Nghiên cứu mối liên quan giữa alpha-Synuclein, beta amyloid 1-42, protein tau toàn phần, protein tau phosphoryl hóa tại Thr181 trong dịch não tủy với một số đặc điểm lâm sàng ở bệnh nhân Parkinson

Mục tiêu: Định lượng nồng độ alpha-synuclein (α-syn), beta amyloid 1-42 (Aβ42), protein

tau toàn phần (t-tau) và protein tau phosphoryl hóa tại Thr181 (p-tau) và đánh giá mối liên quan

giữa các dấu ấn sinh học này với một số đặc điểm lâm sàng ở bệnh nhân (BN) Parkinson.

Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang có đối chứng 152 BN gồm 108 BN

Parkinson và 44 BN nhóm chứng tại Khoa Nội Thần kinh, Bệnh viện Quân y 103 từ tháng

9/2017 - 5/2019. Kết quả: Không có sự khác biệt về α-syn, t-tau và p-tau dịch não tủy (DNT)

giữa 2 nhóm. Nồng độ Aβ42 giảm có ý nghĩa thống kê ở nhóm BN Parkinson. Aβ42 và α-syn

giảm có ý nghĩa thống kê ở nhóm BN Parkinson có sa sút trí tuệ so với nhóm BN còn lại. Sau

khi hiệu chỉnh tuổi, α-syn có tương quan thuận với các dấu ấn sinh học còn lại; Aβ42 và α-syn

có mối tương quan thuận với điểm MOCA. Kết luận: Sự tương tác và lắng đọng của α-syn với

Aβ42, t-tau và p-tau đóng vai trò trung tâm trong bệnh sinh bệnh Parkinson. Chức năng nhận

thức giảm khi sự lắng đọng Aβ42 tiến triển.

pdf 9 trang phuongnguyen 120
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu mối liên quan giữa alpha-Synuclein, beta amyloid 1-42, protein tau toàn phần, protein tau phosphoryl hóa tại Thr181 trong dịch não tủy với một số đặc điểm lâm sàng ở bệnh nhân Parkinson", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu mối liên quan giữa alpha-Synuclein, beta amyloid 1-42, protein tau toàn phần, protein tau phosphoryl hóa tại Thr181 trong dịch não tủy với một số đặc điểm lâm sàng ở bệnh nhân Parkinson

Nghiên cứu mối liên quan giữa alpha-Synuclein, beta amyloid 1-42, protein tau toàn phần, protein tau phosphoryl hóa tại Thr181 trong dịch não tủy với một số đặc điểm lâm sàng ở bệnh nhân Parkinson
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 2-2020 - chuyªn ®Ò thÇn kinh häc 
 12 
NGHIÊN CỨU MỐI LIÊN QUAN GIỮA ALPHA-SYNUCLEIN, 
BETA AMYLOID 1-42, PROTEIN TAU TOÀN PHẦN, 
PROTEIN TAU PHOSPHORYL HÓA TẠI THR181 TRONG 
DỊCH NÃO TỦY VỚI MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG 
Ở BỆNH NHÂN PARKINSON 
Trần Thị Ngọc Trường1, Phan Việt Nga1 
 Nguyễn Giang Nam1, Hồ Anh Sơn2 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Định lượng nồng độ alpha-synuclein (α-syn), beta amyloid 1-42 (Aβ42), protein 
tau toàn phần (t-tau) và protein tau phosphoryl hóa tại Thr181 (p-tau) và đánh giá mối liên quan 
giữa các dấu ấn sinh học này với một số đặc điểm lâm sàng ở bệnh nhân (BN) Parkinson. 
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang có đối chứng 152 BN gồm 108 BN 
Parkinson và 44 BN nhóm chứng tại Khoa Nội Thần kinh, Bệnh viện Quân y 103 từ tháng 
9/2017 - 5/2019. Kết quả: Không có sự khác biệt về α-syn, t-tau và p-tau dịch não tủy (DNT) 
giữa 2 nhóm. Nồng độ Aβ42 giảm có ý nghĩa thống kê ở nhóm BN Parkinson. Aβ42 và α-syn 
giảm có ý nghĩa thống kê ở nhóm BN Parkinson có sa sút trí tuệ so với nhóm BN còn lại. Sau 
khi hiệu chỉnh tuổi, α-syn có tương quan thuận với các dấu ấn sinh học còn lại; Aβ42 và α-syn 
có mối tương quan thuận với điểm MOCA. Kết luận: Sự tương tác và lắng đọng của α-syn với 
Aβ42, t-tau và p-tau đóng vai trò trung tâm trong bệnh sinh bệnh Parkinson. Chức năng nhận 
thức giảm khi sự lắng đọng Aβ42 tiến triển. 
 * Từ khóa: Bệnh Parkinson; Dấu ấn sinh học dịch não tủy. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Bệnh Parkinson là bệnh lý thoái hóa 
thần kinh thường gặp, đứng thứ hai sau 
bệnh Alzheimer, với tỷ lệ hiện mắc từ 
0,25 - 4% ở độ tuổi 65 - 80 [1]. Bản chất 
giải phẫu bệnh não bộ trong bệnh 
Parkinson là các thể Lewy và tơ Lewy nội 
bào chứa các α-syn lắng đọng ở các tế 
bào thần kinh liềm đen và thể vân ở não 
giữa. Cơ chế bệnh sinh của thoái hóa 
thần kinh trong bệnh Parkinson vẫn chưa 
được thể hiện rõ và chưa có phương 
pháp điều trị làm chậm quá trình thoái 
hóa này. Chẩn đoán sớm bệnh Parkinson 
bằng việc sử dụng dấu ấn sinh học là 
quan trọng vì cho phép can thiệp điều trị 
bệnh sớm cũng như cung cấp kiến thức 
về nền tảng sinh lý bệnh của bệnh đó. 
1. Bệnh viện Quân y 103 
2. Học viện Quân y 
Người phản hồi (Corresponding author): Trần Thị Ngọc Trường 
([email protected]) 
Ngày nhận bài: 14/02/2020; Ngày phản biện đánh giá bài báo: 20/02/2020 
 Ngày bài báo được đăng: 15/03/2020 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 2-2020 - chuyªn ®Ò thÇn kinh häc 
 13 
Các dấu ấn sinh học tiềm năng bao 
gồm chẩn đoán hình ảnh, cấu trúc hoặc 
chức năng, dấu ấn về gen, máu hoặc 
DNT. Các thay đổi về hình ảnh thường 
không được nhận thấy cho đến giai đoạn 
muộn của quá trình bệnh; do đó, DNT có 
thể là một lựa chọn thay thế phù hợp 
hơn. Hệ thần kinh trung ương được nuôi 
dưỡng, đệm đỡ bởi môi trường DNT. Vì 
vậy, DNT có thể phản ánh giải phẫu bệnh 
của não và các hệ thống chuyển hóa não 
chính xác hơn huyết thanh hoặc huyết 
tương, mặc dù các protein trong DNT 
được tạo ra từ máu và mô não [2]. 
Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu 
đi sâu phân tích các dấu ấn sinh học có 
liên quan đến sinh lý bệnh của bệnh 
Parkinson: α-syn, beta amyloid, tau protein. 
Tại Việt Nam, hiện chưa có nghiên cứu 
nào về vấn đề này được công bố. Chính 
vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề 
tài này nhằm: Định lượng nồng độ α-syn, 
Aβ42, t-tau, p-tau và đánh giá mối liên 
quan giữa các dấu ấn sinh học này với 
một số đặc điểm lâm sàng ở BN Parkinson. 
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU 
1. Đối tượng nghiên cứu 
- Gồm hai nhóm: 
+ Nhóm bệnh: 108 BN được chẩn 
đoán xác định bệnh Parkinson theo tiêu 
chuẩn của Ngân hàng Não thuộc Hội 
bệnh Parkinson Vương quốc Anh. 
+ Nhóm chứng: 44 BN không mắc 
các bệnh thoái hóa thần kinh (bệnh 
Parkinson, bệnh sa sút trí tuệ, teo đa hệ 
thống, liệt trên nhân tiến triển, thoái hóa 
hạch nền, sa sút trí tuệ thể Lewy), cũng 
như không mắc các hội chứng Parkinson 
khác (hội chứng Parkinson do dùng 
thuốc hướng thần, hội chứng Parkinson 
căn nguyên mạch máu). Đây là những 
BN mắc các bệnh lý thần kinh ngoại vi, 
không có triệu chứng suy giảm nhận thức, 
đặc điểm về tuổi, giới cũng như trình độ 
văn hóa tương tự nhóm bệnh. Những BN 
này được làm thủ thuật chọc ống sống 
thắt lưng, xét nghiệm DNT để chẩn đoán 
bệnh. 
- Các đối tượng đều được điều trị tại 
Khoa Nội Thần kinh, Bệnh viện Quân y 103 
từ tháng 9/2017 - 5/2019. 
- BN đều biết đọc, biết viết và đồng ý 
tham gia nghiên cứu. 
2. Phương pháp nghiên cứu 
- Nghiên cứu tiến cứu, mô tả, cắt ngang, 
có đối chứng. 
- BN được hỏi bệnh, thăm khám tỉ mỉ, 
thu thập thông tin: tuổi, giới, trình độ văn 
hóa, nghề nghiệp, tiền sử, bệnh lý khác 
kèm theo. 
- Đánh giá rối loạn vận động theo 
thang điểm thống nhất đánh giá bệnh 
Parkinson phần III (Unified Parkinson’s 
Disease Rating Scale - UPDRS). 
- Đánh giá mức độ nặng rối loạn vận 
động theo Martinez Martin [3], cụ thể: 
nhẹ: ≤ 32 điểm; trung bình: 33 - 58 điểm; 
nặng: ≥ 59 điểm. 
- Đánh giá giai đoạn bệnh: 5 giai đoạn 
theo Hoehn và Yahr (1967). 
- Đánh giá chức năng nhận thức theo 
thang điểm Montreal (Montreal Cognitive 
Assessment - MOCA): 
+ BN Parkinson có sa sút trí tuệ 
(Parkinson’s disease dementia - PDD) 
mức độ I [4]: chẩn đoán xác định bệnh 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 2-2020 - chuyªn ®Ò thÇn kinh häc 
 14 
Parkinson dựa theo tiêu chuẩn của Ngân 
hàng Não thuộc Hội bệnh Parkinson 
Vương quốc Anh, bệnh Parkinson xuất 
hiện trước khi có triệu chứng suy giảm 
nhận thức ít nhất 1 năm, MOCA < 21, suy 
giảm nhận thức đủ nặng làm ảnh hưởng 
đến cuộc sống hàng ngày của BN (xã hội, 
nghề nghiệp hoặc chăm sóc bản thân, 
được khai thác qua người chăm sóc). 
+ BN Parkinson có suy giảm nhận thức 
nhẹ (Parkinson’s disease - Mild cognitive 
impairment - PDMCI) [4]: 21 ≤ MOCA < 26. 
* Xét nghiệm định lượng nồng độ 
Aβ42, t-tau, p-tau và α-syn trong DNT ở 
nhóm bệnh và nhóm chứng: 
- Tiến hành chọc ống sống thắt lưng 
theo quy trình chuẩn: 
+ Lấy 2ml DNT vào ống polypropylene, 
làm xét nghiệm đếm tế bào và định lượng 
protein DNT tại Khoa Huyết học - Truyền 
máu và Khoa Sinh hóa. 
+ Lấy 5ml DNT vào các ống 
polypropylene được làm lạnh từ trước, 
chuyển ngay các mẫu này bằng đá khô 
đến Khoa Huyết học - Truyền máu. Các 
mẫu DNT này ngay lập tức được ly tâm 
với tốc độ 2.000 vòng ở nhiệt độ 4oC 
trong 10 phút để loại bỏ tế bào. Sau khi ly 
tâm, gạn phần DNT nổi bên trên cho vào 
các ống polypropylene nhỏ, mỗi ống chứa 
0,5ml DNT đã được ly tâm (aliquots). Sau 
đó bảo quản ngay các aliquots này ở -
80oC tại Khoa Huyết học - Truyền máu, 
chờ phân tích định lượng các dấu ấn sinh 
học khi đủ số lượng mẫu. 
* Quy trình định lượng các dấu ấn sinh 
học trong DNT: 
Các dấu ấn sinh học trong DNT được 
định lượng bằng EMD Millipore’s 
MILLIPLEX® MAP (Hoa Kỳ) tại Khoa 
Sinh lý bệnh với hai bộ kít: MILLIPLEX® 
MAP HUMAN NEUROSCIENCE 
MAGNETIC BEAD PANEL 1 96-Well 
Plate Assay # HNS1MAG-95K (Hoa Kỳ) 
để định lượng α-syn và MILLIPLEX® 
MAP HUMAN AMYLOID BETA AND TAU 
MAGNETIC BEAD PANEL 96-Well Plate 
Assay # HNABTMAG-68K (Hoa Kỳ) để 
định lượng Aβ42, t-tau, p-tau DNT. 
* Xử lý số liệu: Bằng phần mềm SPSS 
22.0. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Bảng 1: Phân bố tuổi, giới và trình độ học vấn (số năm học trung bình) của hai 
nhóm nghiên cứu. 
Giới (n, %) 
Nhóm nghiên cứu 
Tuổi (năm) 
( ± SD) Nam Nữ 
Số năm học 
 ( ± SD) 
Nhóm bệnh (n = 108) 63,36 ± 9,27 34 (31,48) 74 (68,52) 8,95 ± 4,08 
Nhóm chứng (n = 44) 61,5 ± 8,35 18 (40,91) 26 (59,09) 8,57 ± 3,43 
 p = 0,23 χ2 = 1,235; p = 0,267 p = 0,58 
Kết quả cho thấy khác biệt không có ý nghĩa thống kê về tuổi, giới cũng như số năm 
học trung bình giữa nhóm bệnh và nhóm chứng (p > 0,05). 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 2-2020 - chuyªn ®Ò thÇn kinh häc 
 15 
Bảng 2: Nồng độ các dấu ấn sinh học trong DNT của hai nhóm nghiên cứu. 
Nồng độ (pg/ml) 
Nhóm bệnh 
n (trung vị) 
( ± SD) 
Nhóm chứng 
n (trung vị) 
( ± SD) 
p 
 α-syn 
84 (992,94) 
1.137,80 ± 738,02 
33 (1.045) 
1.021,64 ± 480,89 
0,804* 
 Aβ42 
108 (512,10) 
534,66 ± 234,82 
44 (643,86) 
680,50 ± 249,07 
0,001 
 t-tau 
106 (144,6) 
150,95 ± 72,86 
43 (162,10) 
172,27 ± 73,09 
0,108 
p-tau 
107 (38,18) 
41,95 ± 21,35 
44 (38,90) 
40,55 ± 11,26 
0,41* 
p-tau/Aβ42 
107 (0,073) 
0,093 ± 0,081 
44 (0,061) 
0,067 ± 0,038 
0,001* 
(*: test Mann-Whitney) 
Sau khi định lượng các dấu ấn sinh 
học trong DNT trên hệ thống máy 
Luminex, với α-syn có 24 mẫu của nhóm 
bệnh và 11 mẫu của nhóm chứng thấp 
hơn giá trị ngưỡng phát hiện, vì vậy 
chúng tôi chỉ phân tích trên 84 mẫu bệnh 
và 33 mẫu chứng. Với Aβ42, tất cả các 
mẫu đều nằm trong ngưỡng phát hiện, vì 
vậy chúng tôi phân tích đầy đủ trên 108 
mẫu bệnh và 44 mẫu chứng. Với t-tau, có 
2 mẫu của nhóm bệnh và 1 mẫu của 
nhóm chứng thấp hơn giá trị ngưỡng phát 
hiện, vì vậy chúng tôi phân tích trên 106 
mẫu bệnh và 43 mẫu chứng. Với p-tau, 
chỉ có 1 mẫu bệnh dưới ngưỡng phát 
hiện, vì vậy chúng tôi phân tích trên 107 
mẫu bệnh và 44 mẫu chứng. 
Kết quả cho thấy khác biệt không có ý 
nghĩa thống kê về nồng độ α-syn, t-tau và 
p-tau trong DNT giữa 2 nhóm. Nồng độ 
Aβ42 DNT ở nhóm bệnh giảm thấp hơn 
có ý nghĩa thống kê so với nhóm chứng 
(p = 0,001). Tỷ số p-tau/Aβ42 ở nhóm bệnh 
tăng cao hơn có ý nghĩa thống kê so với 
nhóm chứng (p = 0,001), các tỷ số còn lại 
(t-tau/α-syn; p-tau/α-syn; t-tau/Aβ42; p-
tau/t-tau) khác biệt không có ý nghĩa 
thống kê giữa 2 nhóm (p > 0,05). 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 2-2020 - chuyªn ®Ò thÇn kinh häc 
 16 
Bảng 3: Nồng độ các dấu ấn sinh học trong DNT của BN Parkinson theo mức độ 
nặng của rối loạn vận động. 
Nồng độ (pg/ml) 
Mức độ nhẹ 
n (trung vị) 
( ± SD) 
Mức độ trung bình, nặng 
n (trung vị) 
( ± SD) 
p 
α-syn 
28 (1277) 
1.200,13 ± 617,34 
56 (883,42) 
1.106,64 ± 794,93 
0,233* 
Aβ42 
33 (883,42) 
585,45 ± 237,85 
75 (477,52) 
512,32 ± 231,54 
0,137 
t-tau 
32 (177,63) 
174,45 ± 86,06 
74 (131,23) 
140,78 ± 64,36 
0,028 
p-tau 
33 (41,28) 
49,25 ± 26,75 
74 (35,07) 
38,69 ± 17,70 
0,012* 
(*: test Mann-Whitney) 
Nồng độ t-tau và p-tau trong DNT ở BN Parkinson có mức độ rối loạn vận động 
trung bình và nặng giảm thấp hơn ở BN có mức độ rối loạn vận động nhẹ (p < 0,05). 
Nồng độ các chất còn lại trong DNT cũng như tỷ số tạo ra từ các nồng độ này không 
có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai nhóm (p > 0,05). 
Bảng 4: Các dấu ấn sinh học ở hai nhóm BN Parkinson theo giai đoạn Hoehn và Yahr. 
Nồng độ (pg/ml) 
Giai đoạn 1, 2 
n (trung vị) 
( ± SD) 
Giai đoạn 3, 4, 5 
n (trung vị) 
( ± SD) 
p 
α-syn 
50 (1104) 
1.166,15 ± 722,82 
34 (950,32) 
1.096,11 ± 768,87 
0,49* 
Aβ42 
60 (539,97) 
539,97 ± 226,26 
48 (451,99) 
479,91 ± 236,14 
0,03 
t-tau 
59 (170,76) 
162,78 ± 76,53 
47 (123,74) 
136,09 ± 65,87 
0,061 
p-tau 
60 (39,62) 
45,78 ± 24,84 
47 (33,94) 
37,05 ± 14,67 
0,027* 
(*: test Mann-Whitney) 
Nồng độ Aβ42 và p-tau trong DNT ở giai đoạn 3, 4, 5 đều giảm thấp hơn ở giai 
đoạn 1, 2 (p < 0,05). 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 2-2020 - chuyªn ®Ò thÇn kinh häc 
 17 
Bảng 5: Các dấu ấn sinh học ở BN Parkinson có sa sút trí tuệ và không sa sút trí tuệ. 
Nồng độ (pg/ml) 
BN không sa sút trí tuệ 
n (trung vị) 
( ± SD) 
BN có sa sút trí tuệ 
n (trung vị) 
( ± SD) 
p 
α-syn 
55 (1.113) 
1.287,30 ± 828,04 
29 (741,1) 
854,27 ± 406,34 
0,012* 
Aβ42 
65 (567,12) 
595,72 ± 239,38 
43 (388,68) 
442,36 ± 196,65 
< 0,0001* 
t-tau 
64 (165,38) 
161,72 ± 79,91 
42 (135,34) 
134,53 ± 57,65 
0,045 
p-tau 65 (39,56) 
44,20 ± 22,50 
42 (33,94) 
38,45 ± 19,10 
0,094* 
p-tau/Aβ42 65 (0,066) 42 (0,082) 0,002* 
(*: test Mann-Whitney) 
Nồng độ α-syn, Aβ42 và t-tau DNT ở BN có sa sút trí tuệ đều giảm thấp hơn so với 
BN không có sa sút trí tuệ (p < 0,05). Tỷ số p-tau/Aβ42 ở BN có sa sút trí tuệ cao hơn 
ở BN không có sa sút trí tuệ (p = 0,002). 
Bảng 6: Tương quan giữa nồng độ các dấu ấn sinh học trong DNT với điểm 
UPDRS và điểm MOCA. 
UPDRS MOCA 
r p r p 
α-syn (n = 84) 0,11 0,92 0,24 0,037 
Aβ42 (n = 108) -0,31 0,002 0,33 0,001 
t-tau (n = 106) -0,21 0,035 0,12 0,24 
p-tau (n =1 07) -0,19 0,067 0,10 0,351 
Nồng độ α-syn và Aβ42 trong DNT của BN Parkinson có tương quan thuận với 
điểm MOCA (r = 0,24; p = 0,037 và r = 0,33; p = 0,001). Nồng độ Aβ42 và t-tau 
trong DNT có tương quan nghịch với điểm UPDRS (r = -0,31; p = 0,002 và r = -0,21; 
p = 0,035). 
Phân tích mối tương quan của các dấu ấn sinh học có thể thấy, α-syn có tương 
quan với Aβ42, t-tau và p-tau (r = 0,322, p < 0,003; r = 0,453, p < 0,001; r = 0,369, 
p = 0,001). 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 2-2020 - chuyªn ®Ò thÇn kinh häc 
 18 
BÀN LUẬN 
Αlpha-synuclein trong DNT có thể định 
lượng bằng các phương pháp miễn dịch 
như ELISA, Luminex. Kết quả so sánh 
định lượng α-syn toàn phần trong DNT ở 
các labo khác nhau cho thấy có sự đồng 
thuận và tương quan khá cao với nhau. 
Các kết quả này hỗ trợ xác định giá trị 
của phương pháp miễn dịch để định 
lượng α-syn trong DNT [5]. Một số phân 
tích khác chỉ ra α-syn toàn phần trong 
DNT ở BN Parkinson thấp hơn so với 
nhóm chứng khỏe mạnh hoặc BN mắc 
bệnh lý thần kinh khác [5]. Tuy nhiên, 
trong nghiên cứu này, nồng độ α-syn toàn 
phần trong DNT ở BN Parkinson không 
khác biệt so với nhóm chứng, kết quả này 
phù hợp với nhiều nghiên cứu khác [6, 7]. 
α-syn toàn phần trong DNT có giá trị dao 
động khá lớn giữa các nghiên cứu, có thể 
do sự đa dạng của BN Parkinson. Thêm 
vào đó, quy trình xét nghiệm khác nhau 
và cách dùng các phương pháp miễn dịch 
khác nhau có thể làm hạn chế sự so sánh 
giữa các nghiên cứu [5]. Nồng độ α-syn 
toàn phần trong DNT có thể được xem 
như một dấu ấn của nhóm bệnh lý 
synucleinopathy khi nồng độ này giảm, 
cũng như là một dấu ấn không đặc hiệu 
của sự hủy hoại synap khi nồng độ này 
tăng. Nhiều nghiên cứu chỉ ra BN Parkinson 
có nồng độ α-syn toàn phần trong DNT 
cao hơn (nghĩa là quá trình thoái hóa thần 
kinh đang tiến triển) có thể có triệu chứng 
vận động nhanh hơn BN có nồng độ chất 
này trong DNT thấp. Sự thay đổi song 
song theo hai hướng của nồng độ chất 
này có thể làm tăng sự phức tạp trong 
việc phiên giải kết quả nồng độ α-syn 
toàn phần trong DNT. BN Parkinson có 
quá trình diễn biến bệnh nhanh có thể có 
nồng độ α-syn toàn phần trong DNT 
tương tự với nhóm chứng khỏe mạnh, do 
hệ quả của sự giảm nồng độ (tạo mảng 
α-syn do kết tụ) được cân bằng bởi sự 
tăng giải phóng (do thoái hóa thần kinh). 
Protein Aβ là thành phần chính của 
các mảng amyloid ngoại bào và amyloid 
ở mạch máu não tạo nên phần quan 
trọng của nền tảng giải phẫu bệnh 
Alzheimer. Cùng với thể Body, các mảng 
amyloid và đám rối tơ thần kinh có thể 
cùng tồn tại trong não của BN Parkinson, 
cả bệnh lý amyloid và tau có thể tương 
tác rộng rãi với quá trình gấp nếp sai của 
α-syn. Kết quả cho thấy nồng độ Aβ42 ở 
nhóm bệnh thấp hơn có ý nghĩa thống kê 
so với nhóm chứng. Trong bệnh 
Parkinson, đa số nghiên cứu cho thấy 
nồng độ Aβ42 giảm hơn ở BN Parkinson 
có và không có suy giảm nhận thức hoặc 
sa sút trí tuệ so với nhóm chứng [8]. 
Nồng độ Aβ42 thấp ở BN Parkinson 
không sa sút trí tuệ được cho là có liên 
quan đến suy giảm nhận thức trong 
tương lai và tăng nguy cơ tiến triển thành 
sa sút trí tuệ (HR 9,9%) [8]. Kết quả này 
cho thấy Aβ42 ở BN sa sút trí tuệ thấp 
hơn có ý nghĩa thống kê so với ở BN 
không có sa sút trí tuệ (bảng 5) và Aβ42 
cũng tương quan thuận với điểm đánh giá 
nhận thức MOCA (bảng 6). Trong bệnh 
Alzheimer, sự giảm nồng độ Aβ42 trong 
DNT được cho là do sự lắng đọng trong 
não. Do đó, kết quả này cho thấy chức 
năng nhận thức giảm khi sự lắng đọng 
Aβ42 tiến triển. Tuy nhiên, nồng độ Aβ42 
tương quan thuận với nồng độ α-syn 
trong DNT. Vì vậy, Aβ42 thúc đẩy sự 
lắng đọng α-syn, từ đó làm hủy hoại các 
tế bào thần kinh ở BN Parkinson. Một 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 2-2020 - chuyªn ®Ò thÇn kinh häc 
 19 
nghiên cứu thực nghiệm chỉ ra rằng, 
Aβ42 và α-syn có thể tương tác trực tiếp 
với nhau tạo nên các oligomer giống các 
lỗ và góp phần làm thoái hóa thần kinh. 
Trong DNT, ngoài Aβ42, tau, t-tau và 
p-tau được biết đến là có nhiều liên quan 
đến bệnh Alzheimer. Nhiều nghiên cứu 
chỉ ra nồng độ tau và p-tau ở BN 
Alzheimer đều tăng. Tuy nhiên, trong 
bệnh Parkinson, nhiều nghiên cứu chỉ ra 
nồng độ tau và p-tau trong DNT bình 
thường hoặc giảm nhẹ [8]. Chúng tôi thấy 
nồng độ t-tau và p-tau DNT ở nhóm bệnh 
không khác biệt so với nhóm chứng 
(bảng 2). Nồng độ α-syn, Aβ42 và t-tau 
DNT ở BN có sa sút trí tuệ đều giảm thấp 
hơn so với ở BN không có sa sút trí tuệ (p 
< 0,05). Tỷ số p-tau/Aβ42 ở BN có sa sút 
trí tuệ cao hơn ở BN không có sa sút trí 
tuệ (p = 0,002). Kết quả này cho thấy sự 
kết hợp của các dấu ấn sinh học có thể 
dự đoán được sa sút trí tuệ ở BN Parkinson. 
Ngoài ra, nghiên cứu của chúng tôi cho 
thấy, α-syn tương quan với cả 3 dấu ấn 
còn lại (bảng 6). Như vậy, khả năng sinh 
lý bệnh của α-syn có mối quan hệ với các 
dấu ấn sinh học cổ điển trong bệnh 
Alzheimer. 
Để đánh giá mối liên quan giữa các 
dấu ấn sinh học trên trong DNT với rối 
loạn vận động ở BN Parkinson, chúng tôi 
chia các nhóm theo giai đoạn Hoehn và 
Yahr khác nhau và mức độ rối loạn vận 
động theo UPDRS-III. Ngoài ra, chúng tôi 
cũng đánh giá tương quan giữa nồng độ 
các dấu ấn sinh học này trong DNT với 
điểm vận động UPDRS. Kết quả cho thấy, 
nồng độ của 4 dấu ấn sinh học trong DNT 
đều có xu hướng giảm dần theo tiến triển 
nặng lên của rối loạn vận động. Kết quả 
này tương đồng với một số nghiên cứu 
khác. 
H. Murakami và CS [9] ghi nhận nồng 
độ α-syn toàn phần trong DNT có tương 
quan nghịch với UPDRS-III và giai đoạn 
Hoehn và Yahr. Do đó, α-syn toàn phần 
trong DNT giảm dần theo tiến triển của 
bệnh Parkinson. Điều này có thể do sự 
kết tập và lắng đọng α-syn nội bào. 
Trong khi đó, nồng độ oligomeric α-syn 
DNT không cho thấy có mối tương quan 
nào với các đánh giá về rối loạn vận 
động; t-tau và p-tau tương quan nghịch 
với điểm UPDRS-III (p < 0,05) [9]. Như 
vậy, khi bệnh Parkinson tiến triển, nồng 
độ t-tau, p-tau và Aβ42 DNT cũng đồng 
thời giảm đi. Mối liên quan của nồng độ 
t-tau và α-syn DNT với mức độ nặng của 
rối loạn vận động ở BN Parkinson cũng 
được ghi nhận ở nghiên cứu của Juhee 
Kang và CS [10]. Nghiên cứu của chúng 
tôi cũng cho thấy, nồng độ t-tau và p-tau 
DNT tương quan thuận với nồng độ α-syn 
DNT. Waxman và CS đã chỉ ra α-syn có 
thể làm giảm sự kết tụ của tau và sự 
phosphoryl hóa các kết tụ này sẽ tiến 
triển ở người bệnh [11]. 
Guo và CS cũng chỉ ra các kết quả 
tương tự về α-syn thúc đẩy sự lắng đọng 
tau ở BN Parkinson [12]. Kết quả này 
dẫn đến t-tau và p-tau cùng lắng đọng với 
α-syn và giải thích cho tương quan của 
chúng trong DNT. Điều này có thể được 
giải thích do tác động giữa các protein 
này với nhau xảy ra trước, sau đó các 
triệu chứng rối loạn vận động, đặc biệt là 
chậm vận động biểu hiện ra. 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 2-2020 - chuyªn ®Ò thÇn kinh häc 
 20 
KẾT LUẬN 
Nồng độ α-syn tương quan thuận với 
điểm MOCA (r = 0,24; p = 0,037) và nồng 
độ Aβ42, t-tau và p-tau DNT ở BN 
Parkinson (r = 0,322, p = 0,003; r = 0,453, 
p < 0,001 và r = 0,369, p = 0,001). Kết quả 
này cho thấy vai trò trung tâm của sự 
tương tác và lắng đọng của α-syn với 
Aβ42, tau và p-tau trong bệnh sinh bệnh 
Parkinson. 
Nồng độ Aβ42 giảm thấp ở BN có sa 
sút trí tuệ so với BN không có sa sút trí 
tuệ (p < 0,0001) và tương quan thuận với 
điểm MOCA (r = 0,33; p = 0,001). Điều 
này phản ánh chức năng nhận thức giảm 
khi có sự lắng đọng Aβ42 tiến triển. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. De Lau L.M., Breteler M.M. 
Epidemiology of Parkinson's disease. The 
Lancet Neurology. 2006, 5 (6), pp.525-535. 
2. van Dijk K.D., Teunissen C.E., Drukarch 
B. et al. Diagnostic cerebrospinal fluid 
biomarkers for Parkinson's disease: 
A pathogenetically based approach. 
Neurobiology of Disease. 2010, 39 (3), 
pp.229-241. 
3. Martínez-Martín P., Rodríguez-Blázquez 
C., Alvarez M. et al. Parkinson's disease 
severity levels and MDS-unified Parkinson's 
disease rating scale. Parkinsonism & Related 
Disorders. 2015, 21 (1), pp.50-54. 
4. Dalrymple-Alford J., MacAskill M., 
Nakas C. et al. The MOCA: Well-suited 
screen for cognitive impairment in Parkinson 
disease. Neurology. 2010, 75 (19), pp.1717-
1725. 
5. Mollenhauer B., Bowman F.D., Drake D. 
et al. Antibody‐based methods for the 
measurement of α‐syn concentration in 
human cerebrospinal fluid-method comparison 
and round robin study. Journal of Neurochemistry. 
2019, 149 (1), pp.126-138. 
6. Borghi R., Marchese R., Negro A. et al. 
Full length α-syn is present in cerebrospinal 
fluid from Parkinson's disease and normal 
subjects. Neuroscience Letters. 2000, 287 (1), 
pp.65-67. 
7. Öhrfelt A., Grognet P., Andreasen N. et al. 
Cerebrospinal fluid α-syn in neurodegenerative 
disorders - a marker of synapse loss?. 
Neuroscience Letters. 2009, 450 (3), pp.332-335. 
8. Bäckström D.C., Domellöf M.E., Linder 
J. et al. Cerebrospinal fluid patterns and the 
risk of future dementia in early, incident 
Parkinson’s disease. JAMA Neurology. 2015, 
72 (10), pp.1175-1182. 
9. Murakami H., Tokuda T., El-Agnaf O.M. 
et al. Correlated levels of cerebrospinal fluid 
pathogenic proteins in drug-naïve Parkinson’s 
disease. BMC Neurology. 2019, 19 (1), p.113. 
10. Kang J.H., Irwin D.J., Chen-Plotkin 
A.S. et al. Association of cerebrospinal fluid 
Aβ42, t-tau, p-tau, and α-syn levels with 
clinical features of drug-naive patients with 
early Parkinson’s disease. JAMA Neurology. 
2013, 70 (10), pp.1277-1287. 
11. Waxman E.A., Giasson B.I. Induction 
of intracellular tau aggregation is promoted by 
α-syn seeds and provides novel insights into 
the hyperphosphorylation of tau. Journal of 
Neuroscience. 2011, 31 (21), pp.7604-7618. 
12. Guo J.L., Covell D.J., Daniels J.P. et al. 
Distinct α-syn strains differentially promote 
tau inclusions in neurons. Cell. 2013, 154 (1), 
pp.103-117. 

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_moi_lien_quan_giua_alpha_synuclein_beta_amyloid_1.pdf