợp 
với NAA, kết quả thu được tốt nhất khi BA ở nồng độ 1 mg/l và NAA ở nồng độ 
0.1mg/l, với 6.8 chồi/mẫu. Bùi và ctg. (2015) nghiên cứu nuôi cấy mô cây Giảo cổ lam 
đã sử dụng 0.5mg/l BA kết hợp 0.4mg/l Kinetin cho hệ số nhân nhanh chồi đạt 4.36 lần. 
Như vậy, môi trường MS bổ sung 1 mg/l BA là thích hợp nhất đến sự nhân nhanh in 
vitro cây Giảo cổ lam. 
3.2. Khảo sát ảnh hưởng của TDZ đến sự tái sinh chồi in vitro 
Khả năng tái sinh chồi in vitro sau 30 ngày nuôi cấy được thể hiện trên Bảng 2. 
Kết quả cho thấy, môi trường không bổ sung chất kích thích sinh trưởng thì mẫu chỉ tái 
sinh 3.20 chồi/mẫu và chồi cây khỏe mạnh (Hình 1c), khi môi trường bổ sung 0.1mg/l 
TDZ thì mẫu tái sinh chồi tăng lên 7.80 chồi/mẫu và chồi cây xanh mượt (Hình 1c), khi 
tăng nồng độ TDZ lên 0.5mg/l thì mẫu tái sinh chồi nhiều nhất, với 13.80 chồi/mẫu và 
chồi cây xanh mượt (Hình 1c), nhưng khi tăng cao nồng độ TDZ lên 1mg/l thì mẫu chỉ 
tái sinh 6.60 chồi/mẫu, chồi cây yếu và có hiện tượng mọng nước (Hình 1c). Điều này 
cho thấy, TDZ ở nồng độ thấp thì kích thích tái sinh chồi của mẫu, nhưng khi nồng độ 
TDZ tăng cao thì ức chế sự tái sinh chồi của mẫu. Kết quả cũng cho thấy, nồng độ TDZ 
càng tăng cao (0, 0.1, 0.5, 1mg/l) thì chiều cao chồi càng giảm xuống (tương ướng 2.79, 
1.31, 1.99, 0.83cm). TDZ là chất kích thích sinh trưởng có tác dụng kích thích sự phân 
chia tế bào và hình thành chồi trong nhân giống thực vật in vitro. 
Bảng 2. Ảnh hưởng của TDZ đến sự tái sinh chồi in vitro sau 30 ngày nuôi cấy 
TDZ (mg/l) Số chồi/mẫu Chiều cao chồi (cm) 
0.0 3.20d* 2.79a 
0.1 7.80b 1.31c 
0.5 13.80a 1.99b 
1.0 6.60c 0.83c 
Ghi chú: *Những chữ khác nhau (a, b, c, d) trong cùng một cột biểu diễn sự khác nhau có ý nghĩa 
với P ≤ 0.05 trong Duncan’s test; n = 12. 
Hiện nay, TDZ được ứng dụng rộng rãi trong nuôi cấy mô tế bào thực vật trên 
nhiều đối tượng cây trồng, nhưng chưa thấy nghiên cứu nào công bố sử dụng TDZ trong 
nhân giống in vitro cây Giảo cổ lam. Đoàn (2014) nghiên cứu nhân giống cây dược liệu 
đản ... t, vụn xơ dừa, ½ cát + ½ vụn xơ dừa; d1, d2, d3) Cây 
Giảo cổ lam cấy mô trồng trên giá thể đất mùn, vụn xơ dừa, đất bazan; e1, e2, e3, e4) Cây Giảo cổ lam cấy 
mô được tưới phân Phân hữu cơ sinh học bón lá Vinh Thanh Humic Acid, Nutri-Gold, Nitrophoska, 
Growmore; và f) Sự sinh trưởng phát triển cây Giảo cổ lam cấy mô sau 180 ngày trồng trong nhà kính. 
Nguyễn Thị Thanh Hằng, Lê Ái Vân, Đinh Văn Khiêm, Hoàng Văn Cương, Nguyễn Thị Phượng Hoàng, và Phan Xuân Huyên 
107 
3.4. Khảo sát ảnh hưởng của giá thể đến tỉ lệ sống của cây Giảo cổ lam cấy mô 
chuyển ra ngoài vườn ươm 
Khả năng thích nghi và sinh trưởng của cây giảo cổ lam cấy mô chuyển ra 
ngoài vườn ươm sau 45 ngày nuôi trồng và chăm sóc trên giá thể cát, vụn xơ dừa và giá 
thể ½ vụn xơ dừa kết hợp với ½ cát được thể hiện trên Bảng 4. Chuyển cây cấy mô ra 
điều kiện ngoài vườn ươm là một khâu quan trọng quyết định thành công trong nuôi cấy 
mô thực vật. Cây cấy mô nuôi cấy trên môi trường thạch nên khi chuyển ra ngoài vườn 
ươm phải thích nghi trên những giá thể mới, độ ẩm thấp và có sự dao động trong ngày. 
Vì vậy, trong thời gian đầu cần phải phun sương giữ ẩm thích hợp cho cây. Kết quả cho 
thấy, tỉ lệ sống của cây con trồng ở các loại giá thể trên đều đạt 100%, điều này cho 
thấy, cây Giảo cổ lam cấy mô có sức sống mạnh khi chuyển từ điều kiện in vitro ra điều 
kiện ex vitro. Cây con trồng ở các loại giá trên cũng đều sinh trưởng phát triển tốt, tuy 
nhiên ở những giá thể khác nhau thì sự sinh trưởng của cây có sự khác nhau (Hình 2c). 
Cây trồng trên giá thể vụn xơ dừa sinh trưởng phát tốt nhất, với chiều cao cây 9.73 cm, 
chiều dài rễ 6.45 cm. Điều này có thể giải thích, giá thể vụn xơ dừa có độ thông thoáng 
và giữ ẩm thích hợp cho sự sinh trưởng phát triển của cây con trong giai đoạn đầu ở 
điều kiện ngoài vườn ươm. 
Giá thể vụn xơ dừa là một trong những giá thể được sử dụng phổ biến để trồng 
cây con ở giai đoạn vườn ươm. Phan và Nguyễn (2014) đã nghiên cứu nhân giống và 
nuôi trồng cây dược liệu đảng sâm khi chuyển cây cấy mô ra ngoài vườn đã sử dụng giá 
thể vụn xơ dừa, kết quả cho thấy, tỉ lệ sống của cây đạt 100%, chiều cao cây 6.12 cm và 
chiều dài rễ 4.60 cm sau 20 ngày nuôi trồng. Một nghiên cứu khác của Phan và ctg. 
(2018) cũng nghiên cứu cây dược liệu lan gấm loài Anoectochilus formosanus và đã sử 
dụng giá thể vụn xơ dừa để chuyển cây cấy mô ra ngoài vườn ươm, kết quả ghi nhận, tỉ 
lệ sống của cây con đạt 100% và cây sinh trưởng tốt. Kết quả của thí nghiệm này tốt 
hơn kết quả của Pham và Tran (2017) khi nghiên cứu chuyển cây Giảo cổ lam cấy mô 
ra ngoài vườn ươm thì tỉ lệ sống chỉ đạt 85%. Như vậy, vụn xơ dừa là giá thể thích hợp 
nhất để chuyển cây Giảo cổ lam cấy mô ra ngoài vườn ươm. 
Bảng 4. Ảnh hưởng của giá thể đến tỉ lệ sống của cây Giảo cổ lam cấy mô chuyển 
ra ngoài vườn ươm sau 45 ngày chăm sóc 
Giá thể Chiều cao cây (cm) Chiều dài rễ (cm) Tỉ lệ sống (%) 
Cát 6.41c* 2.39c 100 
Vụn xơ dừa 9.73a 6.45a 100 
½ vụn xơ dừa + ½ cát 7.52b 3.56b 100 
Ghi chú: *Những chữ khác nhau (a, b, c) trong cùng một cột biểu diễn sự khác nhau có ý nghĩa 
với P ≤ 0.05 trong Duncan’s test; n = 12. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT [CHUYÊN SAN KHOA HỌC TỰ NHIÊN VÀ CÔNG NGHỆ] 
108 
3.5. Khảo sát ảnh hưởng của giá thể đến sự sinh trưởng phát triển của cây Giảo 
cổ lam cấy mô trong nhà kính 
Những cây Giảo cổ lam cấy mô đã thích nghi ở điều kiện ngoài vườn ươm được 
trồng trên giá thể đất mùn, vụn xơ dừa và đất bazan. Tất cả các nghiệm thức đều tưới 
100 ml phân Nutri-Gold với nồng độ 2g/l vào chậu giá thể theo định kỳ mỗi tuần một 
lần. Khả năng sinh trưởng phát triển của cây sau 90 ngày nuôi trồng và chăm sóc được 
thể hiện trên Bảng 5. Kết quả cho thấy, tỉ lệ sống của cây trồng ở các loại giá thể trên 
đều đạt 100%, cây sinh trưởng phát triển tốt, lá cây có màu xanh đậm (Hình 2d), tuy 
nhiên ở những giá thể khác nhau thì cây có sự sinh trưởng phát triển khác nhau. Cây 
trồng trên giá thể đất mùn sinh trưởng phát triển tốt nhất, với chiều cao cây 82.08cm, 
chiều dài rễ 36.57 cm, khối lượng tươi 57.32g/cây. Cây trồng trên giá thể vụn xơ dừa 
không tốt bằng cây trồng ở giá thể đất mùn nhưng tốt hơn cây trồng trên giá thể đất 
bazan, với chiều cao cây 71.54 cm, chiều dài rễ 34.58 cm, khối lượng tươi 53.52 g/cây. 
Điều này có thể giải thích, đất mùn được hình thành trong đất do quá trình tích lũy và 
phân giải không hoàn toàn trong điều kiện yếm khí xác thực vật, giàu chất khoáng và 
tươi xốp phù hợp cho cây Giảo cổ lam cấy mô sinh trưởng phát triển. 
Đất mùn là giá thể được sử dụng phổ biến trong trồng trọt. Hầu hết các vườn 
ươm giống cây con tại Đà Lạt, Lâm Đồng đều sử dụng đất mùn. Quan và Liang (2017) 
nghiên cứu bốn loại đất, bao gồm đất mùn, đất cát, đất vườn và đất nâu vàng để trồng 
loài Lycoris aurea. Kết quả phân tích cho thấy có sự khác biệt đáng kể về hàm lượng 
của các nguyên tố khoáng chất và hoạt động của các enzym trong các loại đất, trong đó, 
hàm lượng chất hữu cơ, nitơ thủy phân kiềm, Ca, Mg cũng như hoạt động của các 
enzym trong đất mùn là cao nhất và đất mùn có thể được sử dụng làm giá thể thích hợp 
cho trồng trọt nhân tạo loài Lycoris aurea. Như vậy, giá thể đất mùn là thích hợp nhất 
đến sự sinh trưởng phát triển cây Giảo cổ lam cấy mô trong nhà kính. 
Bảng 5. Ảnh hưởng của giá thể đến sự sinh trưởng phát triển của cây Giảo cổ lam 
cấy mô trong nhà kính sau 90 ngày nuôi trồng 
Giá thể Chiều cao cây (cm) Chiều dài rễ (cm) Khối lượng tươi/cây (g) Tỉ lệ sống (%) 
Đất mùn 82.08a 36.57a 57.32a 100 
Vụn xơ dừa 71.54b 34.58b 53.52b 100 
Đất bazan 48.56c 35.52ab 30.56c 100 
Chú thích: *Những chữ khác nhau (a, b, c) trong cùng một cột biểu diễn sự khác nhau có ý nghĩa 
với P ≤ 0.05 trong Duncan’s test; n = 12. 
3.6. Khảo sát ảnh hưởng của phân bón đến sự sinh trưởng phát triển cây Giảo 
cổ lam cấy mô trong nhà kính 
Những cây Giảo cổ lam cấy mô đã thích nghi ở điều kiện ngoài vườn ươm được 
trồng trên giá thể đất mùn. Mỗi nghiệm thức được sử dụng các loại phân bón khác nhau, 
với nồng độ 2g/l và tưới 100 ml vào chậu giá thể theo định kỳ mỗi tuần một lần. Khả 
Nguyễn Thị Thanh Hằng, Lê Ái Vân, Đinh Văn Khiêm, Hoàng Văn Cương, Nguyễn Thị Phượng Hoàng, và Phan Xuân Huyên 
109 
năng sinh trưởng phát triển của cây sau 90 ngày nuôi trồng và chăm sóc được thể hiện 
trên Bảng 6. Kết quả cho thấy, tất cả các cây tưới bốn loại phân đều sống sót 100% và 
sinh trưởng phát triển tốt, nhưng ở mỗi nghiệm thức tưới các loại phân khác nhau thì 
cây sinh trưởng phát triển khác nhau. Cây tưới phân Nitrophoska sinh trưởng phát triển 
tốt nhất, với chiều cao 94.22 cm, chiều dài rễ 37.71 cm, khối lượng tươi 59.38g/cây, cây 
có sức sinh trưởng mạnh và có mày xanh đậm (Hình 2e). Cây tưới phân Growmore sinh 
trưởng phát triển kém nhất, với chiều cao cây 75.54 cm, chiều dài rễ 28.58 cm, khối 
lượng tươi 48.46g/cây và lá cây có màu xanh đậm (Hình 2d). Cây tưới phân hữu cơ sinh 
học bón lá Vinh Thanh Humic Acid sinh trưởng phát triển tốt hơn cây tưới Growmore 
nhưng lá cây có màu xanh nhạt (Hình 2d), với chiều cao cây 79.34 cm, chiều dài rễ 
30.48 cm, khối lượng tươi 52.58g/cây. Cây tưới phân Nutri-Gold không tốt bằng cây 
tưới phân Nitrophoska nhưng tốt hơn cây tưới phân hữu cơ sinh học bón lá Vinh Thanh 
Humic Acid và phân Growmore, với chiều cao cây 83.56cm, chiều dài rễ 35.54cm, khối 
lượng tươi 54.98g/cây và lá cây có màu xanh nhạt (Hình 2d). Điều này cho thấy, thành 
phần và hàm lượng của các chất khoáng đa vi lượng có trong phân Nitrophoska phù hợp 
cho sự sinh trưởng phát triển của cây Giảo cổ lam. Thực vật nói chung và cây Giảo cổ 
lam nói riêng đều cần những chất khoáng đa vi lượng thiết yếu cho cây sinh trưởng và 
phát triển, tuy nhiên những loại cây khác nhau thì nó cần những chất khoáng đa vi 
lượng và ở những nồng độ khác nhau. 
Bảng 6. Ảnh hưởng của phân bón đến sự sinh trưởng phát triển cây Giảo cổ lam 
cấy mô trong nhà kính sau 90 ngày nuôi trồng 
Giá thể 
Chiều cao cây 
(cm) 
Chiều dài rễ 
(cm) 
Khối lượng 
tươi/cây (g) 
Tỉ lệ sống 
(%) 
Phân hữu cơ sinh học bón lá 
Vinh Thanh Humic Acid 
79.34c 30.48c 52.58c 100 
Nutri-Gold 83.56b 35.54b 54.98b 100 
Nitrophoska 94.22a 37.71a 59.38a 100 
Growmore 75.54d 28.58d 48.46d 100 
Chú thích: *Những chữ khác nhau (a, b, c, d) trong cùng một cột biểu diễn sự khác nhau có ý nghĩa 
với P ≤ 0.05 trong Duncan’s test; n = 12. 
Kết quả của nghiên cứu này cũng phù hợp với kết quả của Phan, Huỳnh và 
Nguyễn (2017) khi nghiên cứu nhân giống và nuôi trồng cây dược liệu sâm bố chính đã 
Tưới 100ml phân Nitrophoska với nồng độ 2g/l theo định kỳ mỗi tuần một lần vào chậu 
giá thể, kết quả thu được, cây sinh trưởng phát triển tốt, chiều cao cây đạt 60.82 cm và 
tất cả các cây đều ra hoa, sau 80 ngày nuôi trồng và chăm sóc. Kết quả của nghiên cứu 
này cũng phù hợp với kết quả của Phan, Nguyễn, Phùng, và Vũ (2016) khi nghiên cứu 
nhân giống và nuôi trồng cây lan gấm Anoectochilus lylei đã sử dụng phân Nitrophoska, 
Growmore và phân JIA6, kết qua cho thấy, cây phun phân JIA6 sinh trưởng phát triển 
tốt nhất với chiều cao cây 13.55 cm, chiều dài rễ 8.15 cm và khối lượng tươi 2.42 g/cây, 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT [CHUYÊN SAN KHOA HỌC TỰ NHIÊN VÀ CÔNG NGHỆ] 
110 
sau bốn tháng nuôi trồng. Như vậy, tưới phân Nitrophoska là thích hợp nhất đến sự sinh 
trưởng phát triển cây Giảo cổ lam cấy mô trong nhà kính. 
4. KẾT LUẬN 
Từ các kết quả thu được, chúng tôi rút ra kết luận là đã nhân giống in vitro thành 
công và cây Giảo cổ lam sinh trưởng, phát triển tốt trong điều kiện nhà kính tại Đà Lạt, 
Lâm Đồng. Môi trường MS bổ sung 1mg/l BA, 30g/l sucrose, 8g/l agar, pH 5.8 là thích 
hợp nhất đến sự nhân nhanh in vitro cây Giảo cổ lam; Môi trường MS bổ sung 0.5mg/l 
TDZ, 30g/l sucrose, 8g/l agar, pH 5.8 là thích hợp nhất đến sự nhân nhanh in vitro cây 
Giảo cổ lam; Nồng độ IBA từ 0 đến 1mg/l đều thích hợp đến sự tái sinh rễ in vitro của 
cây Giảo cổ lam; Vụn xơ dừa là giá thể thích hợp nhất để chuyển cây Giảo cổ lam cấy 
mô ra ngoài vườn ươm; Giá thể đất mùn là thích hợp nhất đến sự sinh trưởng phát triển 
cây Giảo cổ lam cấy mô trong nhà kính; Tưới 100ml phân Nitrophoska theo định kỳ 
mỗi tuần một lần là thích hợp nhất đến sự sinh trưởng phát triển cây Giảo cổ lam cấy 
mô trong nhà kính. 
LỜI CẢM ƠN 
Chúng tôi chân thành cảm ơn Viện Nghiên cứu Khoa học Tây Nguyên, Viện 
Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam đã cấp kinh phí để chúng tôi thực hiện và 
hoàn thành nghiên cứu này. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Bùi, Đ. L., Nguyễn, T. T., Nguyễn, V. D., Nguyễn, V. B., Lã, V. H., & Ngô, X. B. 
(2015). Nghiên cứu khả năng nhân giống cây Giảo cổ lam (Gynostemma 
pentaphyllum Thunb) bằng phương pháp in vitro. Tạp chí Nông nghiệp và Phát 
triển Nông thôn, (15), 249-256. 
Cheng, T. C, Lu, J. F, Wang, J. S., Lin, L. J., Kuo, H. I., & Chen, B. H. (2011). 
Antiproliferation effect and apoptosis mechanism of prostate cancer cell PC-3 by 
flavonoids and saponins prepared from Gynostemma pentaphyllum. Journal of 
Agricultural and Food Chemistry, 59(20), 11319-11329. 
Duncan, D. B. (1955). Multiple range and F tests. Biometrics, 11, 1-42. 
Đoàn, T. Đ. (2014). Qui trình nhân giống cây đảng sâm bằng phương pháp nuôi cấy 
mô. Kon Tum, Việt Nam: Sở Khoa học và Công nghệ Kon Tum. 
Đỗ, T. L. (1999). Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam. Hà Nội, Việt Nam: NXB. Y 
học. 
Huo, H., Wang, T., Yu, S., & Xiao, P. (1998). Protective effect of saponins of 
Gynostemma pubescens on neuronal injury in cultured cortical neurons of mice. 
China Pharmaceutical Bulletin, 14(2), 120-122. 
Nguyễn Thị Thanh Hằng, Lê Ái Vân, Đinh Văn Khiêm, Hoàng Văn Cương, Nguyễn Thị Phượng Hoàng, và Phan Xuân Huyên 
111 
Jala, A., & Patchpoonporn, W. (2012). Effect of BA, NAA and 2.4-D on 
micropropagation of Jiaogulan (Gynostemma pentaphyllum Makino). 
International Transaction Journal of Engineering, Management, & Applied 
Sciences & Technologies, 3(4), 362-369. 
Li, Y., Lin, W., Huang, J., Xie, Y., & Ma, W. (2016). Anti-cancer effects 
of Gynostemma pentaphyllum (Thunb.) Makino. Chinese Medicine, 11, 1-16. 
Murashige, T., & Skoog, F. (1962). A revised medium for rapid growth and bioassays 
with tobacco tissue. Journal of Plant Physiology, 15, 473-497. 
Phan, X. H., Hoàng, V. C., Đinh, V. K., Nguyễn, T. T. H., & Nguyễn, L. T. (2015). Vi 
nhân giống cây hoa lan Miltonia sp. Tạp chí Công nghệ Sinh học, 13(2A), 459-
467. 
Phan, X. H., Huỳnh, T. N., & Nguyễn, T. P. H. (2017). Nghiên cứu nhân giống in vitro 
cây sâm bố chính (Hibicus sagittifolius Kurz) thông qua nuôi cấy chồi ngủ đốt 
thân. Tạp chí Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, 15(5), 664-672. 
Phan, X. H., Nguyễn, T. T. H., Phùng, Q. V., & Vũ, T. H. (2016). Nghiên cứu nhân 
giống và nuôi trồng cây lan gấm (Anoectochilus lylei Rolfe ex Downies). Tạp 
chí Khoa học Đại học Tây Nguyên, (20), 68-74. 
Phan, X. H., Trần, T. H. A., Nguyễn, T. P. H., Nguyễn, T. T. H., Đinh, V. K., & Hoàng, 
V. C. (2018). Nhân giống in vitro và ảnh hưởng của phân bón lá đến sự sinh trưởng 
cây lan gấm tại Lâm Đồng. Tạp chí Dược liệu, 23(1), 52-59. 
Phan, X. H., & Nguyễn, L. T. (2014). Nghiên cứu nhân giống in vitro cây đảng sâm 
(Codonopsis javanica Blume) thông qua nuôi cấy chồi ngủ. Tạp chí Công nghệ 
Sinh học, 12(4), 659-666. 
Pham, C. K., & Tran, V. M. (2017). Preservation and development of Giao co lam 
(Gynostemma pentaphyllum) in the hot tropics of Vietnam. Paper presented at 
The Sixth International Conference on Advances in Applied Science and 
Environmental Technology, USA. 
Quan, M. H., & Liang, J. (2017). The influences of four types of soil on the growth, 
physiological and biochemical characteristics of Lycoris aurea (L’ Her.) Herb. 
Scientific Reports, 7, 1-9. 
Slupski, W., Tubek, B., & Matkowski, A. (2011). Micropropagation of Codonopsis 
pilosula (Franch.) Nannf. by axillary shoot multiplication. Acta Biologica 
Cracoviensia, 53(2), 87-93. 
Utama-ang, N., Chompreeda, P., Haruthaithanasan, V., Lerdvuthisopon, N., 
Suwonsichon, T., Wood, K., & Watkins, B. A. (2006). Identification of major 
saponins from Jiaogulan extract (Gynostemma pentaphyllum). Kasetsart 
Journal, 40, 59-66. 
Võ, V. C. (1997). Từ điển Cây thuốc Việt Nam. Hà Nội, Việt Nam: NXB. Y học. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT [CHUYÊN SAN KHOA HỌC TỰ NHIÊN VÀ CÔNG NGHỆ] 
112 
Xie, Z., Liu, W., Huang, H., Slavin, M., Zhao, Y., Whent, M., Blackford, J., Lutterodt, 
H., Zhou, H., Chen, P., Wang, T. T., Wang, S., & Yu, L. L. (2010). Chemical 
composition of five commercial Gynostemma pentaphyllum samples and their 
radical scavenging, antiproliferative, and anti-inflammatory properties. 
Journal of Agricultural and Food Chemistry, 58(21), 11243-11249. 
Yin, F., & Hu, L. H. (2016). Studies on chemical constituents of Jiaogulan 
(Gynostemma pentaphyllum). Herbs: Challenges in Chemistry and Biology, 13, 
170-184. 
Zhang, Z. H., Liu, H., Zhao, L. H., & Han, X. Z. (1988). Clonal propagation of 
Gynostemma pentaphyllum (Thumb.) Makino in test tubes. Zhongguo Zhong 
Yao Za Zhi, 14(6), 335-341. 

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_nhan_giong_in_vitro_va_su_sinh_truong_phat_trien.pdf