Nghiên cứu liên quan rối loạn glucose máu với một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng ở bệnh nhân đột quỵ não tại Bệnh viện Quân Y 13
Mục tiêu: Nghiên cứu rối loạn glucose máu và mối liên quan với một số triệu chứng
lâm sàng, cận lâm sàng ở bệnh nhân đột quỵ não.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu:
Gồm 150 bệnh nhân đột quỵ não điều trị tại khoa Nội chung Bệnh viện Quân y 13
từ tháng 10/2010 – 3/2012.
Tất cả các bệnh nhân đều được xét nghiệm glucose máu ít nhất 2 lần: lúc vào viện
và 10 ngày sau khi vào viện. Glucose máu được lấy vào sáng sớm lúc đói. Những bệnh
nhân chẩn đoán đái tháo đường và tăng glucose máu phản ứng đều được làm HbA1C để
xác định
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu liên quan rối loạn glucose máu với một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng ở bệnh nhân đột quỵ não tại Bệnh viện Quân Y 13", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu liên quan rối loạn glucose máu với một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng ở bệnh nhân đột quỵ não tại Bệnh viện Quân Y 13
TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 3 - 9/2015 5 (1) Bệnh viện Quân y 13 Người phản hồi (Corresponding): Huỳnh Ngọc Cẩn ([email protected]) Ngày nhận bài: 04/5/2015; Ngày phản biện đánh giá: 15/5/2015 NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN RỐI LOẠN GLUCOSE MÁU VỚI MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG Ở BỆNH NHÂN ĐỘT QUỴ NÃO TẠI BỆNH VIỆN QUÂN Y 13 Huỳnh Ngọc Cẩn1, Đỗ Việt Cảnh1 TÓM TẮT Mục tiêu: Nghiên cứu rối loạn glucose máu và mối liên quan với một số triệu chứng lâm sàng, cận lâm sàng ở bệnh nhân đột quỵ não. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Gồm 150 bệnh nhân đột quỵ não điều trị tại khoa Nội chung Bệnh viện Quân y 13 từ tháng 10/2010 – 3/2012. Tất cả các bệnh nhân đều được xét nghiệm glucose máu ít nhất 2 lần: lúc vào viện và 10 ngày sau khi vào viện. Glucose máu được lấy vào sáng sớm lúc đói. Những bệnh nhân chẩn đoán đái tháo đường và tăng glucose máu phản ứng đều được làm HbA1C để xác định. Kết quả: Tỷ lệ rối loạn glucose máu ở giai đoạn cấp của đột quỵ não: không tăng glucose máu 56,7%; tăng glucose máu phản ứng 22%; đái tháo đường 21,3%. Ở nhóm bệnh nhân có tăng glucose máu: tỷ lệ rối loạn ý thức, mức độ liệt nặng, chảy máu não, rối loạn cơ vòng, rối loạn lipid cao hơn nhóm không tăng glucose máu. STYDY OF THE ASSOCATION BETWEEN PREVALENCE OF GLYCEMIC DISORDERS AND CLINICAL CHARACTERISTICS, SUBCLINICAL CHARACTERISTICS IN STROKE PATIENTS AT 13 MILITARY HOSPITAL SUMMARY Objective: To evaluate the prevalence of disorders of glucose metabolism and the relationship between disorders of glucose metabolism and common clinical & laboratory features in stroke patients. Subjects and methods: 150 stroke patients were diagnosed and treated at Internal Medicine Department - 13 Military Hospital from 10/2010 to 3/2012. All patients are required the blood glucose tests at least twice: at the hospitalization and 10 days after discharge. The blood is taken in the early morning. The patients diagnosed with diabetes TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 3 - 9/2015 6 ĐẶT VẤN ĐỀ Đột quỵ não là một cấp cứu nội khoa thường gặp trong lâm sàng. Ngày nay với sự tiến bộ trong kỹ thuật chẩn đoán và các phương pháp điều trị hiện đại, nhưng bệnh này vẫn còn diễn biến phức tạp với tỷ lệ tử vong cao. Đột quỵ não đã và đang là một vấn đề thời sự cấp thiết của y học đối với mọi nước, mọi dân tộc ở người cao tuổi và cả người trẻ tuổi với mọi thành phần trong xã hội. Một trong những yếu tố nguy cơ của bệnh nhân đột quỵ não là rối loạn glucose máu. Nghiên cứu của nhiều tác giả nhận thấy ở bệnh nhân không có tiền sử đái tháo đường bị đột quỵ não khi glucose máu cao hơn bình thường làm tăng nguy cơ tử vong lên 2-3 lần và giảm khả năng hồi phục so với những bệnh nhân có glucose máu bình thường. Với mong muốn tìm hiểu những biến đổi glucose máu và ảnh hưởng của nó đối với bệnh nhân đột quỵ não nhằm góp phần vào việc điều trị bệnh ngày càng hiệu quả, chúng tôi tiến hành đề tài “Nghiên cứu liên quan rối loạn glucose máu với một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng ở bệnh nhân đột quỵ não tại Bệnh viện Quân y 13” ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Đối tượng nghiên cứu Gồm 150 bệnh nhân đột quỵ não (ĐQN) điều trị tại khoa Nội chung Bệnh viện Quân y 13 từ tháng 10/2010 – 3/2012. - Chẩn đoán ĐQN dựa vào định nghĩa của WHO 1989 và đái tháo đường (ĐTĐ) theo tiêu chuẩn WHO 1998. 2.2. Phương pháp nghiên cứu Được tiến hành theo phương pháp tiến cứu, mô tả, cắt ngang: Tất cả các bệnh nhân đều được hỏi bệnh và thăm khám ghi chép triệu chứng lâm sàng, xét nghiệm cận lâm sàng theo mẫu bệnh án thống nhất. - Khám thần kinh: Đánh giá mức độ rối loạn ý thức theo thang điểm Glassgow của Teasdale và Jenett (1978). Đánh giá độ liệt của chi theo sức cơ của thang điểm Henry (1984). Khám tổn thương các dây thần kinh sọ não... - Xét nghiệm định lượng glucose máu tĩnh mạch bằng phương pháp men glucose oxydase và định lượng các thành phần Lipid máu trên máy AU400 tại khoa Xét nghiệm Bệnh viện 13. Định lượng HbA1C: tỷ lệ % của HbA1C xác định bằng phương pháp sắc ký cột tròn thay đổi ion dương trên máy Biorad Diastat của khoa xét nghiệm Bệnh viện 13. Đánh giá rối loạn Lipid máu dựa theo tiêu chuẩn Hội Tim mạch học Việt Nam. - Chụp CT sọ não được thực hiện tại khoa X quang Bệnh viện 13. - Các số liệu được xử lý theo phương pháp thống kê y học bằng phần mềm Epi- info 6.0. mellitus and hyperglycemic response is tested HbA1c to determine. Results: Disorders rate of glucose metabolism at the acute level of brain stroke: The patient with non-hyperglycemia 56,7%; hyperglycemic response 22%; diabetes mellitus 21.3%. In the patients with hyperglycemia: higher rate of disorders of consciousness, severe paralysis, brain hemorrhage, sphincter dysfunction, lipid disorders than patients TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 3 - 9/2015 7 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Bảng 3.1. Đặc điểm chung nhóm bệnh nhân nghiên cứu Đặc điểm Kiểu phân bố Giá trị Tuổi (năm) Trung bình 63,9 ± 12,5 Giới Nam/nữ 97/53 (64,7%/35,3%) BMI (kg/m2) < 18,5 5 (3,3%) 18,5 – 22,9 87 (58%) 23 – 25 48 (32%) > 25 10 (6,7%) Tuổi trung bình các bệnh nhân nghiên cứu là 63,9 ± 12,5. Số bệnh nhân nam là 97 bệnh nhân (64,7%). BMI đa số bệnh nhân có thể trạng trung bình: 87 bệnh nhân (58%). Bảng 3.2. Phân bố bệnh nhân theo nhóm tuổi và giới tính Nhóm tuổi Giới < 50 50 – 59 60 -69 ≥ 70 Tổng Nam Số BN 14 27 26 30 97 Tỷ lệ % 14,4 27,8 26,8 30,9 100 Nữ Số BN 5 8 16 24 53 Tỷ lệ % 9,4 15,1 30,2 45,3 100 Cộng Số BN 19 35 42 54 150 Tỷ lệ % 12,7 23,3 28,0 36,0 100 Trong số 150 bệnh nhân nghiên cứu nhóm tuổi mắc bệnh nhiều nhất là từ 70 tuổi trở lên kể cả nam và nữ. Bảng 3.3. Khởi phát bệnh Khởi phát bệnh Số BN Tỷ lệ % Cách khởi phát Nặng từ đầu 126 84 Nặng dần 24 16 Hoàn cảnh khởi phát Khi nghỉ ngơi 84 56 Sau Stress 26 17,3 Sau gắng sức 28 18,7 Sau uống rượu bia 12 8,0 Thời gian xuất hiện 6 giờ – 18 giờ 104 69,3 18 giờ – 6 giờ 46 30,7 Phần lớn các bệnh nhân khởi phát đột ngột nặng từ đầu (84%). ĐQN xuất hiện khi nghỉ ngơi gặp nhiều nhất (56%). Thời gian xuất hiện ban ngày (69,3%) nhiều hơn ban đêm. TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 3 - 9/2015 8 Bảng 3.4. Các yếu tố nguy cơ YTNC THA ĐTĐ Tiền sử ĐQN Thuốc lá Rượu RLLP Rung nhĩ Có YTNC ≥ 2 YTNC Số BN 104 32 17 44 37 89 11 119 67 Tỷ lệ % 69,3 21,3 11,3 29,3 24,7 59,3 7,3 79,3 44,7 Tiền sử THA là yếu tố nguy cơ chiếm tỷ lệ cao (69,3%). Bệnh nhân có 2 yếu tố nguy cơ trở lên là 44,7%. Bảng 3.5. Phân nhóm bệnh nhân Nhóm N1 (n=85) N2 (n=33) N3 (n=32) Tổng Số BN 85 33 32 150 Tỷ lệ % 56,7 22,0 21,3 100 Trong số bệnh nhân nghiên cứu có 33 bệnh nhân (22,0%) tăng glucose máu phản ứng sau đột quỵ não, 32 bệnh nhân ĐTĐ (21,3%) và 85 bệnh nhân có glucose máu bình thường (56,7%) khi xảy ra đột quỵ não. Bảng 3.6. Liên quan giữa rối loạn ý thức với nồng độ glucose máu lúc vào viện RLYT Glucose Không RLYT Có RLYT p Số BN Tỷ lệ % Số BN Tỷ lệ % < 7 mmol/l (n = 85) 74 87,1 11 12,9 < 0,05 ≥ 7 mmol/l (n = 65) 47 72,3 18 27,7 Tỷ lệ rối loạn ý thức ở nhóm glucose ≥ 7 mmol/l cao hơn nhóm glucose < 7mmol/l, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Bảng 3.7. Liên quan giữa glucose máu với mức độ liệt ngày vào viện Độ liệt Glucose I, II, III IV, V p Số BN Tỷ lệ % Số BN Tỷ lệ % < 7 mmol/l (n = 85) 53 62,4 32 37,6 < 0,01 ≥ 7 mmol/l (n = 65) 26 40,0 39 60,0 TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 3 - 9/2015 9 Tỷ lệ mức độ liệt nặng ở nhóm glucose ≥ 7 mmol/l cao hơn nhóm glucose < 7mmol/l, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Bảng 3.8. Liên quan glucose với hình thái đột quỵ não Hình thái Glucose Nhồi máu não Xuất huyết não p Số BN Tỷ lệ % Số BN Tỷ lệ % < 7 mmol/l (n = 85) 68 80,0 17 20,0 > 0,05 ≥ 7 mmol/l (n = 65) 47 72,3 18 27,7 Tỷ lệ bệnh nhân xuất huyết não ở nhóm glucose ≥ 7 mmol/l cao hơn nhóm glucose < 7mmol/l, sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Bảng 3.9. Liên quan glucose máu với rối loạn cơ vòng Cơ vòng Glucose Có rối loạn Không rối loạn P Số BN Tỷ lệ % Số BN Tỷ lệ % < 7 mmol/l (n = 85) 10 11,8 75 88,2 < 0,01 ≥ 7 mmol/l (n = 65) 20 30,8 45 69,2 Tỷ lệ rối loạn cơ vòng ở nhóm glucose ≥ 7 mmol/l cao hơn nhóm glucose < 7mmol/l, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Bảng 3.10. Liên quan glucose máu với rối loạn lipid máu Glucose Rối loạn < 7 mmol/l (n = 85) ≥ 7 mmol/l (n = 65) P Số BN Tỷ lệ % Số BN Tỷ lệ % Cholesterol 29 34,1 36 55,4 < 0,01 Triglycerides 19 22,4 17 26,2 > 0,05 LDL-c 15 17,6 31 47,7 < 0,01 HDL-c 18 21,2 14 21,5 > 0,05 Chung 42 49,4 47 72,3 < 0,01 Tỷ lệ rối loạn cholesterol, LDL-C và rối loạn chung ở nhóm glucose ≥ 7 mmol/l cao hơn nhóm glucose < 7mmol/l, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 3 - 9/2015 10 BÀN LUẬN 1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu Tuổi là một yếu tố ngẫu nhiên trong lâm sàng. Đột quỵ não thường xảy ra ở người cao tuổi, tuổi càng cao thì nguy cơ ĐQN càng tăng, điều này đã được nhiều nghiên cứu kinh điển khẳng định về vai trò của tuổi đối với ĐQN. Sự gia tăng của tuổi là yếu tố nguy cơ độc lập quan trọng trong ĐQN [3]. Trong nghiên cứu này thấy nhóm tuổi ≥ 70 chiếm tỷ lệ cao nhất 36%. Tuổi trung bình của các bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu là 63,9 ± 12,5. Như vậy, chúng tôi gặp bệnh này chủ yếu ở người cao tuổi. Kết quả này cũng phù hợp với nhận xét của Nguyễn Văn Ngọc (2008) khi nghiên cứu rối loạn glucose máu ở bệnh nhân ĐQN. Theo tác giả cho thấy người cao tuổi thường gặp hơn với tuổi trung bình ở bệnh nhân CMN là 67,4 ± 11,2 và bệnh nhân NMN là 66,8 ± 12,3 [5]. Nguyễn Văn Tuyến, Nguyễn Văn Thông và CS (2011) thấy tuổi trung bình 63,34 ± 12,52 [10]. Trong nghiên cứu này cũng cho thấy tỷ lệ ĐQN tăng dần theo tuổi, thấp nhất ở nhóm tuổi <50 (9,4%) cao nhất ở nhóm tuổi từ 70 trở lên (45,3%). Hơn nữa, theo thời gian tuổi ngày càng tăng lên thì các yếu tố nguy cơ tim mạch cũng tăng lên nhất là các nguyên nhân như sự lão hóa, THA, xơ vữa động mạch, bệnh lý tim mạch,... Đồng thời các bệnh nhân cao tuổi cũng thường có thời gian bị ĐTĐ lâu hơn, bệnh lý này có thể góp phần làm tăng tỷ lệ ĐQN và làm cho việc phục hồi các di chứng sau đột quỵ khó khăn hơn [3]. Phân bố về giới trong nghiên cứu này có số bệnh nhân nam (97) nhiều hơn nữ (53) với các tỷ lệ tương ứng là 64,7% so với 35,3%. Khi khảo sát theo từng nhóm tuổi, số bệnh nhân nam cũng nhiều hơn nữ. Kết quả này tương tự với nhận xét của Giáo sư Phạm Khuê, tỷ lệ ĐQN nam/nữ là 2/1[3]. Nguyễn Văn Tuyến, Nguyễn Văn Thông và CS (2011) nghiên cứu 240 bệnh nhân ĐQN thấy nam là 75,8% [10]. Như vậy, mặc dù các tỷ lệ cụ thể của từng ng- hiên cứu có khác nhau nhưng tác giả đều thống nhất nhận xét: trong ĐQN tỷ lệ nam nhiều hơn nữ với nam gấp khoảng hai lần nữ. Về chỉ số khối cơ thể (BMI): Kết quả nghiên cứu cho thấy phần lớn bệnh nhân có thể trạng trung bình (87/150) với tỷ lệ 58,0%, tỷ lệ thừa cân (48/150) là 32%, tỷ lệ béo phì (10/150) 6,7%. Các tác giả Yun- Mi Song, Joohon Sung và CS cho rằng BMI là một yếu tố nguy cơ của cả đột quỵ thiếu máu não và đột quỵ chảy máu não. Đối với đột quỵ thiếu máu khi BMI tăng thêm 1kg/m2 thì khả năng xuất hiện đột quỵ tăng 11%. Còn đột quỵ chảy máu thì với BMI>23kg/m2 sẽ làm tăng nguy cơ đột quỵ [15]. Khởi phát bệnh đột ngột là một đặc trưng của bệnh lý mạch máu não. Đây cũng là một trong những tiêu chuẩn trong định nghĩa ĐQN của WHO. Biểu hiện khởi phát đột ngột gặp chủ yếu trong ng- hiên cứu này chiếm tỷ lệ 84%, với các triệu chứng nặng ngay từ đầu. Tác giả Nguyễn Văn Chương cũng có nhận xét tương tự với tỷ lệ khởi phát đột ngột là 81,9% [1]. Tác giả Nguyễn Văn Thông cũng có nhận xét trong ĐQN bệnh khởi phát đột ngột là chủ yếu. Qua kết quả nghiên cứu của nhiều tác giả có thể thấy rằng khởi phát bệnh đột ngột mang tính đặt trưng riêng của bệnh lý ĐQN [8]. Thời điểm khởi phát bệnh, theo nhiều TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 3 - 9/2015 11 nghiên cứu, ĐQN có thể xảy ra ở bất kỳ thời điểm nào trong ngày. Trong nghiên cứu của chúng tôi thời điểm khởi phát ĐQN từ 6 – 18 giờ chiếm tỷ lệ 69,3%. Tác giả Nguyễn Văn Chương cũng nhận thấy thời điểm khởi phát ĐQN thường vào 6 – 18 giờ với tỷ lệ là 65,34%, riêng đột quỵ CMN ở khoảng thời gian trên là 56% [1]. Các tác giả Trịnh Tiến Lực, Hà Hữu Quý, Lê Văn Thính và cộng sự thấy thời điểm khởi phát từ 6 – 18 giờ là 61,2% [4]. Ng- hiên cứu của Nguyễn Văn Thông và CS thấy thời điểm khởi phát đột quỵ CMN ban ngày là 58,1% [8]. Qua kết quả nghiên cứu của nhiều tác giả có thể kết luận rằng ĐQN thời điểm khởi phát ban ngày gặp nhiều hơn ban đêm. Hoàn cảnh khởi phát ĐQN rất đa dạng. Bệnh có thể xảy ra sau một hoạt động quá mức về thể chất hoặc tinh thần nhưng cũng có thể xảy ra khi đang nghỉ ngơi. Trong nghiên cứu này cho thấy ĐQN xuất hiện khi nghỉ ngơi chiếm tỷ lệ cao nhất (56%). Kết quả này cũng phù hợp với nghiên cứu của các tác giả Trịnh Tiến Lực, Hà Hữu Quý, Lê Văn Thính và CS. Theo nhóm ng- hiên cứu này tỷ lệ ĐQN xuất hiện khi nghỉ ngơi là 53,1% [4]. Như vậy, ĐQN có thể xuất hiện trong bất kỳ hoàn cảnh nào trong đó xuất hiện lúc nghỉ ngơi là hay gặp nhất. Về các yếu tố nguy cơ: Bệnh nhân ĐQN nói chung thường là những người cao tuổi. Đột quỵ não cũng thường xảy ra ở những đối tượng có các yếu tố nguy cơ đi kèm. Theo WHO 1989, có khoảng 20 yếu tố nguy cơ đối với chảy máu não như tăng huyết áp, nghiện rượu, đái tháo đường, nghiện thuốc lá, thời tiết thay đổi đột ngột, chấn thương tâm lí,... Bệnh nhân càng có nhiều yếu tố nguy cơ thì khả năng đột quỵ não càng cao . Trong nghiên cứu này đề cập đến các yếu tố nguy cơ như tăng huyết áp, đái tháo đường, tiền sử đột quỵ não, nghiện rượu, nghiện thuốc lá, rối loạn mỡ máu, rung nhĩ. Phần lớn các bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi có mắc các yếu tố nguy cơ với số lượng 119, tỷ lệ 79,3%. Trong đó, số bệnh nhân mắc đồng thời từ 2 yếu tố nguy cơ trở lên là 67 bệnh nhân chiếm tỷ lệ 44,7%. Tác giả Nguyễn Văn Chương cũng có kết quả tương tự khi nghiên cứu 1105 bệnh nhân đột quỵ não có 87,9% bệnh nhân có mắc các yếu tố nguy cơ, số bệnh nhân mắc đồng thời từ 2 yếu tố nguy cơ trở lên là 52,11% [1]. 2. Giá trị glucose máu Đột quỵ não kể cả đột quỵ nhồi máu hay đột quỵ chảy máu đều gây ra tình trạng thiếu oxy. Khi các tế bào não không đủ oxy cung cấp sẽ dẫn đến hàng loạt các biến đổi sinh học và chuyển hóa, trong đó có rối loạn chuyển hóa glucose. Nghiên cứu của chúng tôi làm xét nghiệm đường máu ít nhất 2 lần đối với mỗi bệnh nhân. Lần 1 ngay khi bệnh nhân vào viện, lần 2 là ngày thứ 10 sau khi nhập viện. Chúng tôi thấy có 33 bệnh nhân chiếm 22% là tăng đường máu phản ứng sau đột quỵ não, 32 bệnh nhân đái tháo đường chiếm tỉ lệ 27% và 85 bệnh nhân có mức đường máu bình thường sau đột quỵ não. Trần Văn Trung (2012) nghiên cứu ở NMN thấy giá trị glu- cose trung bình là 7,35 ± 2,91 mmol/l và tỷ lệ tăng đường máu là 47% [9]. Trên thực tế, tăng glucose máu hay gặp trong ĐQN vào khoảng 50% các trường hợp ĐQN, việc sử dụng insulin truyền tĩnh mạch đã làm hạn chế tình trạng thiếu máu não. Do vậy việc điều trị để hạ nồng độ glucose máu sau khi xuất hiện ĐQN là công việc thường làm và là một trong các biện pháp hữu hiệu hạn chế sự lan rộng vùng não bị TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 3 - 9/2015 12 tổn thương. Một nghiên cứu của Sarah E. Capes cho thấy tỉ lệ tăng đường máu của bệnh nhân ĐQN từ 20-50%. Tác giả cho rằng tổn thương não dù là đột quỵ thiếu máu não hay chảy máu não đều gây ra một tình trạng biến đổi đường máu như nhau. Tỷ lệ cao hay thấp, đối tượng có giảm dung nạp đường máu lúc đói cũng như bị đái tháo đường chủ yếu là do đối tượng bị ĐQN có hay không có, có nhiều hay ít yếu tố nguy cơ gây rối loạn đường máu [13]. Nồng độ glucose máu ở bệnh nhân ĐQN giai đoạn cấp tính biến đổi không những là tiêu chí để chẩn đoán, sàng lọc tình trạng rối loạn glucose, song còn là tiêu chí quan trọng làm cơ sở cho việc điều chỉnh glucose mà khi ĐQN thì điều chỉnh nồng độ glucose ở mức tối ưu là rất quan trọng, nó góp phần làm cho bệnh nhân nhanh chóng hồi phục. Bệnh nhân ĐQN không được duy trì nồng độ glucose máu cao hoặc thấp dưới ngưỡng cho phép. Theo khuyến cáo của Hội Tim mạch Mỹ, nồng độ glucose máu ở bệnh nhân ĐQN giai đoạn cấp tính được coi là hợp lý là trong khoảng 5,5 - 7,0mmol/l [14]. 3. Liên quan giữa biến đổi nồng độ glucose máu với một số đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng Liên quan giữa rối loạn ý thức với nồng độ glucose máu lúc vào viện, nghiên cứu này thấy nhóm glucose máu ≥ 7 mmol/l có 18 bệnh nhân rối loạn ý thức (27,7%). Tỷ lệ này cao hơn nhiều so với nhóm glucose < 7 mmol/l là 12,9%, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Nghiên cứu của Trần Ngọc Tâm ở 41 bệnh nhân ĐQN cấp có tăng glucose máu cũng nhân định: tăng glucose máu được coi như là yếu tố tiên lượng nặng trong giai đoạn cấp của ĐQN và có mối tương quan nghịch chặc chẽ giữa nồng độ glucose huyết với mức độ rối loạn ý thức theo thang điểm Glasgow khi vào viện [6]. Cũng như vậy, nghiên cứu của Nguyễn Thị Minh Đức thấy rối loạn ý thức gặp nhiều ở nhóm có tăng nồng độ glucose máu hơn nhóm có glucose máu bình thường sau đột quỵ [2]. Như vậy, rối loạn ý thức ngày đầu nhập viện có liên quan đến nồng độ glucose máu theo hướng nồng độ glucose máu tăng hơn bình thường thì tỷ lệ rối loạn ý thức tăng lên và đây cũng là một yếu tố liên quan đến tiên lượng bệnh. Kết quả nghiên cứu mối liên quan giữa nồng độ glucose máu với mức độ liệt lúc vào viện, chúng tôi thấy rằng ở nhóm glucose máu bình thường có 62,4% bệnh nhân liệt mức độ nhẹ và vừa đồng thời có 37,6% bệnh nhân liệt mức độ nặng. Đối với nhóm glucose máu ≥ 7mmol/l có 40% bệnh nhân liệt mức độ nhẹ và vừa, cũng như có 60% liệt mức độ nặng. Sự khác nhau về tỷ lệ giữa hai nhóm là có ý nghĩa thống kê. Kết quả này tương tự nghiên cứu của Trần Thanh Tâm. Tác giả nhận thấy ở nhóm glucose máu bình thường có 54,8% bệnh nhân liệt mức độ nhẹ và vừa cũng như có 45,2% bệnh nhân liệt mức độ nặng. Còn ở nhóm glucose máu ≥ 7mmol/l có 40,1% bệnh nhân liệt mức độ nhẹ và vừa, có 59,9% liệt mức độ nặng [7]. Như vậy, khi glucose máu ≥ 7mmol/l thì tỷ lệ gặp bệnh nhân liệt mức độ nặng nhiều hơn so với glucose máu bình thường. Các nghiên cứu trên động vật đã ghi nhận tác hại của tăng glucose máu đối với não. Tăng glu- cose máu dẫn đến làm tăng quá mức phù não, tổn thương hàng rào máu não, chuyển dạng xuất huyết trong ổ nhồi máu, do đó ảnh hưởng xấu đến tình trạng lâm sàng trong giai đoạn cấp của ĐQN. TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 3 - 9/2015 13 Liên quan giữa nồng độ glucose máu với hình thái đột quỵ não, các tác giả Nadya Kagansky, Shmuel Lewy, Hilla Knobler năm 2000 nghiên cứu vai trò của tăng glucose máu ở bệnh nhân đột quỵ não đã chỉ ra rằng tăng glucose máu ở bệnh nhân đột quỵ não lúc nhập viện có hoặc không có bệnh đái tháo đường cũng đều làm cho tiên tượng xấu hơn [12]. Tăng glucose máu và bệnh ĐTĐ liên quan đến tăng tỷ lệ chuyển dạng xuất huyết của nhồi máu não. Tăng glucose máu là yếu tố tiên lượng độc lập của xuất huyết não ở bệnh nhân đột quỵ thiếu máu não được điều trị bằng yếu tố hoạt hóa mô. Nồng độ glucose huyết thanh lớn hơn 11,1mmol/l làm tăng tỷ lệ xuất huyết thêm 25%. Tăng glucose máu và bệnh ĐTĐ liên quan đến tăng tỷ lệ chuyển dạng xuất huyết của nhồi máu não. Tăng glucose máu là yếu tố tiên lượng độc lập của xuất huyết não ở bệnh nhân đột quỵ thiếu máu não được điều trị bằng yếu tố hoạt hóa mô. Nồng độ glucose huyết thanh lớn hơn 11,1mmol/l làm tăng tỷ lệ xuất huyết thêm 25%. Trong một thử nghiệm lớn ở 1259 bệnh nhân đột quỵ não, các tác giả Bruno A, Biller J, Adams HP và cộng sự năm 2006 đã nhận thấy tăng glu- cose máu trong giai đoạn cấp của đột quỵ thiếu máu não đã làm cho tiên lượng của bệnh nhân xấu đi, ngoài ra tăng glucose máu còn làm tăng tỷ lệ chảy máu ở trong ổ nhồi máu [11]. Nhồi máu não và CMN là 2 thể lâm sàng thường gặp nhất của đột quỵ não. Nghiên cứu của Nguyễn Văn Ngọc số lượng bệnh nhân NMN nhiều hơn so với CMN ( 54/32 bệnh nhân tương ứng với 64,3/35,7%) [5]. Theo Nguyễn Văn Chương thì đột quỵ NMN chiếm tới 80% trường hợp nói chung. Nguyên nhân dẫn đến NMN cũng có nhiều hơn về số lượng so với CMN [1]. Trong nghiên cứu của chúng tôi, số bệnh nhân NMN là chủ yếu với 115 trường hợp (76,7%) còn bệnh nhân CMN là 35 (23,3%). Liên quan giữa glu- cose máu với hình thái ĐQN, nghiên cứu này nhận thấy ở nhóm NMN bệnh nhân có glucose < 7mmol/l có tỷ lệ (80%) cao hơn so với glucose ≥ 7mmol/l (72,3%), còn ở nhóm CMN thì ngược lại nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Rối loạn cơ vòng là một triệu chứng lâm sàng hay gặp của đột quỵ não. Trong nghiên cứu này gặp rối loạn cơ vòng là 30 bệnh nhân chiếm tỷ lệ 20%. Tỷ lệ này thấp hơn của Trần Thanh Tâm gặp rối loạn cơ vòng là 40,2% [7]. Sự khác nhau giữa các kết quả có thể là do cách chọn bệnh nhân vào nghiên cứu. Liên quan nồng độ glu- cose máu với rối loạn cơ vòng, nghiên cứu này cho thấy ở nhóm glucose ≥ 7mmol/l tỷ lệ có rối loạn cơ vòng là 30,8% còn ở nhóm glucose < 7mmol/l tỷ lệ này là 11,8%. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Như vậy, tỷ lệ rối loạn cơ vòng tăng theo sự tăng của glucose máu. Rối loạn lipid máu cũng là biểu hiện thường gặp ở bệnh nhân ĐQN không kể đó là đội quỵ NMN hay CMN. Rối loạn lipid máu mà đặc biệt là tăng nồng độ acid béo tự do có giá trị tiên lượng đánh giá khả năng tiến triển nguy cơ chuyển từ giảm dung nạp glucose sang bệnh đái tháo đường týp 2. Liên quan glucose máu với các chỉ số lipid máu, nghiên cứu nhận thấy ở nhóm có glucose < 7mmol/l tỷ lệ Cholesterol tăng là 34,1%, LDL-c tăng là 17,6% và nói chung các chỉ số lipid tăng là 49,2% thấp hơn nhóm glucose ≥ 7mmol/l với các tỷ lệ Cholesterol tăng là 55,4%, LDL-c tăng là 47,7% và nói chung các chỉ số lipid tăng là 72,3%, sự khác biệt có TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 3 - 9/2015 14 ý nghĩa thống kê. Các giá trị Triglycerid và HDL-c ở nhóm glucose ≥ 7mmol/l cao hơn nhóm glucose < 7mmol/l, tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Như vậy, các chỉ số lipid máu tăng theo mức tăng glucose máu. Điều này có thể do vai trò rối loạn chuyển hóa glucose và lipid máu liên quan với nhau. KẾT LUẬN Qua nghiên cứu 150 bệnh nhân đột quỵ não được điều trị tại khoa Nội chung Bệnh viện Quân y 13, chúng tôi có một số kết luận sau: 1. Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng - Tuổi: 36% bệnh nhân từ 70 tuổi trở lên, Tỷ lệ đột quỵ não tăng theo tuổi. Tuổi mắc bệnh trung bình là 63,9 ± 12,5. Tỷ lệ bệnh nhân nam chiếm đa số 64,7% (gần gấp đôi nữ). Bệnh nhân có thể trạng trung bình là 58%. Có 84% bệnh nhân khởi phát đột ngột, 56% khởi phát khi nghỉ, 69,3% khởi phát ban ngày. Về yếu tố nguy cơ: tỷ lệ bệnh nhân có 1 yếu tố là 79,3%; có 2 yếu tố là 44,7%. Yếu tố tăng huyết áp 69,3%; Rối loạn lipid máu 49,3%. - Tỷ lệ rối loạn glucose máu ở giai đoạn cấp của ĐQN: không tăng glucose máu 56,7%; tăng glucose máu phản ứng 22%; đái tháo đường 21,3%. 2. Mối liên quan giữa biến đổi nồng độ glucose máu với các đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng - Tỷ lệ rối loạn ý thức ở nhóm bệnh nhân có tăng glucose máu (27,7%) cao hơn nhóm không tăng glucose máu (12,9%). - Tỷ lệ mức độ liệt nặng ở nhóm bệnh nhân có tăng glucose máu (60%) cao hơn nhóm không tăng glucose máu (37,6%). - Tỷ lệ chảy máu não ở nhóm bệnh nhân có tăng glucose máu (27,7%) cao hơn nhóm không tăng glucose máu (20%), khác biệt không có ý nghĩa thống kê. - Tỷ lệ rối loạn cơ vòng ở nhóm bệnh nhân có tăng glucose máu (30,8%) cao hơn nhóm không tăng glucose máu (11,8%). - Tỷ lệ rối loạn lipid chung, choles- terol, LDL-c ở nhóm bệnh nhân có tăng glucose máu cao hơn nhóm không tăng glucose máu. * KIẾN NGHỊ: - Trong điều trị bệnh nhân đột quỵ não cần xét nghiệm glucose máu, HbA1C để đánh giá tình trạng rối loạn glucose máu. - Cần can thiệp tích cực hơn vào tình trạng tăng glucose máu khi mới bị đột quỵ và tránh dùng dung dịch truyền glucose cho bệnh nhân. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Văn Chương, Nguyễn Minh Hiện, Phạm Thanh Hòa (2007), “Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, giá trị chẩn đoán của các triệu chứng trên bệnh nhân đột quỵ chảy máu não”, Tạp chí y dược lâm sàng 108, tháng 11/2007. 2. Nguyễn Thị Minh Đức (2003), “Ng- hiên cứu ảnh hưởng của tăng đường huyết trên bệnh nhân tai biến mạch máu não”, Kỷ yếu các công trình nghiên cứu khoa học. Hội nội khoa Việt Nam, tr 145 - 153 3. Phạm Khuê (1999), “Đề phòng tai biến mạch máu não ở người cao tuổi”, NXBYH. 4. Trịnh Tiến Lực, Hà Hữu Quý, Lê Văn Thính và CS (2008), “Tình hình đột quỵ não tại khoa thần kinh Bệnh viện Bạch TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 3 - 9/2015 15 Mai năm 2007”, Sinh hoạt khoa học của Hội thần kinh học khu vực Hà Nội, tháng 9/2008. 5. Nguyễn Văn Ngọc (2008), “Ng- hiên cứu biến đổi đường máu ở bệnh nhân đột quỵ não”, Luận văn chuyên khoa II, HVQY. 6. Trần Ngọc Tâm (1999). "Nghiên cứu tăng đường huyết ở bệnh nhân tai biến mạch máu não giai đoạn cấp qua HbA1C và nghiệm pháp dung nạp đường tại khoa Hồi sức cấp cứu Bệnh viện Trung ương Huế. Luận văn Thạc sỹ y học. Đại học y khoa Huế. 7. Trần Thanh Tâm (2009), “Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng biến đổi glucose huyết ở bệnh nhân đột quỵ chảy máu não trong tuần đầu”, Luận văn thạc sỹ y học, HVQY. 8. Nguyễn Văn Thông, Nguyễn Hoàng Ngọc và CS (2007), “Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng, một số yếu tố nguy cơ của 1378 bệnh nhân đột quỵ tại Bệnh viện TƯQĐ 108”, Tạp chí Y dược lâm sàng 108, tháng 11/2007. 9. Trần Văn Trung (2012), “Nghiên cứu mối liên quan một số yếu tố nguy cơ với thang điểm Henry và đường kính ổ nhồi máu não trên CT sọ não ở bệnh nhân nhồi máu não”,Hội nghị khoa học Bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Định 8/2012. . 10. Nguyễn Văn Tuyến, Nguyễn Văn Thông và CS (2011), “Nghiên cứu sàng lọc, đánh giá rối loạn nuốt ở bệnh nhân đột quỵ não”, Tạp chí Y Dược lâm sàng 108, tháng 3/2011. 11. Bruno A; Biller J; Adams HP (1999). "Acute blood glucose level and outcome from ischemic stroke". Neurol- ogy. Jan 15; 52(2); 280 - 4. 12. Nadya Kagansky, Shmuel Lewy, Hilla Knobler (2000). "The role of hyper- glycemia in acute stroke". Arch Neurol, vol 58: 1209 - 11. 13. Sarah E. Capes MD; Dereck Hunt MD; Klas Malmberg MD et al (2001), “Stress Hyperglycemia and Prognosis of Stroke in Nondiabetic and Diabetic Pa- tients”, Stroke, 32:2426-32. 14. Umegaki et al (2008). "Glucose control levels, ischemic brain lesions and hyperinsulinaemia were associated with cognitive dysfunction in diabetic elderly". Age Aeing; o:51-8. 15. Yun-Mi Song, Joohon Sung, George Davey Smith et al (2004), “Body mass index and ischemic and hemorrhagic stroke”, Stroke, 35:831.
File đính kèm:
nghien_cuu_lien_quan_roi_loan_glucose_mau_voi_mot_so_dac_die.pdf

