Nghiên cứu một số yếu tố tiên lượng nặng ở bệnh nhân sốt xuất huyết dengue điều trị tại bệnh viện quân y 103 (từ tháng 6 đến 12 - 2017)

TÓM TẮT

Mục tiêu: tìm hiểu một số yếu tố tiên lượng nặng ở bệnh nhân sốt xuất huyết dengue. Đối tượng

và phương pháp: 1.685 bệnh nhân sốt xuất huyết dengue điều trị tại Khoa Truyền nhiễm, Bệnh viện

Quân y 103 từ tháng 06 đến 12 - 2017. Kết quả: tỷ lệ bệnh nhân ≥ 40 tuổi, nhập viện từ ngày thứ

4 trở đi ở nhóm sốt xuất huyết dengue nặng cao hơn so với nhóm không nặng (lần lượt 50,6%

và 68,2% so với 39,4% và 56,2%). Bệnh nhân có bệnh lý nền (đái tháo đường, tăng huyết áp, phụ

nữ có thai) diễn biến nặng hơn so với nhóm còn lại. Tỷ lệ bệnh nhân có dấu hiệu đau vùng gan và

xuất huyết nội tạng ở nhóm sốt xuất huyết dengue nặng cao hon so với nhóm không nặng (lần lượt

18,3%; 18,3% và 45,0% so với 6,5%; 2,6% và 0,07%). Bệnh nhân sốt xuất huyết dengue có tiểu

cầu < 50="" g/l="" hoặc="" hct=""> 0,48 L/l có nguy bị sốt xuất huyết dengue nặng cao hơn so với nhóm

không nặng (lần lượt 81,67% và 46,67% so với 56,98% và 30%). Tỷ lệ bệnh nhân sốt xuất

huyết dengue nặng có enzym gan AST hoặc ALT > 200 U/l cao hơn so với nhóm không nặng.

Kết luận: một số yếu tố tiên lượng nặng trong sốt xuất huyết dengue bao gồm: bệnh nhân ≥ 40

tuổi; nhập viện từ ngày thứ 4 trở đi; có bệnh lý nền đái tháo đường, tăng huyết áp cao và phụ nữ có

thai; có dấu hiệu đau vùng gan và gan to, xuất huyết nội tạng; tiểu cầu < 50="" g/l="" và="" hct=""> 0,48 L/l;

hoạt độ enzym gan AST và ALT > 200 U/l.

* Từ khóa: Sốt xuất huyết dengue; Các yếu tố tiên lượng

pdf 6 trang phuongnguyen 6280
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu một số yếu tố tiên lượng nặng ở bệnh nhân sốt xuất huyết dengue điều trị tại bệnh viện quân y 103 (từ tháng 6 đến 12 - 2017)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu một số yếu tố tiên lượng nặng ở bệnh nhân sốt xuất huyết dengue điều trị tại bệnh viện quân y 103 (từ tháng 6 đến 12 - 2017)

Nghiên cứu một số yếu tố tiên lượng nặng ở bệnh nhân sốt xuất huyết dengue điều trị tại bệnh viện quân y 103 (từ tháng 6 đến 12 - 2017)
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 8-2018 
 50 
NGHIÊN CỨU MỘT SỐ YẾU TỐ TIÊN LƯỢNG NẶNG Ở 
BỆNH NHÂN SỐT XUẤT HUYẾT DENGUE ĐIỀU TRỊ 
TẠI BỆNH VIỆN QUÂN Y 103 (TỪ THÁNG 6 ĐẾN 12 - 2017) 
 Trịnh Công Điển1; Đỗ Tuấn Anh1; Hoàng Tiến Tuyên1 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: tìm hiểu một số yếu tố tiên lượng nặng ở bệnh nhân sốt xuất huyết dengue. Đối tượng 
và phương pháp: 1.685 bệnh nhân sốt xuất huyết dengue điều trị tại Khoa Truyền nhiễm, Bệnh viện 
Quân y 103 từ tháng 06 đến 12 - 2017. Kết quả: tỷ lệ bệnh nhân ≥ 40 tuổi, nhập viện từ ngày thứ 
4 trở đi ở nhóm sốt xuất huyết dengue nặng cao hơn so với nhóm không nặng (lần lượt 50,6% 
và 68,2% so với 39,4% và 56,2%). Bệnh nhân có bệnh lý nền (đái tháo đường, tăng huyết áp, phụ 
nữ có thai) diễn biến nặng hơn so với nhóm còn lại. Tỷ lệ bệnh nhân có dấu hiệu đau vùng gan và 
xuất huyết nội tạng ở nhóm sốt xuất huyết dengue nặng cao hon so với nhóm không nặng (lần lượt 
18,3%; 18,3% và 45,0% so với 6,5%; 2,6% và 0,07%). Bệnh nhân sốt xuất huyết dengue có tiểu 
cầu 0,48 L/l có nguy bị sốt xuất huyết dengue nặng cao hơn so với nhóm 
không nặng (lần lượt 81,67% và 46,67% so với 56,98% và 30%). Tỷ lệ bệnh nhân sốt xuất 
huyết dengue nặng có enzym gan AST hoặc ALT > 200 U/l cao hơn so với nhóm không nặng. 
Kết luận: một số yếu tố tiên lượng nặng trong sốt xuất huyết dengue bao gồm: bệnh nhân ≥ 40 
tuổi; nhập viện từ ngày thứ 4 trở đi; có bệnh lý nền đái tháo đường, tăng huyết áp cao và phụ nữ có 
thai; có dấu hiệu đau vùng gan và gan to, xuất huyết nội tạng; tiểu cầu 0,48 L/l; 
hoạt độ enzym gan AST và ALT > 200 U/l. 
* Từ khóa: Sốt xuất huyết dengue; Các yếu tố tiên lượng. 
Study on some Prognostic Factors in Patients with Severe Dengue 
Hemorrhagic Fever Treated at 103 Military Hospital (from 6 to 12 - 2017) 
Summary 
Objectives: To study some prognostic factors in patients with dengue hemorrhagic fever. 
Subjects and methods: 1,685 patients with dengue hemorrhagic fever treated at 103 Military 
Hospital from 6 - 2017 to 12 - 2017. Results: The rate of severe dengue hemorrhagic fever 
patients with age ≥ 40 years old, hospitalized after onset 4 days were higher than non-severe 
group (50.6% and 68.2% vs. 39.4% and 56.2%, respectively). Patients with diabetes mellitus, 
hypertension, pregnant women were more severe dengue hemorrhagic fever than others. The 
propotion for severe dengue hemorrhagic fever patients with abdominal pain, liver enlargement 
and internal hemorrhage were higher than non-severe group (18.3%, 18.3% and 45.0% vs. 6.5%, 
2.6% and 0.07%, respectively). Patients with platelet 0.48 L/l had higher risk 
1. Bệnh viện Quân y 103 
Người phản hồi (Corresponding): Trịnh Công Điển (drdien.tc@gmail.com) 
Ngày nhận bài: 16/07/2018; Ngày phản biện đánh giá bài báo: 12/09/2018 
 Ngày bài báo được đăng: 21/09/2018 
t¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 8-2018 
 51 
severe dengue hemorrhagic fever than non-severe patients (81.67% and 46.67% vs. 56.98% 
and 30%, respectively). The rate of severe dengue hemorrhagic fever patients with AST or ALT 
> 200 U/l were higher than non-severe group. Conclusions: Some of the prognostic factors of 
severe dengue hemorrhagic fever included: Patients with aged ≥ 40 years old; hospitalization 
after onset 4 days; diabetes mellitus; high blood pressure, pregnant; abdominal pain, liver enlargement 
and internal hemorrhage; platelets 0.48 L/l and AST, ALT > 200 U/l. 
* Keywords: Dengue hemorrhagic fever; Prognostic factors. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Sốt xuất huyết dengue (SXHD) là bệnh 
truyền nhiễm cấp tính do virut dengue gây 
ra, bệnh lây truyền qua muỗi Aedes [2, 9]. 
Năm 2017, cả nước có tới 163.600 
trường hợp mắc với 30 trường hợp tử 
vong (tăng cao so với cùng kỳ năm 2016) 
[1]. SXHD chưa có biện pháp phòng bệnh 
đặc hiệu, đồng thời yếu tố nguy cơ dẫn 
tới diễn biến nặng ở một số trường hợp 
SXHD chưa có sự thống nhất. Do đó, 
chúng tôi tiến hành đề tài nhằm đóng góp 
thêm tư liệu cho quá trình thực hành 
lâm sàng. 
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU 
1. Đối tượng nghiên cứu. 
1.685 bệnh nhân (BN) SXHD điều trị 
tại Khoa Truyền nhiễm, Bệnh viện Quân y 103 
từ tháng 6 đến 12 - 2017. 
- BN được lựa chọn theo tiêu chuẩn của 
Bộ Y tế Việt Nam năm 2011 [2]: 
+ Sốt cấp diễn từ 2 - 7 ngày. 
+ Có biểu hiện xuất huyết. 
+ Kháng nguyên NS1 (+) hoặc kháng 
thể virut dengue phân lớp IgM (+). 
- Tiêu chuẩn loại trừ: 
+ BN ≤ 16 tuổi. 
+ BN có các bệnh lý liên quan tới tình 
trạng xuất huyết (viêm thành mạch dị ứng, 
xuất huyết do giảm tiểu cầu miễn dịch...). 
2. Phương pháp nghiên cứu. 
- Hồi cứu, mô tả ca bệnh chứng. 
- Khi nghiên cứu mối liên quan giữa 
yếu tố dịch tễ với mức độ bệnh SXHD, 
BN được chia thành 2 nhóm: 
+ Nhóm SXHD và SXHD có dấu hiệu 
cảnh báo (sau đây gọi tắt là nhóm không 
nặng): 1.600 BN. 
+ Nhóm SXHD nặng: 85 BN. 
- Khi nghiên cứu mối liên quan giữa 
yếu tố lâm sàng, cận lâm sàng với mức 
độ bệnh, loại trừ BN có bệnh lý nền và 
phụ nữ có thai để đảm bảo yếu tố khách 
quan. BN được chia thành 2 nhóm: 
+ Nhóm SXHD và SXHD có dấu hiệu 
cảnh báo: 1.360 BN. 
+ Nhóm SXHD nặng: 60 BN. 
- Các chỉ tiêu nghiên cứu: 
+ Tuổi, giới, ngày nhập viện, bệnh lý nền 
kèm theo của BN SXHD. 
+ Các triệu chứng lâm sàng, cận lâm sàng. 
* Xử lý số liệu: bằng phần mềm SPSS 
20.0. 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 8-2018 
 52 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
1. Mối liên quan giữa một số yếu tố dịch tễ với mức độ SXHD. 
Bảng 1: Mối liên quan giữa tuổi, giới, thời điểm nhập viện và bệnh lý nền với mức 
độ SXHD. 
SXHD và SXHD 
có DHCB (n = 1.600) 
SXHD nặng 
(n = 85) 
 Nhóm 
Chỉ tiêu nghiên cứu Số BN % Số BN % 
p 
< 40 tuổi 1.042 65,1 42 49,4 
Tuổi ≥ 40 tuổi 558 34,9 43 50,6 
< 0,05 
Nam 755 47,2 48 56,5 
Giới Nữ 845 52,8 37 43,5 
> 0,05 
Ngày 1 - 3 700 43,8 27 31,8 
Nhập viện 
Từ ngày 4 900 56,2 58 68,2 
< 0,05 
Đái tháo đường (ĐTĐ) 36 2,2 7 8,2 
Tăng huyết áp (THA) 68 4,2 10 11,8 
Phụ nữ có thai 76 9,0 6 16,2 
< 0,05 
Bệnh lý 
nền 
Viêm gan 60 3,8 2 2,4 > 0,05 
(DHCB: dấu hiệu cảnh báo) 
Tỷ lệ BN ≥ 40 tuổi, nhập viện từ ngày thứ 4 trở đi, có bệnh lý nền (đái tháo đường 
(ĐTĐ), tăng huyết áp (THA) và phụ nữ có thai) ở nhóm SXHD nặng cao hơn so với nhóm 
không nặng, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Trong khi đó, sự khác biệt về tỷ 
lệ nam/nữ, tình trạng có viêm gan giữa hai nhóm không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). 
2. Mối liên quan giữa một số yếu tố lâm sàng với mức độ SXHD. 
Bảng 2: Mối liên quan giữa triệu chứng tiêu hóa và xuất huyết với mức độ SXHD . 
SXHD và SXHD có DHCB 
(n = 1.360) SXHD nặng (n = 60) 
 Nhóm 
Triệu chứng Số BN % Số BN % 
p 
Nôn 306 22,5 15 25,0 > 0,05 
Đau vùng gan 89 6,5 11 18,3 < 0,05 
Gan to 36 2,6 11 18,3 < 0,001 
Tiêu hóa 
Tiêu chảy 56 4,1 3 5,0 > 0,05 
Xuất huyết niêm mạc 476 35,00 29 48,3 > 0,05 
Xuất huyết 
Xuất huyết nội tạng 1 0,07 27 45,0 < 0,001 
(DHCB: dấu hiệu cảnh báo) 
t¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 8-2018 
 53 
Tỷ lệ BN có dấu hiệu đau vùng gan; gan to và xuất huyết nội tạng ở nhóm SXHD nặng 
cao hơn so với nhóm không nặng có ý nghĩa thống kê với p lần lượt < 0,05 và < 0,001. 
Trong khi đó, sự khác biệt về dấu hiệu nôn, tiêu chảy và xuất huyết niêm mạc giữa hai 
nhóm không có ý nghĩa thống kê. 
3. Mối liên quan giữa một số yếu tố cận lâm sàng với mức độ SXHD. 
Bảng 3: Mối liên quan giữa tiểu cầu, hematocrit và hoạt độ enzym gan với mức độ SXHD. 
Nhóm 
Cận lâm sàng 
SXHD và SXHD 
có DHCB (n = 1.360) 
SXHD nặng 
(n = 60) p 
< 50 775 (56,98%) 49 (81,67%) 
Tiểu cầu (G/l) 
≥ 50 585 (43,02%) 11 (18,33%) 
> 0,48 408 (30,00%) 28 (46,67%) 
Huyết học 
Hematocrit (L/l) 
≤ 0,48 952 (70,00%) 32 (53,33%) 
≤ 200 1.332 (97,94%) 29 (48,33%) 
AST (U/l) 
> 200 28 (2,06%) 31 (51,67%) 
≤ 200 1.335 (98,16%) 39 (65,0%) 
Enzym gan 
ALT (U/l) 
> 200 25 (1,84%) 21 (35,0%) 
< 0,001 
(DHCB: dấu hiệu cảnh báo) 
BN SXHD có tiểu cầu 0,48 L/l, hoạt độ enzym gan AST và ALT > 
200 U/l ở nhóm SXHD nặng cao hơn so với nhóm không nặng (p < 0,001). 
BÀN LUẬN 
Nghiên cứu của Bùi Đại, mức độ bệnh 
SXHD giảm dần khi tuổi càng cao do đáp 
ứng miễn dịch được củng cố dần, miễn 
dịch bảo vệ tăng theo thời gian tái nhiễm 
[3]. Tuy nhiên, một vài nghiên cứu gần 
đây cho thấy nhóm BN lớn tuổi có xu 
hướng mắc SXHD tăng và tỷ lệ SXHD 
nặng cũng cao hơn. Trong nghiên cứu 
của chúng tôi, tỷ lệ BN ≥ 40 tuổi ở nhóm 
SXHD nặng cao hơn so với nhóm không 
nặng. Vấn đề này chưa thống nhất và cần 
được nghiên cứu sâu hơn. 
Tỷ lệ BN bị SXHD nặng nhập viện từ 
ngày thứ 4 trở đi cao hơn so với nhóm 
không nặng. Điều này có nghĩa BN sớm 
tiếp cận với các dịch vụ y tế sẽ tránh được 
diễn biến nặng của bệnh. Do vậy, công tác 
tuyên truyền phổ biến hết sức quan trọng để 
tránh trường hợp bệnh nặng mới nhập viện, 
khi đó khả năng cứu chữa sẽ khó khăn. 
Tỷ lệ BN bị SXHD nặng ở nhóm có bệnh 
lý nền ĐTĐ, THA hoặc phụ nữ có thai cao 
hơn nhóm không nặng. Nghiên cứu của 
chúng tôi tương tự với một số tác giả: 
Karunakaran A: yếu tố nguy cơ của SXHD 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 8-2018 
 54 
nặng bao gồm các BN có bệnh lý nền như 
ĐTĐ (OR = 8,5; 95%Cl: 2,47 - 273,674) 
và THA (OR = 44; 95%Cl: 6,23 - 315,499) 
[7]; theo Ruth P Senthiappan: một số 
bệnh lý nền góp phần làm tăng tỷ lệ BN bị 
SXHD nặng bao gồm THA, ĐTĐ, suy thận 
và lạm dụng rượu [8]. Do vậy, trong thực 
hành lâm sàng cần đặc biệt quan tâm tới 
BN SXHD có bệnh lý nền như THA, ĐTĐ 
và cả BN nữ đang mang thai để có các 
biện pháp điều trị hợp lý (cả bệnh SXHD 
và bệnh lý nền), tránh những trường hợp 
diễn biến nặng. 
Tỷ lệ BN SXHD nặng ở nhóm có dấu 
hiệu đau vùng gan, gan to cao hơn so với 
nhóm không nặng. Theo hướng dẫn của 
WHO, đau bụng là một dấu hiệu của tiền 
sốc [9]. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi 
tương đồng với các tác giả: Vương Thị 
Thúy Hoài gặp đau bụng ở nhóm SXDH 
nặng nhiều hơn nhóm không nặng (81,3% 
và 37%) [4]; Tống Viết Thắng: gan to 
chiếm 100% ở nhóm SXHD nặng so với 
49% ở nhóm SXHD [6]. 
Tỷ lệ BN xuất huyết nội tạng ở nhóm 
SXHD nặng cao hơn so với nhóm không 
nặng. Trong khi đó, BN xuất huyết niêm 
mạc có sự khác biệt không có ý nghĩa 
thống kê. Kết quả này tương đồng với 
một số nghiên cứu khác: Lê Văn Nam gặp 
xuất huyết nội tạng ở nhóm BN SXHD nặng 
là 31,6%, trong khi đó ở nhóm SXHD là 
0,7% [5]; Wiwanitkit S báo cáo xuất huyết 
xảy ra sớm từ ngày thứ hai của bệnh có 
thể là dấu hiệu báo trước của diễn biến 
SXHD nặng [10]. Vì vậy, trong thực hành 
lâm sàng cần đặc biệt lưu tâm đến vấn 
đề này. 
Kết quả nghiên cứu cho thấy BN 
SXHD có tiểu cầu 0,48 L/l 
có nguy cơ bị SXHD nặng cao hơn so với 
nhóm BN còn lại. Kết quả của chúng tôi 
tương đồng với nghiên cứu của Tống Viết 
Thắng: tiểu cầu trung bình ở nhóm SXHD 
nặng (18,48 ± 20,84 G/l) thấp hơn có ý 
nghĩa thống kê so với nhóm SXHD (56,89 
± 34,83 G/l). Giá trị HCT ≥ 48 L/l ở nhóm 
SXHD nặng 68,4%, ở nhóm SXHD chỉ là 
8,2% [6]. Vương Thị Thúy Hoài cũng nhận 
thấy tiểu cầu giảm và HCT tăng > 48% là 
yếu tố có giá trị dự báo SXHD nặng trên 
đối tượng là trẻ em [4]. 
Ở nhóm BN có giá trị enzym gan AST 
và ALT > 200 U/l bị SXHD nặng cao hơn 
có ý nghĩa thống kê so với nhóm không 
nặng. Tống Viết Thắng nhận thấy hoạt độ 
enzym SGOT tăng ở nhóm SXHD nặng 
(84,2%) cao hơn so với nhóm SXHD 
(10,9%), hoạt độ enzym SGPT tăng ở 
nhóm SXHD nặng cũng cao hơn so với 
nhóm SXHD có ý nghĩa thống kê (73,3% 
so với 6,8%) [6]. Lê Văn Nam nhận thấy 
hoạt độ enzym SGOT tăng ở nhóm SXHD 
nặng (84,2%) cao hơn so với nhóm SXHD 
(19,9%), hoạt độ enzym SGPT tăng ở 
nhóm SXHD nặng (73,3%) cao hơn với 
nhóm SXHD (6,8%) và đều có ý nghĩa 
thống kê (p < 0,001) [5]. 
KẾT LUẬN 
Qua nghiên cứu 1.685 BN SXHD điều 
trị tại Khoa Truyền nhiễm, Bệnh viện 
Quân y 103 trong 6 tháng cuối năm 2017, 
chúng tôi nhận thấy những yếu tố tiên 
lượng nặng trong bệnh SXHD là: 
t¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 8-2018 
 55 
- Về yếu tố dịch tễ: BN ≥ 40 tuổi, nhập 
viện từ ngày thứ 4 trở đi và có bệnh lý nền 
(ĐTĐ, THA và phụ nữ có thai). 
- Về yếu tố lâm sàng: BN có dấu hiệu đau 
vùng gan, gan to và xuất huyết nội tạng. 
- Về yếu tố cận lâm sàng: BN SXHD có 
tiểu cầu 0,48 L/l, hoạt độ 
enzym gan AST và ALT > 200 U/l. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Cục Y tế Dự phòng, Bộ Y tế. Báo cáo 
tình hình dịch bệnh và các hoạt động phòng 
chống tuần 52 năm 2017. Số 06/BC-DP. 2018. 
2. Bộ Y tế. Hướng dẫn chẩn đoán, điều trị 
sốt xuất huyết dengue. 458/QĐ-BYT. 2011. 
3. Bùi Đại. Dengue xuất huyết. Nhà xuất 
bản Y học. Hà Nội. 2013. 
4. Vương Thị Thúy Hoài. Nghiên cứu đặc 
điểm lâm sàng, cận lâm sàng và một số yếu 
tố tiên lượng nặng ở trẻ em sốt xuất huyết 
dengue điều trị tại Bệnh viện Quân y 103 
và Bệnh viện Bệnh nhiệt đới Trung ương 
(01/2015 - 3/2017). Luận văn Bác sỹ Chuyên 
khoa Cấp 2. Học viện Quân y. 2017. 
5. Lê Văn Nam. Nghiên cứu một số yếu tố 
tiên lượng nặng ở BN sốt xuất huyết dengue 
điều trị tại Khoa Truyền nhiễm, Bệnh viện 
Quân y 103 (năm 2011 - 2012). Tạp chí Y học 
Thực hành. 2014, 914 (4), tr.29-32. 
6. Tống Viết Thắng. Nghiên cứu một số 
đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và yếu tố 
tiên lượng nặng ở BN sốt xuất huyết dengue 
điều trị tại Khoa Truyền nhiễm, Bệnh viện 
Quân y 103. Luận văn Bác sỹ Chuyên khoa 
Cấp 2. Học viện Quân y. 2013. 
7. Karunakaran A, Ilyas W.M, Sheen S.F et 
al. Risk factors of mortality among dengue 
patients admitted to a tertiary care setting in 
Kerala, India. J Infect Public Health. 2017, 7 (2), 
pp.114-120. 
8. Ruth P.S, Smitha B. Factors that affect 
the severity of dengue. IOSR Journal of Dental 
and Medical Sciences. 2016, 15, pp.63-65. 
9. WHO. Dengue: Guidelines for diagnosis, 
treatment, prevention and control: New edition. 
Geneva. 2009. 
10. Wiwanitkit S, Wiwanitkit V. Excessive 
menstruation bleeding as a presentation of 
dengue hemorrhagic fever. Arch Gynecol 
Obstet. 2013, 287 (6), p.1271. 

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_mot_so_yeu_to_tien_luong_nang_o_benh_nhan_sot_xua.pdf