Nghiên cứu: Nghiên cứu thực trạng và quản lý hen, COPD ở Việt Nam

Đặt vấn đề và mục tiêu: Luôn có 1 khoảng chênh giữa kết quả điều trị từ các nghiên cứu áp dụng tài liệu hướng

dẫn, thường được theo dõi trong một thời gian ngắn, với hiệu quả thực trong quản lý, điều trị đối với bệnh nhân

hen, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD). Cần có nghiên cứu nhằm xác định những khiếm khuyết trong thực

hành quản lý, điều trị hai bệnh lý này. Nghiên cứu này được thực hiện nhằm ghi nhận hiện trạng thực hành và

hiệu quả quản lý, điều trị trên bệnh nhân ở Việt Nam. Nghiên cứu cũng bước đầu cung cấp những thông tin đặc

điểm nhận dạng kiểu hình bệnh nhân hen, COPD ở Việt Nam để việc tiếp cận điều trị hợp lý và hiệu quả hơn.

Đối tượng và phương pháp: Bệnh nhân được quản lý điều trị ít nhất 3 tháng (1/1/2016 đến 31/12/2017)

và được chọn ngẫu nhiên từ 6 bệnh viện ở Việt Nam. Số liệu được thu thập theo phiếu thông tin thống nhất

gồm 2 nội dung: 1) Nội dung ghi nhận thực từ hồ sơ lưu của bệnh nhân tại cơ sở điều trị (gọi là phân tích

1) và 2) Nội dung ghi nhận từ yêu cầu của nghiên cứu (gọi là phân tích 2)

pdf 9 trang phuongnguyen 40
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu: Nghiên cứu thực trạng và quản lý hen, COPD ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu: Nghiên cứu thực trạng và quản lý hen, COPD ở Việt Nam

Nghiên cứu: Nghiên cứu thực trạng và quản lý hen, COPD ở Việt Nam
85
Hô hấp số 17/2018
Nghiên cứu
THỰC TRẠNG VÀ QuẢN LÝ HEN, COPD Ở VIỆT NAM
N.V.THÀNH 1*, Đ.N. Sỹ 2, C.T.M.THÚy 3, N.Đ.Duy 4, 
N.T. HồI 5, V.N.TRƯỜNG 6, V.V. THÀNH 7, L.T.T.HƯƠNG 8.
1 Hội Lao và Bệnh Phổi Việt Nam, 2 Tổng hội Y học Việt Nam, 
3 BV. Đa Khoa Trung Ương Cần Thơ, 4 BV. Phạm Ngọc Thạch,
5 BV Quốc Tế Hải Phòng, 6 BV Lao – Bệnh phổi Hải Phòng, 
7 BV Phổi Trung ương, 8 BV. Nhân Dân Gia Định,
* Chịu trách nhiệm chính
Tóm tắt:
Đặt vấn đề và mục tiêu: Luôn có 1 khoảng chênh giữa kết quả điều trị từ các nghiên cứu áp dụng tài liệu hướng 
dẫn, thường được theo dõi trong một thời gian ngắn, với hiệu quả thực trong quản lý, điều trị đối với bệnh nhân 
hen, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD). Cần có nghiên cứu nhằm xác định những khiếm khuyết trong thực 
hành quản lý, điều trị hai bệnh lý này. Nghiên cứu này được thực hiện nhằm ghi nhận hiện trạng thực hành và 
hiệu quả quản lý, điều trị trên bệnh nhân ở Việt Nam. Nghiên cứu cũng bước đầu cung cấp những thông tin đặc 
điểm nhận dạng kiểu hình bệnh nhân hen, COPD ở Việt Nam để việc tiếp cận điều trị hợp lý và hiệu quả hơn.
Đối tượng và phương pháp: Bệnh nhân được quản lý điều trị ít nhất 3 tháng (1/1/2016 đến 31/12/2017) 
và được chọn ngẫu nhiên từ 6 bệnh viện ở Việt Nam. Số liệu được thu thập theo phiếu thông tin thống nhất 
gồm 2 nội dung: 1) Nội dung ghi nhận thực từ hồ sơ lưu của bệnh nhân tại cơ sở điều trị (gọi là phân tích 
1) và 2) Nội dung ghi nhận từ yêu cầu của nghiên cứu (gọi là phân tích 2). 
Kết quả và bàn luận: Có 224 bệnh nhân được chọn ngẫu nhiên vào nghiên cứu phân tích 1 (hen là 125, 
COPD là 119) và 227 bệnh nhân vào phân tích 2 (hen là 103 và COPD là 124). Trên bệnh nhân hen chỉ có 
3.2% bệnh nhân béo phì, trong khi trên bệnh nhân COPD 45.8% thuộc nhóm gầy thiếu cân. Bệnh viêm mũi 
dị ứng đồng mắc trên bệnh nhân hen là 15.5%, trong khi bệnh tim mạch đồng mắc trên bệnh nhân COPD 
là 24.7%. Tăng bạch cầu ái toan (BCAT) máu thấy trên 68.0% bệnh nhân hen và 36.3% bệnh nhân COPD. 
Điều trị thuốc hô hấp đối với hen được tập hợp thành 7 phác đồ và không có trường hợp nào sử dụng thuốc 
cường giao cảm tác dụng ngắn (SA) hoặc thuốc cortocosteroid dạng hít (ICS) đơn độc. 97.1% bệnh nhân 
đang sử dụng phác đồ kết hợp corticosteroid dạng hít với cường giao cảm tác dụng dài (ICS-LABA). Tương 
tự, điều trị thuốc hô hấp đối với COPD được tập hợp thành 6 phác đồ và quản lý bằng thuốc ức chế phó giao 
cảm tác dụng dài (LAMA) chỉ chiếm 5.6%. Không có trường hợp nào sử dụng LABA đơn độc. Số bệnh 
nhân COPD sử dụng phác đồ có ICS lên tới 92.7%. Đánh giá bằng bảng điểm asthma control test (ACT) 
ở phân tích 2, kiểm soát hen tốt chỉ đạt 41.1%. Cũng đánh giá COPD ở phân tích 2, có 54.0% bệnh nhân 
COPD có nhiều triệu chứng đánh giá bằng bảng điểm COPD assessement test (CAT≥10), 37.9% bệnh nhân 
COPD còn hút thuốc lá và 36.1% bệnh nhân có nhiều đợt cấp trong 12 tháng trước. 
Kết luận: Trên một quần thể nghiên cứu bệnh hen, COPD vừa có tính cộng đồng, vừa có tính chọn lọc cao 
từ các trung tâm y tế lớn ở Việt Nam cho thấy còn có nhiều điểm yếu trong kỹ năng thực hành, quản lý và 
điều trị đối với 2 bệnh lý này. Có thể đây là nguyên nhân dẫn đến hiệu quả điều trị còn thấp. Bên cạnh đó, 
nghiên cứu cũng đã bước đầu ghi nhận những thông tin hướng tới nhận dạng kiểu hình bệnh nhân hen và 
COPD. Đây mới chỉ là những thông tin đầu tiên về kiểu hình ở hai bệnh lý này ở Việt Nam và rất cần có các 
nghiên cứu khác được thiết kế chặt chẽ với mẫu lớn để xác định trong thời gian tới. 
Từ khóa: Hen, Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, phenotype hen, phenotype COPD, quản lý hen và COPD.
 ĐỀ CƯƠNG NGhiêN Cứu
86
Hô hấp số 17/2018
Abstract:
Situation and management for patient with asthma and COPD in Vietnam
Introduction and aims: There is always a different level between the results of the treatment from the 
studies applying the guidelines, which is usually monitored for a short time, with real effectiveness in 
management and treatment for patients with asthma and chronic obstructive pulmonary diseases (COPD). 
It is needed to have the researches to identify shortcomings in management and treatment practice for these 
two diseases. This study was conducted to document the current practice and effectiveness of management 
and treatment for patients in Vietnam. The study also initially provides information identifying phenotypic 
asthma and COPD patients in Vietnam for more appropriate and effective treatment approaches.
Patients and methods: Patients were managed for at least 3 months (1 Jan 2016 to 31 Dec 2017) and 
were randomly selected from 6 hospitals in Vietnam. The data was collected according to the unified 
questionnaire form, including 2 items: 1) The actual recording from the patients’ records at the facility 
(called analysis 1) and 2) Content recorded from research requirements (called analysis 2).
Results and Discussion: There were 224 patients randomly assigned to the analysis 1 (125 asthma, 119 
COPD patients) and 227 patients to analysis 2 (103 asthma and 124 COPD patients). In patients with asthma 
only 3.2% were obese, while in patients with COPD 45.8% were underweight. Comorbid allergic rhinitis in 
asthmatic patients was 15.5%, while comorbid cardiovascular deseases in COPD patients was 24.7%. High 
blood eosinophil levels was observed in 68.0% of patients with asthma and 36.3% in patients with COPD. 
Respiratory medications for asthma were grouped into 7 regimens and no case was single used SA or ICS. 
97.1% of patients were used inhaled corticosteroid - long acting beta
2
 agonist (ICS-LABA) combination therapy. 
Similarly, respiratory drug therapy for COPD was grouped into six regimens and administered by long acting 
muscarinic antagonist (LAMA) only accounted for 5.6%. There is no case used LABA alone. The number of 
COPD patients using regimens combined with ICS was 92.7%. Evaluation by asthma control test score (ACT) 
in analysis 2 showed that good asthma control only reached 41.1%. COPD evaluations in analysis 2 showed that 
54.0% of patients are persistent symptoms with COPS assessement test (CAT) ≥10, 37.9% COPD patients are 
current smoker, and 36.1% of patients are with frequent acute exacerbations in the previous 12 months.
Conclusion: This study conduted on population of patients with both characteristics of community-based 
and highly selective from major health centers in Vietnam show a number of shortcomings in practice and 
management skills and treatment for these two diseases. This can be understood as the cause of low effect 
of treatment seen in this study . In addition, research also document data aimed at identifying phenotypic 
patients with asthma and COPD. This is the first information in Vietnam in this issue and it is very important 
to have closely designed studies with large population to determine in the coming time. 
Key words: asthma, chronic obstructive pulmonary disease, asthma phenotype, COPD phenotype, asthma 
and COPD management.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Hen và Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD) 
đang là các bệnh hô hấp hàng đầu với tỷ lệ bệnh 
mắc cao và là gánh nặng kinh tế xã hội và y tế. 
Chăm sóc bệnh nhân Hen và COPD, nhất là các 
đợt cấp đang tạo ra áp lực cho hệ thống y tế nhìn 
từ nhìn góc độ chi phí chăm sóc, tổ chức khám và 
quản lý điều trị, quá tải tại các cơ sở điều trị nội 
trú, sử dụng thuốc kháng sinh không kiểm soát. 
Trong khoảng vài thập niên trở lại đây, đã có 
nhiều tiến bộ rất căn bản trong y học, trong nhận 
thức xã hội và đã tạo ra những thay đổi quan trọng 
trong việc quản lý hai bệnh lý này. Các mục tiêu 
quản lý điều trị hướng tới chẩn đoán bệnh sớm, 
kiểm soát bệnh, nâng cao chất lượng cuộc sống 
của người bệnh, kết hợp xử trí bệnh mạn tính trong 
tổng thể sức khỏe người lớn tuổi và phòng bệnh 
đã làm thay đổi hẳn diện mạo tiên lượng bệnh. 
 ĐỀ CƯƠNG NGhiêN Cứu
87
Hô hấp số 17/2018
Tuy nhiên, còn có sự không tương xứng giữa các 
khuyến cáo được thể hiện trong các tài liệu hướng 
dẫn (guideline) đã được chứng minh có hiệu quả 
cao từ các thử nghiệm lâm sàng (1) với thực hành 
và hiệu quả trong cộng đồng (real population) (2). 
Những phân tích hiệu quả thực hành cho thấy 
hiện đang có những trở ngại thực tế cần được khắc 
phục mà trong đó mấu chốt là kỹ năng chuẩn của 
thầy thuốc cả về kiến thức, hành vi và trách nhiệm. 
Hiện nay chúng ta chưa có mô hình cụ thể trong 
quản lý và điều trị bệnh nhân hen và COPD. Đa 
số bệnh nhân hen và COPD được chăm sóc bởi hệ 
thống y tế đa khoa, phân bố theo đăng ký BHYT. 
Đặc điểm bệnh nhân đang quản lý và điều trị tại 
các cơ sở y tế này hoàn toàn có thể phản ánh thực 
trạng thực hành chăm sóc y tế hen và COPD tại địa 
phương nơi bệnh nhân đang sống. Với những phân 
tích trên, việc khảo sát thực trạng thực hành khám 
và quản lý hen, COPD tại các cơ sở y tế tuyến cuối 
(đa khoa hay chuyên khoa) để từ đó các các tiếp 
cận cải thiện, chuẩn hóa thực hành là rất cần thiết.
MỤC TIÊu NGHIÊN CỨu
Mục tiêu nghiên cứu bao gồm xác định đặc điểm 
bệnh nhân hen, COPD đang quản lý và điều trị 
tại một số cơ sở y tế tuyến cuối và nhận xét thực 
trạng, hiệu quả quản lý hen, COPD tại các cơ sở 
y tế nói trên.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN 
CỨu 
Người bệnh: 
- Điểm nghiên cứu là các đơn vị có tổ chức 
khám, quản lý điều trị Hen, COPD tuyến tỉnh, 
trung ương, có đăng ký BHYT và được chọn theo 
hình thức tự nguyện tham gia. Các điểm nghiên 
cứu này có khả năng thực hiện các xét nghiệm 
theo yêu cầu nghiên cứu ít nhất gồm: Xquang 
ngực thường quy, xét nghiệm công thức bạch cầu 
máu ngoại vi, đo chức năng hô hấp (spirometry). 
Có 6 đơn vị tham gia nghiên cứu, gồm BV Phổi 
TW, BV Quốc Tế Hải Phòng, BV Lao-Bệnh phổi 
Hải Phòng, BV Phạm Ngọc Thạch, BV Nhân Dân 
Gia Định, BV Đa khoa TW Cần Thơ.
- Số lượng bệnh nhân được tính theo công thức:
n = Z
2α
.
p(1-p)
ε2
Trong đó: 
a= 0,05; p: là tỷ lệ tham khảo (tỷ lệ bệnh nhân 
tuân thủ điều trị là 40% theo Leiva-Fernández et al. 
BMC Pulmonary Medicine 2014, 14:70) = 40% ; 
e= 5%. Số bệnh nhân nghiên cứu dự kiến là: 188.
- Chọn ngẫu nhiên bệnh nhân nghiên cứu: 
Mỗi bệnh viện tham gia nghiên cứu dựa trên hồ 
sơ lưu trữ chọn những trường hợp đã được chẩn 
đoán và đã quản lý điều trị ít nhất 3 tháng Hen 
phế quản (J45.9) và COPD (J44.9) để lập danh 
sách theo thời gian từ 1/1/2016 đến 31/12/2017 
cho đủ 100 hồ sơ / BV, gọi là “danh sách dự kiến 
của BV“. “Danh sách dự kiến của BV” sẽ được 
trộn chung thành “danh sách dự kiến nghiên cứu”. 
Trên cơ sở “danh sách dự kiến nghiên cứu” bệnh 
nhân nghiên cứu được chọn bằng cách ngẫu nhiên 
chẵn - lẻ cho đến khi đủ số lượng cỡ mẫu dự kiến 
vào “danh sách bệnh nhân nghiên cứu”. Dưới đây 
là sơ đồ tuyển bệnh (hình 1).
Hình 1. Sơ đồ tuyển bệnh ngẫu nhiên của nghiên cứu 
- Thu thập số liệu theo phiếu nghiên cứu thống 
nhất. Các biến số được định nghĩa rõ ràng. 
Trong đó bao gồm thông tin hồi cứu từ hồ sơ 
 ĐỀ CƯƠNG NGhiêN Cứu
88
Hô hấp số 17/2018
quản lý và thông tin được cập nhật ở lần khám 
cuối cùng. Các thông tin ghi nhận bao gồm 
đặc điểm bệnh nhân, đặc điểm bệnh, đặc điểm 
quản lý và điều trị, đặc điểm tuân thủ điều trị, 
đánh giá hiệu quả sau thời gian quản lý.
Phân tích số liệu:
Nghiên cứu thực hiện 2 lần phân tích gồm 
phân tích hồi cứu thông tin thể hiện trên hồ sơ 
quản lý bệnh nhân (phân tích 1, PT-1) và phân 
tích thông tin bổ sung ở lần khám cuối cùng (phân 
tích 2, PT-2).
Sử dụng phầm mềm SPSS 16.0. Ghi nhận số 
liệu bằng thống kê mô tả (descriptive statistic). 
Sử dụng phép kiểm t student để so sánh 2 trung 
bình, và phép kiểm Chi bình phương (c2) để so 
sánh 2 tỉ lệ. Phân tích tương quan bằng Spearman 
test two-tailed. Ngưỡng có ý nghĩa <0,05.
KẾT QuẢ NGHIÊN CỨu 
Tổng số bệnh nhân nghiên cứu được chọn ngẫu 
nhiên là 244. Trong đó PT-1 Hen là 125, COPD là 
119, PT-2 Hen là 103, COPD là 127. Sơ đồ diễn 
biến bệnh thể hiện bằng hình 2. 
Hình 2. Sơ đồ diễn biến bệnh trong nghiên cứu
Phân tích 1: 
Đặc điểm bệnh nhân hồi cứu từ hồ sơ quản lý của 125 bệnh nhân được chẩn đoán Hen và 119 bệnh nhân 
được chẩn đoán COPD được thể hiện ở bảng 1. 
Bảng 1. Đặc điểm bệnh nhân trong nghiên cứu, PT-1
Đặc điểm Hen COPD
Tổng
PT-1
Nơi ở (%):
 - Cùng tỉnh-thành
 - Khác tỉnh – thành
 - Khác miền
64.0
21.6
14.4
56.3
23.5
20.2
60.2
22.6
17.3
BHYT (%)
 - Có BHYT
 - Không BHYT
 - Không có dữ liệu
92.8
5.6
1.6
97.5
2.5
-
95.2
4.1
-
 ĐỀ CƯƠNG NGhiêN Cứu
89
Hô hấp số 17/2018
Theo phân vùng địa lý, Việt Nam được chia 
thành 7 miền. Số bệnh nhân khác tỉnh-thành là 
22.6% và khác miền là 17.3%. Mặc dù số lượng 
bệnh nhân có thẻ BHYT là rất cao (95.2%) nhưng 
với tỷ lệ như trên có thể sẽ có gần 40% số bệnh 
nhân đi khám trái tuyến BHYT.
Bảng 1 cho thấy những thông tin cơ bản 
trong hồ sơ thông thường là rất thiếu, như không 
ghi nhận về hút thuốc lá 23.6%, về Xquang ngực 
27.2%, và về công thức máu ngoại vi (CTM) 
65.4%. Những ghi nhận về đánh giá bệnh và hiệu 
quả điều trị như ACT (hoặc CAT), đợt cấp đa số 
là không được ghi trong hồ sơ bệnh nhân (93.9% 
và 51.1% theo thứ tự). Tương tự, chỉ định vaccin 
cho bệnh nhân cũng không được ghi trong hồ sơ 
trên 76.1% trường hợp.
Đặc điểm Hen COPD
Tổng
PT-1
Thời gian quản lý trung bình (tháng)
Thời gian (tháng) tối thiểu-tối đa
31 
7-99
34.2 
7-100
32.6 
7-99.5
Hút thuốc lá (%)
 - Không hút
 - Có
 - Không ghi nhận
41.6
28.0
30.4
5.0
78.1
16.8
23.3
53.1
23.6
BMI (%)
 - Thấp (≤ 20)
 - Bình thường (21-20)
 - Béo phì (≥ 30)
 - Không ghi nhận
19.2
76.0
3.2
1.6
45.8
51.7
2.5
0.8
32.5
63.9
2.9
1.2
Chức năng hô hấp (%)
 - Không tắc nghẽn sau tHPPQ
 - Có tắc nghẽn sau tHPPQ
 - Không ghi nhận
66.4
27.2
6.4
23.5
71.4
5.0 5.7
Xquang ngực (%)
 - Không có bất thường
 - Có bất thường không lý giải được do hen (hoặc 
COPD)
 - Không ghi nhận: 
64.8
12.0
23.2
39.5
29.4
31.1
52.2
20.7
27.2
BCAT (%)
 - Có làm 
 - Không làm
39.2
60.8
31.9
68.1
35.6
65.4
ACT – CAT (%)
 - Có ghi nhận
 - Không ghi nhận
7.2
92.8
5.0
95.0
6.1
93.9
Tiêm vaccin (%)
 - Có ghi
 - Không ghi nhận
19.0
81.0
28.7
71.3
23.9
76.1
Đợt cấp:
 - Có ghi nhận
 - Không ghi nhận
44.8
55.2
52.9
47.0
48.9
51.1
 ĐỀ CƯƠNG NGhiêN Cứu
90
Hô hấp số 17/2018
Thông tin quan trọng nhất trong hồ sơ quản 
lý hen và COPD là chức năng hô hấp. Có 5.5% 
bệnh nhân không đo chức năng hô hấp, trong đó 
COPD là 5,7%.
Phân tích 2: 
Phân tích 2 là phân tích tại thời điểm lấy số liệu. 
Những số liệu của phân tích 2 nhằm phản ánh đặc 
điểm bệnh học bệnh nhân, chỉ định điều trị, hiệu 
quả quản lý bệnh nhân (bảng 2). Ở lần phân tích 
2, có 102 bệnh nhân chẩn đoán hen và 124 bệnh 
nhân chẩn đoán COPD. 22 bệnh nhân hen đo chức 
năng hô hấp có tắc nghẽn cố định sau test hồi 
phục phế quản (tHPPQ) được chuyển sang chẩn 
đoán COPD (tỷ lệ 22/125, 18%) và 17 trường 
hợp COPD đo lại chức năng hô hấp không có tắc 
nghẽn sau tHPPQ (tỷ lệ 17/119, 14%) (hình 2). 
Do có rất nhiều bệnh đồng mắc được ghi 
nhận trên một bệnh nhân nên khi phân tích đối với 
hen chúng tôi chỉ ghi nhận riêng bệnh viêm mũi 
dị ứng (VMDU) và với COPD chúng tôi chỉ ghi 
nhận bệnh riêng bệnh tim - mạch (gồm cao huyết 
áp, bệnh mạch vành và suy tim) là hai bệnh đồng 
mắc quan trọng đối với hen và COPD.
Đối với bạch cầu ái toan máu (BCAT) chúng 
tôi lấy ngưỡng tăng ≥ 3% và/hoặc ≥ 300/mm3. Trên 
Xquang ngực thường quy COPD, chúng tôi ghi 
nhận có hay không có biểu hiện rõ hình ảnh khí phế 
thũng. Trên bệnh nhân COPD, mức độ tắc nghẽn 
thể hiện trên giá trị FEV1 so với giá trị dự đoán được 
chia thành 2 mức, <50% hoặc ≥ 50% (bảng 2).
Bảng 2. Đặc điểm bệnh nhân trong nghiên cứu, PT-2
Hen COPD
Đặc điểm Kết quả Đặc điểm Kết quả
Tuổi khởi bệnh (%):
 - <50 tuổi
 - >50 tuổi 
 - Không ghi nhận
19.4
79.0
1.6
Bệnh đồng mắc (%):
 - Không VMDU
 - Có VMDU
 - Không ghi nhận
67.9
15.5
1.0
Bệnh đồng mắc (%):
 - Không bệnh tim mạch
 - Có bệnh tim mạch
 - Không ghi nhận
71.8
27.4
0.8
Bạch cầu ái toan máu (%)
 - Không tăng
 - Tăng
 - Không ghi nhận
15.5
68.0
16.5
Bạch cầu ái toan máu (%)
 - Không tăng
 - Tăng
 - Không ghi nhận
40.3
36.3
23.3
CRP (TB, tối thiểu-tối đa) mg/L 6.1/0.0-54.6
Xquang ngực (%):
 - Không biểu hiện khí phế thũng
 - Có biểu hiện khí phế thũng
 - Không ghi nhận
34.7
60.5
4.8
Mức độ tắc nghẽn (%)
 - FEV1 ≥50% giá trị dự đoán (GTDĐ)
 - FEV1 <50% GTDĐ
 - Không nghi nhận
50.8
41.1
8.1
Thay đổi giá trị % FEV1 sau tHPPQ 
(TB, tối thiểu-tối đa)
4.9 (-9.0 – 39.0) Thay đổi giá trị % FEV1 sau tHPPQ (TB, tối 
thiểu-tối đa)
4.35 (-7.0 - 25)
 ĐỀ CƯƠNG NGhiêN Cứu
91
Hô hấp số 17/2018
Tìm mối liên quan giữa giá trị thay đổi FEV1 
sau tHPPQ với tăng BCAT trên bệnh nhân COPD 
cho thấy có mối liên quan thuận, hệ số tương quan 
là 0.22 (p <0.05). 
Bảng 3 phân tích đặc điểm quản lý điều trị 
bệnh nhân và kết quả đánh giá bằng bảng ACT 
(với hen) và CAT (đối với COPD), đợt cấp trong 
12 tháng trước đó. Khả năng thực hiện đúng kỹ 
thuật sử dụng dụng cụ phân phối thuốc được chia 
thành 3 mức độ tốt, chưa tốt và không tốt. Tương 
tự, tuân thủ yêu cầu sử dụng thuốc cũng được chia 
thành 3 mức độ tốt, chưa tốt và không tốt. Đánh giá 
kiểm soát hen bằng bảng ACT ở 3 mức: kiểm soát 
tốt (≥20), kiểm soát 1 phần (15-19) và không kiểm 
soát (<15). Tương tự, đánh giá triệu chứng COPD 
bằng điểm CAT ở 2 mức: ít triệu chứng (<10) và 
nhiều triệu chứng (≥10). Số đợt cấp được ghi nhận 
trong 12 tháng trước gồm số trung bình đợt cấp và 
tỷ lệ bệnh nhân có ít nhất 1 lần đợt cấp nhập viện 
đối với hen và ít (< 2 lần và không có đợt cấp nhập 
viện) hoặc nhiều đợt cấp (≥2 đợt cấp hoặc ít nhất 
có 1 đợt cấp nhập viện) đối với COPD. 
Bảng 3. Đặc điểm hiệu quả quản lý và điều trị 
Hen COPD
Đặc điểm Kết quả Đặc điểm Kết quả
Hút thuốc lá (%):
 - Không hút
 - Còn hút
 - Không ghi nhận
60.5
37.9
1.6
Sử dụng dụng cụ phân phối thuốc (%):
 - Tốt
 - Chưa tốt
 - Không tốt 
75.7
18.4
5.8
Sử dụng dụng cụ phân phói thuốc (%):
 - Tốt
 - Chưa tốt
 - Không tốt
73.4
21.8
4.8
Tuân thủ yêu cầu sử dụng thuốc (%):
 - Tốt
 - Chưa tốt
 - Không tốt
84.5
11.7
3.8
Tuân thủ yêu cầu sử dụng thuốc (%):
 - Tốt
 - Chưa tốt
 - Không tốt
83.1
14.5
2.4
Điểm ACT (%):
 - <15
 - 15-19
 - ≥20
 - Không nghi nhận
12.0
16.9
41.1
41.6
Điểm CAT
 - <10
 - ≥ 10
 - Không ghi nhận
16.1
54.0
28.8
Đợt cấp trong 12 tháng:
 - Trung bình đợt cấp (tối thiểu-tối đa)
 - Tỷ lệ có ít nhất 1 đợt cấp cần nhập viện 
(%)
0.45 (0-6)
6.6
Đợt cấp trong 12 tháng (%):
 - Ít đợt cấp
 - Nhiều đợt cấp
 - Không ghi nhận
10.9
36.1
52.9
Thuốc điều trị đang sử dụng (%):
 - MON
 - ICS-LABA
 - ICS-LABA/MON
 - SA/ICS-LABA
 - LAMA/ICS-LABA
 - /OCS
 - LAMA
1.0
51.5
24.3
18.4
2.9
1.0
1.0
Thuốc điều trị đang sử dụng (%): 
 - LABA-LAMA
 - ICS-LABA
 - ICS-LABA/MON
 - SA/ICS-LABA
 - LAMA/ICS-LABA
 - SA/LAMA
1.6
21.0
3.2
51.6
16.9
5.6
 ĐỀ CƯƠNG NGhiêN Cứu
92
Hô hấp số 17/2018
Điều trị thuốc hô hấp đối với hen được tập 
hợp thành 7 phác đồ, gồm: 1) Thuốc kháng thụ 
thể leukotriene đơn độc (montelukast, MON), 2) 
Kết hợp với corticosteroid hít (ICS) với thuốc 
dãn phế quản tác dụng dài dạng kích thích beta
2 
(ICS-LABA), 3) ICS-LABA kết hợp MON 
(ICS-LABA/MON), 4) Thuốc dãn phế quản tác 
dụng ngắn (SA, short acting) kết hợp với ICS-
LABA (SA/ICS-LABA), 5) ICS-LABA kết hợp 
với thuốc dãn phế quản tác dụng dài dạng kháng 
cholinergic (ICS-LABA/LAMA), 6) Có phối hợp 
corticosteroid uống (/OCS), 7) LAMA đơn độc 
(bảng 3). Như vậy không có trường hợp nào sử 
dụng SA hoặc ICS đơn độc. 
Điều trị thuốc hô hấp đối với COPD được 
tập hợp thành 6 phác đồ, gồm: 1) LABA-LAMA, 
2) ICS-LABA, 3) ICS-LABA/MON, 4) SA/ICS-
LABA, 5) LAMA/ICS-LABA, 6) SA/LAMA 
(bảng 3). Quản lý bằng LAMA chỉ chiếm 5.6%. 
Không có trường hợp nào sử dụng LABA đơn 
độc. Số bệnh nhân sử dụng phác đồ có ICS chiếm 
92.7%.
BÀN LuẬN
Đặc điểm quản lý:
Với nhận định về tính đại diện của quần thể bệnh 
nhân nghiên cứu như trên, đặc điểm bệnh nhân 
trong PT-1 cho thấy chất lượng ghi nhận thông 
tin trong hồ sơ quản lý không tốt. Các ghi nhận 
đánh giá hiệu quả quản lý điều trị cũng như các 
biện pháp trị liệu không dùng thuốc không được 
chú ý. Trong đó rất đáng lưu ý về đánh giá chức 
năng hô hấp, 27.2% bệnh nhân hen có tắc nghẽn 
sau tHPPQ và 23.5% bệnh nhân COPD không tắc 
nghẽn sau tHPPQ. Đây là điều rất cần nhấn mạnh 
vì hầu hết bệnh nhân đã được quản lý trong một 
thời gian dài, thời gian quản lý trung bình đến 
32.6 tháng.
Đặc điểm bệnh lý:
Đây có thể là nghiên cứu đầu tiên ở Việt Nam 
hướng tới nhận dạng kiểu hình bệnh nhân hen, 
COPD. Đặc điểm bệnh lý ghi nhận về tỷ lệ bệnh 
nhân hen béo phì, bệnh nhân COPD khởi phát 
bệnh sớm, hen có bệnh đồng mắc VMDU, COPD 
có bệnh đồng mắc bệnh tim-mạch, tỷ lệ tăng 
BCAT máu, hình ảnh Xquang ngực biểu hiện khí 
phế thũng, đặc điểm mức độ tắc nghẽn là những 
thông tin quan trọng cho việc phân tích kiểu hình 
hen và COPD ở Việt Nam. Trên cơ sở những số 
liệu trên, sẽ rất cần những nghiên cứu thiết kế 
chặt chẽ và theo dõi dọc để nhận định tốt hơn về 
kiểu hình hen, COPD ở Việt Nam. 
Đặc điểm điều trị và hiệu quả: 
Như bảng 3 cho thấy điều trị thuốc hô hấp đối 
với hen được tập hợp thành 7 phác đồ và không 
có trường hợp nào sử dụng SA hoặc ICS đơn 
độc. 97.1% bệnh nhân đang sử dụng phác đồ 
kết hợp ICS-LABA. Đây là con số thể hiện chỉ 
định điều trị không thực sự hợp lý vì ICS-LABA 
chỉ có chỉ định cho hen trung bình-nặng. Điều 
không hợp lý này càng thể hiện rõ hơn nếu nhìn 
vào một quần thể bệnh nhân đã được quản lý 
điều trị trung bình 32.6 tháng (thời gian tối thiểu 
cũng là 7 tháng). 
Tương tự, điều trị thuốc hô hấp đối với 
COPD được tập hợp thành 6 phác đồ và quản lý 
bằng LAMA chỉ chiếm 5.6%. Không có trường 
hợp nào sử dụng LABA đơn độc. Số bệnh nhân sử 
dụng phác đồ có kết hợp ICS lên tới 92.7%. Nhìn 
từ các nghiên cứu cho thấy bệnh nhân COPD thực 
sự có lợi với trị liệu có ICS kết hợp chỉ chiếm 
khoảng 30% thì tỷ lệ chỉ định thuốc có ICS như 
trên là rất không hợp lý, nhất là khi tỷ lệ các 
trường hợp sử dụng thuốc dãn phế quản tác dụng 
dài (đơn độc hay kết hợp) là rất thấp (7.2%). 
Những khiếm khuyết trong ghi nhận thông 
tin bệnh nhân với mục đích quản lý, trong chỉ định 
sử dụng thuốc trên hiệu quả điều trị hen thông qua 
đánh giá bằng điểm ACT. Số bệnh nhân hen kiểm 
soát tốt chỉ chiếm 41.1%. Tương tự với bệnh nhân 
COPD, tỷ lệ bệnh nhân còn nhiều triệu chứng 
thông qua điểm CAT cho thấy số bệnh nhân còn 
nhiều triệu chứng chiếm tỷ lệ 51.1%. Trong 12 
tháng trước đó, bệnh nhân có nhiều đợt cấp quá 
3/4 số trường hợp có đánh giá. Cũng cần lưu ý 
rằng thông tin về đợt cấp của bệnh nhân trong 12 
 ĐỀ CƯƠNG NGhiêN Cứu
93
Hô hấp số 17/2018
tháng chỉ được lưu ý ghi nhận trên 47.0 % đối với 
COPD và 51.1% đối với tất cả bệnh nhân (bảng 
1, PT-1). 
Các hướng dẫn điều trị không sử dụng thuốc 
trên bệnh nhân nghiên cứu thể hiện ở tỷ lệ chỉ 
định tiêm vaccin chiếm tỷ lệ thấp, chỉ với 23.9% 
bệnh nhân chung và 28.7% với bệnh nhân COPD 
(bảng 1). Bệnh nhân COPD vẫn còn hút thuốc lá 
ở mức cao, 37.9% (bảng 3).
Các nghiên cứu về hiệu quả quản lý và điều 
trị hen, COPD ở Việt Nam theo phác đồ hướng 
dẫn có theo dõi trong 1 thời gian ngắn (thông 
thường là 12 tháng) đều cho thấy có hiệu quả rất 
tốt (3,4). Ở thời điểm năm 2012, một nghiên cứu 
theo dõi hiệu quả điều trị theo tài liệu hướng dẫn 
GINA và GOLD ở Cần Thơ cho thấy chỉ trong 3 
tháng điều trị và đánh giá, điểm ACT trung bình 
của bệnh nhân hen là 13.1±4.8 ở lần khám đầu 
tăng lên 23.4±1.3 ở lần khám thứ 3 (p<0.001) 
và điểm CAT trung bình của bệnh nhân COPD 
là 34.2±8.2 ở lần khám đầu giảm xuống còn 
15.3±3.7 ở lần khám thứ 3 (p<0.001)(5). Như vậy, 
cần phải nhìn nhận rằng với thời gian theo dõi 
và điều trị của bệnh nhân như trong nghiên cứu 
này, kết quả điều trị như trên là chưa tốt và đây 
là điều rất logic với những số liệu ghi nhận được 
từ PT-1 tới PT-2. 
KẾT LuẬN
Trên một quần thể bệnh nhân hen, COPD vừa có 
tính cộng đồng, vừa có tính chọn lọc cao từ các 
trung tâm y tế lớn ở Việt Nam, nghiên cứu đã cho 
thấy có nhiều điểm yếu trong kỹ năng thực hành, 
quản lý và điều trị đối với 2 bệnh lý này. Có thể 
hiểu đây là nguyên nhân dẫn đến hiệu quả điều trị 
còn thấp. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng đã bước 
đầu ghi nhận những thông tin hướng tới nhận 
dạng kiểu hình bệnh nhân hen và COPD. Đây mới 
chỉ là những thông tin đầu tiên về kiểu hình bệnh 
nhân ở Việt Nam và rất cần có các nghiên cứu 
được thiết kế chặt chẽ với mẫu lớn hơn để xác 
định trong thời gian tới. 
Tài liệu tham khảo
1. Karin M.M. Lemmens, Anna P. Nieboer, Robbert 
Huijsman. A systematic review of integrated use of 
diseasemanagement interventions in asthma and 
COPD. Respiratory Medicine (2009) 103, 670-691
2. L-P Boulet, J Bourbeau, R skomro, Gupta. Major care 
gaps in asthma, sleep and chronic obstructive pulmonary 
disease: A road map for knowledge translation. Can 
Respir J 2013;20(4):265-269.
3. Trần Thúy Hạnh, Nguyễn Văn Đoàn và cs. Dịch tễ học và 
tình hình kiểm soát hen phế quản ở người trưởng thành 
Việt Nam 2010 (on line: bachmai.edu.vn/).
4. Vinh Nhu Nguyen, Quynh Nhat Nguyen, Pham Le An, 
Niels H Chavannes. Implementation of GINA guidelines 
in asthma management by primary care physicians in 
Vietnam. International Journal of General Medicine 
2017:10 347–355
5. Nguyễn Văn Thành, Cao Thị Mỹ Thúy, Võ Phạm Minh 
Thư và cs. Xây dựng mô hình hệ thống quản lý và điều 
trị hiệu quả COPD và Hen phế quản trong bệnh viện và 
ở cộng đồng. NXB Y Học 2012.

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_nghien_cuu_thuc_trang_va_quan_ly_hen_copd_o_viet.pdf