Nghiên cứu mối liên quan của axit uric với một số đặc điểm lâm sàng ở bệnh nhân Parkinson
Mục tiêu: Tìm hiểu mối liên quan của axit uric với một số đặc điểm lâm sàng ở bệnh nhân
(BN) Parkinson điều trị nội trú tại Khoa Thần kinh, Bệnh viện Quân y 103. Đối tượng và
phương pháp: 99 BN Parkinson không phân biệt tuổi, giới, điều trị nội trú tại Khoa Thần kinh,
Bệnh viện Quân y 103 và 89 người khỏe mạnh. Loại trừ BN Parkinson có rối loạn chuyển hóa
axit uric, thu thập thông tin theo mẫu bệnh án thống nhất và đều được lấy 2 ml máu định lượng
nồng độ axit uric. Kết quả: 99 BN Parkinson (46,4% nam) có tuổi khởi phát trung bình 60,64 ±
10,22, thời gian mắc bệnh trung bình 4,03 ± 3,78 năm. BN ở giai đoạn sớm của bệnh
(Hoehn&Yahr score - H&Y = 1 + 2) chiếm 48,5% và ở giai đoạn xa (muộn) của bệnh (H&Y = 3 + 4 + 5)
chiếm 51,5%. Nồng độ axit uric ở nhóm bệnh (307,14 ± 81,38) thấp hơn có ý nghĩa so với
nhóm chứng (325,88 ± 75,69 µmol/l) (p < 0,05).="" nồng="" độ="" axit="" uric="" ở="" giai="" đoạn="" sớm="" (317,14="">
71,48 µmol/l) cao hơn có ý nghĩa so với giai đoạn muộn của bệnh (298,14 ± 62,33 µmol/l) (p <>
Nồng độ axit uric ở BN điều trị kết hợp L-dopamin và đồng vận dopamin (315,45 ± 69,24 µmol/l)
cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm điều trị bằng đồng vận dopamin đơn thuần (305,26 ±
88,37 µmol/l) (p < 0,05).="" kết="" luận:="" nồng="" độ="" axit="" uric="" ở="" bn="" parkinson="" thấp="" hơn="" so="" với="" ở="" người="">
mạnh. Nồng độ axit uric thấp dần theo tiến triến của bệnh và liên quan tới thuốc sử dụng điều trị
bệnh Parkinson
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu mối liên quan của axit uric với một số đặc điểm lâm sàng ở bệnh nhân Parkinson
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 4-2020 38 NGHIÊN CỨU MỐI LIÊN QUAN CỦA AXIT URIC VỚI MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG Ở BỆNH NHÂN PARKINSON Nguyễn Đức Thuận1; Đặng Thành Chung2 TÓM TẮT Mục tiêu: Tìm hiểu mối liên quan của axit uric với một số đặc điểm lâm sàng ở bệnh nhân (BN) Parkinson điều trị nội trú tại Khoa Thần kinh, Bệnh viện Quân y 103. Đối tượng và phương pháp: 99 BN Parkinson không phân biệt tuổi, giới, điều trị nội trú tại Khoa Thần kinh, Bệnh viện Quân y 103 và 89 người khỏe mạnh. Loại trừ BN Parkinson có rối loạn chuyển hóa axit uric, thu thập thông tin theo mẫu bệnh án thống nhất và đều được lấy 2 ml máu định lượng nồng độ axit uric. Kết quả: 99 BN Parkinson (46,4% nam) có tuổi khởi phát trung bình 60,64 ± 10,22, thời gian mắc bệnh trung bình 4,03 ± 3,78 năm. BN ở giai đoạn sớm của bệnh (Hoehn&Yahr score - H&Y = 1 + 2) chiếm 48,5% và ở giai đoạn xa (muộn) của bệnh (H&Y = 3 + 4 + 5) chiếm 51,5%. Nồng độ axit uric ở nhóm bệnh (307,14 ± 81,38) thấp hơn có ý nghĩa so với nhóm chứng (325,88 ± 75,69 µmol/l) (p < 0,05). Nồng độ axit uric ở giai đoạn sớm (317,14 ± 71,48 µmol/l) cao hơn có ý nghĩa so với giai đoạn muộn của bệnh (298,14 ± 62,33 µmol/l) (p < 0,05). Nồng độ axit uric ở BN điều trị kết hợp L-dopamin và đồng vận dopamin (315,45 ± 69,24 µmol/l) cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm điều trị bằng đồng vận dopamin đơn thuần (305,26 ± 88,37 µmol/l) (p < 0,05). Kết luận: Nồng độ axit uric ở BN Parkinson thấp hơn so với ở người khỏe mạnh. Nồng độ axit uric thấp dần theo tiến triến của bệnh và liên quan tới thuốc sử dụng điều trị bệnh Parkinson. * Từ khóa: Axit uric; Parkinson. ĐẶT VẤN ĐỀ Parkinson là bệnh thoái hóa thần kinh mạn tính tiến triển hay gặp ở người cao tuổi, là bệnh phổ biến thứ hai sau bệnh Alzheimer [1]. Nguyên nhân gây bệnh cho tới nay vẫn chưa được sáng tỏ. Tuy nhiên, có điểm thống nhất là có sự xuất hiện của thể Lewy trong các tế bào thần kinh sản xuất dopamin ở liềm đen dẫn tới các tế bào thần kinh bị chết và thiếu hụt lượng dopamin. Trong các giả thuyết dẫn tới quá trình trên thì các chất oxy hóa đóng vai trò quan trọng [2, 4]. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh, axit uric là một chất chuyển hoá purin trong cơ thể, có hoạt tính chống oxy hoá tự nhiên nên có tác dụng bảo vệ tế bào thần kinh [5]. Nhiều nghiên cứu cho thấy ở BN Parkinson nồng độ axit uric giảm rõ rệt, tuy nhiên cũng có nghiên cứu chưa thấy mối liên quan này [3]. Ở Việt Nam, vấn đề này vẫn còn bỏ ngỏ. Vì vậy, chúng tôi tiến hành đề tài này nhằm: Nghiên cứu mối liên quan của axit uric với một số đặc điểm của BN Parkinson điều trị nội trú tại Khoa Thần kinh, Bệnh viện Quân y 103. 1Khoa Thần kinh, Bệnh viện Quân y 103, Học viện Quân y 2Bộ môn Sinh lý Bệnh, Học việc Quân y Người phản hồi: Nguyễn Đức Thuận ([email protected]) Ngày nhận bài: 18/3/2020 Ngày bài báo được đăng: 18/5/2020 T¹P CHÝ Y - D¦îc häc qu©n sù sè 4-2020 39 ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Đối tượng nghiên cứu 99 BN Parkinson điều trị nội trú tại Khoa Thần kinh, Bệnh viện Quân y 103, thời gian từ 01/01/2018 - 31/12/2019. BN tuyển chọn đều được làm xét nghiệm axit uric. Những BN mắc bệnh gút hoặc đang điều trị thuốc hạ axit uric máu bị loại khỏi nghiên cứu. Nhóm chứng gồm 89 người khỏe mạnh. 2. Phương pháp nghiên cứu Thông tin của đối tượng nghiên cứu được thu thập theo mẫu bệnh án thống nhất. Chẩn đoán xác định bệnh Parkinson theo tiêu chuẩn của Hội rối loạn vận động và bệnh Parkinson (2015). Phân loại giai đoạn bệnh theo Hoehn và Yahr (1967). Mỗi BN đều được lấy 2 ml máu xét nghiệm sinh hóa định lượng nồng độ axit uric theo đúng quy chuẩn tại Bệnh viện Quân y 103. Số liệu được phân tích theo phần mềm SPSS 22.0. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Bảng 1: Một số đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu. Phân nhóm Đặc điểm Nhóm bệnh (n = 99) Nhóm chứng (n = 89) p Tuổi ( ± SD) 64,37 ± 10,02 65,32 ± 11,45 > 0,05 Giới (nam %) 46,4% 47,2% > 0,05 Tuổi khởi phát bệnh ( ± SD) 60,64 ± 10,22 Thời gian mắc bệnh ( ± SD) 4,03 ± 3,78 Tuổi và giới tại thời điểm khám giữa nhóm bệnh và nhóm chứng khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Ở nhóm bệnh, tuổi khởi phát là 60,64 (cao tuổi) và thời gian mắc bệnh thường kéo dài (> 4 năm). Bảng 2: Giai đoạn bệnh theo Hoehn và Yahr. Đặc điểm n (n = 99) Tỷ lệ (%) 1 9 9,1 2 39 39,4 3 39 39,4 4 10 10,1 Giai đoạn bệnh 5 2 2,0 Bệnh nhân ở giai đoạn sớm của bệnh chiếm 48,5% và ở giai đoạn xa (muộn) của bệnh chiếm 51,5%. T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 4-2020 40 Bảng 3: Nồng độ axit uric huyết tương giữa nhóm nghiên cứu và nhóm chứng. Đặc điểm n Nồng độ axit uric ( SDX ± ) p Tổng (a) 99 307,14 ± 81,38 Nam (b) 46 332,89 ± 82,74 Nhóm bệnh (1) Nữ (c) 53 303,47 ± 78,40 Tổng (a) 89 325,88 ± 75,69 Nam (b) 42 362,89 ± 92,14 Nhóm chứng (2) Nữ (c) 47 315,47 ± 88,49 p (1a - 2a) = 0,021 p (1b - 2b) = 0,035 p (1c - 2c) = 0,029 Nồng độ axit uric ở nhóm bệnh thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm chứng và sự khác biệt gặp cả ở 2 nhóm phân chia theo giới tính (cả nam và nữ giới). Bảng 4: Nồng độ axit uric theo một số đặc điểm của BN Parkinson. Nồng độ axit uric Sớm (n = 48) Muộn (n = 51) Giai đoạn bệnh 317,14 ± 71,48 298,14 ± 62,33 p < 0,05 ≥ 60 (n = 64) < 60 (n = 35) Nhóm tuổi 309,26 ± 68,14 306,26 ± 78,19 p > 0,05 L-Dopa + Sifrol (n = 58) Sifrol (n = 41) Thuốc điều trị 315,45 ± 69,24 305,26 ± 88,37 p < 0,05 Kết quả cho thấy, nồng độ axit uric ở giai đoạn muộn thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với giai đoạn sớm của bệnh (p < 0,05). Tương tự, nồng độ axit uric ở nhóm chỉ điều trị bằng đồng vận dopamin (Sifrol) thấp hơn so với nhóm điều trị bằng cả đồng vận dopamin và bổ sung trực tiếp dopamin (p < 0,05). Chưa thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê của axit uric theo lứa tuổi. BÀN LUẬN * Một số đặc điểm ở nhóm BN nghiên cứu: Tuổi khởi phát của BN Parkinson ở nghiên cứu này là 60,64 ± 10,22 và nam giới có tỷ lệ thấp hơn so với nữ giới (nữ/nam = 1,12/1). Điều này phù hợp với đặc điểm của bệnh Parkinson là khởi phát thường ở người cao tuổi và là bệnh lý mạn tính tiến triển. Mặc dù y văn cũng ghi nhận những trường hợp bệnh Parkinson khởi phát sớm (< 50 tuổi) và theo dự đoán đang có xu hướng trẻ hóa, nhưng đặc điểm tuổi khởi phát bệnh vẫn như những ghi nhận từ trước tới nay. Tỷ lệ nam/nữ ở T¹P CHÝ Y - D¦îc häc qu©n sù sè 4-2020 41 nghiên cứu của chúng tôi có khác so với nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước [1] trong đó, đa số ghi nhận nam giới có tỷ lệ mắc bệnh cao hơn. Ở các nước Tây Âu, tỷ lệ nam/nữ cao hơn so với các nước châu Á (1,4 - 2/1 > 1 - 1,2/1) [2]. Sự khác biệt này có thể do cỡ mẫu của chúng tôi nhỏ so với nhiều nghiên cứu khác, những BN ở nghiên cứu này có tỷ lệ mắc bệnh giai đoạn sớm và muộn gần tương đương nhau (48,5% và 51,5%). Điều này cho thấy, hiện tại những BN mới mắc bệnh cũng được chẩn đoán sớm và điều trị kịp thời, có ý nghĩa lớn trong việc quản lý và theo dõi BN Parkinson, góp phần hạn chế tỷ lệ tàn phế khi bệnh được chẩn đoán đã ở giai đoạn muộn. * Mối liên quan axit uric với một số đặc điểm lâm sàng ở BN Parkinson: Nghiên cứu của chúng tôi chỉ ra rằng nồng độ axit uric ở BN Parkinson thấp hơn so với người khỏe mạnh. Kết quả này tương đồng với nhiều nghiên cứu trước đó [3, 5]. Tới nay, nhiều nghiên cứu cho thấy có mối liên quan giữa quá trình stress oxy hóa và sự thoái hóa của tế bào thần kinh tiết dopamin tại liềm đen ở cả động vật và trên người [6]. Axit uric là một chất chuyển hóa chính của purine và xuất hiện ở dịch não tủy, đó là chất chống oxy hóa tự nhiên và có cả tác dụng "gắp" phân tử sắt. Do đó, nó có tác dụng bảo vệ tế bào thần kinh ở BN Parkinson trước những tác động có hại của sự stress oxy hóa và sắt lắng đọng [7]. Dias và CS đã chứng minh việc sử dụng axit uric ở mô hình động vật cho thấy làm giảm quá trình stress oxy hóa và bảo vệ tế bào thần kinh tại liềm đen bị thoái hóa và chết đi [8]. Đây là điểm quan trọng để gợi ý một cách tiếp cận mới trong điều trị bệnh Parkinson trong thời gian tới. Về mối liên quan giữa axit uric với tuổi và giới ở BN Parkinson, nghiên cứu của chúng tôi chỉ rõ nồng độ axit uric ở BN nam cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nữ, nhưng sự khác biệt so với lứa tuổi chưa có ý nghĩa. Lý giải có sự khác nhau này do nồng độ estrogen khác nhau giữa 2 giới. Estrogen có vai trò làm tăng sản xuất axit uric huyết tương [7]. Ở nam giới, estrogen vẫn hiện diện trong khi nữ giới trong nghiên cứu đều đã mãn kinh nên estrogen đã không còn được tiết ra. Nghiên cứu về mối liên quan của axit uric với giai đoạn bệnh cho thấy nồng độ axit uric giảm theo thời gian mắc bệnh. Với những BN Parkinson giai đoạn sớm thì nồng độ axit uric là 317,14 ± 71,48, trong khi đó nồng độ này ở giai đoạn muộn của bệnh thấp hơn với 298,14 ± 62,33, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Kết quả của chúng tôi cũng tương tự như kết quả của một nghiên cứu gộp phân tích số liệu hệ thống năm 2017 [3]. Ngoài ra, có nghiên cứu đã chỉ ra nồng độ axit uric cao có tác dụng giảm nguy cơ mắc và làm chậm diễn tiến của bệnh Parkinson [9]. Như vậy, axit uric được chứng minh có vai trò bảo vệ ở bệnh Parkinson. Có một vấn đề được nêu ra là liệu quá trình điều trị có ảnh hưởng tới nồng độ axit uric huyết tương ở BN Parkinson hay không? Để tìm hiểu, chúng tôi đã phân tích nồng độ axit uric ở 2 nhóm BN: nhóm được điều trị bằng bổ sung trực tiếp dopamin cùng với một thuốc đồng vận dopamin và nhóm chỉ được điều trị bằng dopamin. Kết quả cho thấy, nồng độ axit T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 4-2020 42 uric ở nhóm được điều trị kết hợp bằng 2 thuốc cao hơn có ý nghĩa so với nhóm còn lại (p < 0,05; 315,45 ± 69,24 và 305,26 ± 88,37). Kết quả này cũng đã được ghi nhận ở nghiên cứu của Shen và CS [9], nhưng trái ngược so với công bố ở một công trình nghiên cứu khác cho rằng nồng độ axit uric ở BN được điều trị bằng l-dopamin thì thấp hơn [7]. Shen và CS cho rằng l-dopamin làm giảm sự bài tiết axit uric ở thận nên làm tăng nồng độ chất này trong huyết tương [9]. Để làm sáng tỏ mối quan hệ này, cần nghiên cứu tiếp trong thời gian tới với việc quan trọng là xác định biến đổi nồng độ axit uric trước và sau quá trình điều trị bằng l-dopamin. KẾT LUẬN Nồng độ axit uric ở BN Parkinson thấp hơn so với ở người khỏe mạnh. Nồng độ axit uric thấp dần theo tiến triển của bệnh và liên quan tới thuốc sử dụng điều trị bệnh Parkinson. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Delamarre A, WG Meissner. Epidemiology, environmental risk factors and genetics of Parkinson's disease. Presse Med 2017; 46(2 Pt 1):175-181. 2. Abbas MM, Z Xu, LCS Tan. Epidemiology of Parkinson's disease-east versus west. Mov Disord Clin Pract 2018; 5(1):14-28. 3. Wen M, et al. Serum uric acid levels in patients with Parkinson's disease: A meta- analysis. PLoS One 2017; 12(3):e0173731. 4. Ou R et al. Serum uric acid levels and freezing of gait in Parkinson's disease. Neurol Sci 2017; 38(6):955-960. 5. Kobylecki CJ, BG Nordestgaard, S Afzal. Plasma urate and risk of Parkinson's disease: A mendelian randomization study. Ann Neurol 2018; 84(2):178-190. 6. Chen X, G Wu, MA Schwarzschild. Urate in Parkinson's disease: More than a biomarker? Curr Neurol Neurosci Rep 2012; 12(4):367-375. 7. Vieru E, et al. The relation of serum uric acid levels with L-Dopa treatment and progression in patients with Parkinson's disease. Neurol Sci 2016; 37(5):743-747. 8. Dias V, E Junn, MM Mouradian. The role of oxidative stress in parkinson's disease. Journal of Parkinson's Disease 2013; 3:461-491. 9. Shen L, HF Ji. Low uric acid levels in patients with Parkinson's disease: Evidence from meta-analysis. BMJ Open 2013; 3(11):e003620.
File đính kèm:
nghien_cuu_moi_lien_quan_cua_axit_uric_voi_mot_so_dac_diem_l.pdf

