Nghiên cứu liên quan rối loạn glucose máu với một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng ở bệnh nhân đột quỵ não tại Bệnh viện Quân Y 13

Mục tiêu: Nghiên cứu rối loạn glucose máu và mối liên quan với một số triệu chứng

lâm sàng, cận lâm sàng ở bệnh nhân đột quỵ não.

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu:

Gồm 150 bệnh nhân đột quỵ não điều trị tại khoa Nội chung Bệnh viện Quân y 13

từ tháng 10/2010 – 3/2012.

Tất cả các bệnh nhân đều được xét nghiệm glucose máu ít nhất 2 lần: lúc vào viện

và 10 ngày sau khi vào viện. Glucose máu được lấy vào sáng sớm lúc đói. Những bệnh

nhân chẩn đoán đái tháo đường và tăng glucose máu phản ứng đều được làm HbA1C để

xác định

pdf 11 trang phuongnguyen 100
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu liên quan rối loạn glucose máu với một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng ở bệnh nhân đột quỵ não tại Bệnh viện Quân Y 13", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu liên quan rối loạn glucose máu với một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng ở bệnh nhân đột quỵ não tại Bệnh viện Quân Y 13

Nghiên cứu liên quan rối loạn glucose máu với một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng ở bệnh nhân đột quỵ não tại Bệnh viện Quân Y 13
TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 3 - 9/2015
5
(1) Bệnh viện Quân y 13
Người phản hồi (Corresponding): Huỳnh Ngọc Cẩn ([email protected])
Ngày nhận bài: 04/5/2015; Ngày phản biện đánh giá: 15/5/2015
NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN RỐI LOẠN GLUCOSE MÁU 
VỚI MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG 
Ở BỆNH NHÂN ĐỘT QUỴ NÃO TẠI BỆNH VIỆN QUÂN Y 13
Huỳnh Ngọc Cẩn1, Đỗ Việt Cảnh1
TÓM TẮT
Mục tiêu: Nghiên cứu rối loạn glucose máu và mối liên quan với một số triệu chứng 
lâm sàng, cận lâm sàng ở bệnh nhân đột quỵ não.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu:
Gồm 150 bệnh nhân đột quỵ não điều trị tại khoa Nội chung Bệnh viện Quân y 13 
từ tháng 10/2010 – 3/2012.
Tất cả các bệnh nhân đều được xét nghiệm glucose máu ít nhất 2 lần: lúc vào viện 
và 10 ngày sau khi vào viện. Glucose máu được lấy vào sáng sớm lúc đói. Những bệnh 
nhân chẩn đoán đái tháo đường và tăng glucose máu phản ứng đều được làm HbA1C để 
xác định.
Kết quả:
Tỷ lệ rối loạn glucose máu ở giai đoạn cấp của đột quỵ não: không tăng glucose máu 
56,7%; tăng glucose máu phản ứng 22%; đái tháo đường 21,3%. 
Ở nhóm bệnh nhân có tăng glucose máu: tỷ lệ rối loạn ý thức, mức độ liệt nặng, 
chảy máu não, rối loạn cơ vòng, rối loạn lipid cao hơn nhóm không tăng glucose máu.
STYDY OF THE ASSOCATION BETWEEN PREVALENCE OF 
GLYCEMIC DISORDERS AND CLINICAL CHARACTERISTICS, 
SUBCLINICAL CHARACTERISTICS IN STROKE PATIENTS 
AT 13 MILITARY HOSPITAL
SUMMARY
Objective: To evaluate the prevalence of disorders of glucose metabolism and the 
relationship between disorders of glucose metabolism and common clinical & laboratory 
features in stroke patients.
Subjects and methods: 150 stroke patients were diagnosed and treated at Internal 
Medicine Department - 13 Military Hospital from 10/2010 to 3/2012. All patients are 
required the blood glucose tests at least twice: at the hospitalization and 10 days after 
discharge. The blood is taken in the early morning. The patients diagnosed with diabetes 
TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 3 - 9/2015
6
ĐẶT VẤN ĐỀ
Đột quỵ não là một cấp cứu nội khoa 
thường gặp trong lâm sàng. Ngày nay với 
sự tiến bộ trong kỹ thuật chẩn đoán và các 
phương pháp điều trị hiện đại, nhưng bệnh 
này vẫn còn diễn biến phức tạp với tỷ lệ tử 
vong cao. Đột quỵ não đã và đang là một 
vấn đề thời sự cấp thiết của y học đối với 
mọi nước, mọi dân tộc ở người cao tuổi 
và cả người trẻ tuổi với mọi thành phần 
trong xã hội. Một trong những yếu tố nguy 
cơ của bệnh nhân đột quỵ não là rối loạn 
glucose máu. Nghiên cứu của nhiều tác giả 
nhận thấy ở bệnh nhân không có tiền sử 
đái tháo đường bị đột quỵ não khi glucose 
máu cao hơn bình thường làm tăng nguy cơ 
tử vong lên 2-3 lần và giảm khả năng hồi 
phục so với những bệnh nhân có glucose 
máu bình thường. 
Với mong muốn tìm hiểu những biến 
đổi glucose máu và ảnh hưởng của nó đối 
với bệnh nhân đột quỵ não nhằm góp phần 
vào việc điều trị bệnh ngày càng hiệu quả, 
chúng tôi tiến hành đề tài “Nghiên cứu liên 
quan rối loạn glucose máu với một số đặc 
điểm lâm sàng, cận lâm sàng ở bệnh nhân 
đột quỵ não tại Bệnh viện Quân y 13”
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Gồm 150 bệnh nhân đột quỵ não 
(ĐQN) điều trị tại khoa Nội chung Bệnh 
viện Quân y 13 từ tháng 10/2010 – 3/2012.
- Chẩn đoán ĐQN dựa vào định nghĩa 
của WHO 1989 và đái tháo đường (ĐTĐ) 
theo tiêu chuẩn WHO 1998.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Được tiến hành theo phương pháp tiến 
cứu, mô tả, cắt ngang: 
Tất cả các bệnh nhân đều được hỏi 
bệnh và thăm khám ghi chép triệu chứng 
lâm sàng, xét nghiệm cận lâm sàng theo 
mẫu bệnh án thống nhất.
- Khám thần kinh: Đánh giá mức độ 
rối loạn ý thức theo thang điểm Glassgow 
của Teasdale và Jenett (1978). Đánh giá 
độ liệt của chi theo sức cơ của thang điểm 
Henry (1984). Khám tổn thương các dây 
thần kinh sọ não...
- Xét nghiệm định lượng glucose máu 
tĩnh mạch bằng phương pháp men glucose 
oxydase và định lượng các thành phần 
Lipid máu trên máy AU400 tại khoa Xét 
nghiệm Bệnh viện 13. Định lượng HbA1C: 
tỷ lệ % của HbA1C xác định bằng phương 
pháp sắc ký cột tròn thay đổi ion dương 
trên máy Biorad Diastat của khoa xét 
nghiệm Bệnh viện 13. Đánh giá rối loạn 
Lipid máu dựa theo tiêu chuẩn Hội Tim 
mạch học Việt Nam.
- Chụp CT sọ não được thực hiện tại 
khoa X quang Bệnh viện 13.
- Các số liệu được xử lý theo phương 
pháp thống kê y học bằng phần mềm Epi-
info 6.0. 
mellitus and hyperglycemic response is tested HbA1c to determine.
Results: Disorders rate of glucose metabolism at the acute level of brain stroke: The 
patient with non-hyperglycemia 56,7%; hyperglycemic response 22%; diabetes mellitus 
21.3%. In the patients with hyperglycemia: higher rate of disorders of consciousness, 
severe paralysis, brain hemorrhage, sphincter dysfunction, lipid disorders than patients 
TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 3 - 9/2015
7
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Bảng 3.1. Đặc điểm chung nhóm bệnh nhân nghiên cứu 
Đặc điểm Kiểu phân bố Giá trị
Tuổi (năm) Trung bình 63,9 ± 12,5
Giới Nam/nữ 97/53 (64,7%/35,3%)
BMI (kg/m2)
< 18,5 5 (3,3%)
18,5 – 22,9 87 (58%)
23 – 25 48 (32%)
> 25 10 (6,7%)
 Tuổi trung bình các bệnh nhân nghiên cứu là 63,9 ± 12,5. Số bệnh nhân nam là 97 bệnh 
nhân (64,7%). BMI đa số bệnh nhân có thể trạng trung bình: 87 bệnh nhân (58%).
Bảng 3.2. Phân bố bệnh nhân theo nhóm tuổi và giới tính
 Nhóm tuổi
Giới
< 50 50 – 59 60 -69 ≥ 70 Tổng
Nam
Số BN 14 27 26 30 97
Tỷ lệ % 14,4 27,8 26,8 30,9 100
Nữ
Số BN 5 8 16 24 53
Tỷ lệ % 9,4 15,1 30,2 45,3 100
Cộng
Số BN 19 35 42 54 150
Tỷ lệ % 12,7 23,3 28,0 36,0 100
 Trong số 150 bệnh nhân nghiên cứu nhóm tuổi mắc bệnh nhiều nhất là từ 70 tuổi trở lên 
kể cả nam và nữ.
Bảng 3.3. Khởi phát bệnh
Khởi phát bệnh Số BN Tỷ lệ %
Cách khởi phát
Nặng từ đầu 126 84
Nặng dần 24 16
Hoàn cảnh 
khởi phát
Khi nghỉ ngơi 84 56
Sau Stress 26 17,3
Sau gắng sức 28 18,7
Sau uống rượu bia 12 8,0
Thời gian xuất hiện
6 giờ – 18 giờ 104 69,3
18 giờ – 6 giờ 46 30,7
 Phần lớn các bệnh nhân khởi phát đột ngột nặng từ đầu (84%). ĐQN xuất hiện khi nghỉ 
ngơi gặp nhiều nhất (56%). Thời gian xuất hiện ban ngày (69,3%) nhiều hơn ban đêm.
TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 3 - 9/2015
8
Bảng 3.4. Các yếu tố nguy cơ
YTNC THA ĐTĐ
Tiền sử 
ĐQN
Thuốc 
lá
Rượu RLLP
Rung 
nhĩ
Có 
YTNC
≥ 2 
YTNC
Số BN 104 32 17 44 37 89 11 119 67
Tỷ lệ % 69,3 21,3 11,3 29,3 24,7 59,3 7,3 79,3 44,7
 Tiền sử THA là yếu tố nguy cơ chiếm tỷ lệ cao (69,3%). Bệnh nhân có 2 yếu tố nguy cơ 
trở lên là 44,7%. 
Bảng 3.5. Phân nhóm bệnh nhân 
Nhóm N1 (n=85) N2 (n=33) N3 (n=32) Tổng
Số BN 85 33 32 150
Tỷ lệ % 56,7 22,0 21,3 100
Trong số bệnh nhân nghiên cứu có 33 bệnh nhân (22,0%) tăng glucose máu phản ứng sau 
đột quỵ não, 32 bệnh nhân ĐTĐ (21,3%) và 85 bệnh nhân có glucose máu bình thường (56,7%) 
khi xảy ra đột quỵ não.
Bảng 3.6. Liên quan giữa rối loạn ý thức với nồng độ glucose máu lúc vào viện
 RLYT
Glucose
Không RLYT Có RLYT
p
Số BN Tỷ lệ % Số BN Tỷ lệ %
< 7 mmol/l
(n = 85)
74 87,1 11 12,9
< 0,05
≥ 7 mmol/l
(n = 65)
47 72,3 18 27,7
Tỷ lệ rối loạn ý thức ở nhóm glucose ≥ 7 mmol/l cao hơn nhóm glucose < 7mmol/l, sự 
khác biệt có ý nghĩa thống kê.
Bảng 3.7. Liên quan giữa glucose máu với mức độ liệt ngày vào viện
 Độ liệt
Glucose 
I, II, III IV, V
p
Số BN Tỷ lệ % Số BN Tỷ lệ %
< 7 mmol/l
(n = 85)
53 62,4 32 37,6
< 0,01
≥ 7 mmol/l
(n = 65)
26 40,0 39 60,0
TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 3 - 9/2015
9
Tỷ lệ mức độ liệt nặng ở nhóm glucose ≥ 7 mmol/l cao hơn nhóm glucose < 7mmol/l, 
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. 
Bảng 3.8. Liên quan glucose với hình thái đột quỵ não
 Hình thái
Glucose 
Nhồi máu não Xuất huyết não
p
Số BN Tỷ lệ % Số BN Tỷ lệ %
< 7 mmol/l
(n = 85)
68 80,0 17 20,0
> 0,05
≥ 7 mmol/l
(n = 65)
47 72,3 18 27,7
Tỷ lệ bệnh nhân xuất huyết não ở nhóm glucose ≥ 7 mmol/l cao hơn nhóm glucose < 
7mmol/l, sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê. 
Bảng 3.9. Liên quan glucose máu với rối loạn cơ vòng
 Cơ vòng
Glucose 
Có rối loạn Không rối loạn
P
Số BN Tỷ lệ % Số BN Tỷ lệ %
< 7 mmol/l
(n = 85)
10 11,8 75 88,2
< 0,01
≥ 7 mmol/l
(n = 65)
20 30,8 45 69,2
Tỷ lệ rối loạn cơ vòng ở nhóm glucose ≥ 7 mmol/l cao hơn nhóm glucose < 7mmol/l, sự 
khác biệt có ý nghĩa thống kê. 
Bảng 3.10. Liên quan glucose máu với rối loạn lipid máu
 Glucose 
Rối loạn
< 7 mmol/l (n = 85) ≥ 7 mmol/l (n = 65)
P
Số BN Tỷ lệ % Số BN Tỷ lệ %
Cholesterol 29 34,1 36 55,4 < 0,01
Triglycerides 19 22,4 17 26,2 > 0,05
LDL-c 15 17,6 31 47,7 < 0,01
HDL-c 18 21,2 14 21,5 > 0,05
Chung 42 49,4 47 72,3 < 0,01
Tỷ lệ rối loạn cholesterol, LDL-C và rối loạn chung ở nhóm glucose ≥ 7 mmol/l cao hơn 
nhóm glucose < 7mmol/l, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.
TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 3 - 9/2015
10
BÀN LUẬN
1. Đặc điểm chung của đối tượng 
nghiên cứu
Tuổi là một yếu tố ngẫu nhiên trong 
lâm sàng. Đột quỵ não thường xảy ra ở 
người cao tuổi, tuổi càng cao thì nguy cơ 
ĐQN càng tăng, điều này đã được nhiều 
nghiên cứu kinh điển khẳng định về vai 
trò của tuổi đối với ĐQN. Sự gia tăng của 
tuổi là yếu tố nguy cơ độc lập quan trọng 
trong ĐQN [3]. Trong nghiên cứu này thấy 
nhóm tuổi ≥ 70 chiếm tỷ lệ cao nhất 36%. 
Tuổi trung bình của các bệnh nhân trong 
nhóm nghiên cứu là 63,9 ± 12,5. Như vậy, 
chúng tôi gặp bệnh này chủ yếu ở người 
cao tuổi. Kết quả này cũng phù hợp với 
nhận xét của Nguyễn Văn Ngọc (2008) khi 
nghiên cứu rối loạn glucose máu ở bệnh 
nhân ĐQN. Theo tác giả cho thấy người 
cao tuổi thường gặp hơn với tuổi trung bình 
ở bệnh nhân CMN là 67,4 ± 11,2 và bệnh 
nhân NMN là 66,8 ± 12,3 [5]. Nguyễn Văn 
Tuyến, Nguyễn Văn Thông và CS (2011) 
thấy tuổi trung bình 63,34 ± 12,52 [10]. 
Trong nghiên cứu này cũng cho thấy tỷ lệ 
ĐQN tăng dần theo tuổi, thấp nhất ở nhóm 
tuổi <50 (9,4%) cao nhất ở nhóm tuổi từ 
70 trở lên (45,3%). Hơn nữa, theo thời 
gian tuổi ngày càng tăng lên thì các yếu 
tố nguy cơ tim mạch cũng tăng lên nhất là 
các nguyên nhân như sự lão hóa, THA, xơ 
vữa động mạch, bệnh lý tim mạch,... Đồng 
thời các bệnh nhân cao tuổi cũng thường 
có thời gian bị ĐTĐ lâu hơn, bệnh lý này 
có thể góp phần làm tăng tỷ lệ ĐQN và 
làm cho việc phục hồi các di chứng sau đột 
quỵ khó khăn hơn [3]. 
Phân bố về giới trong nghiên cứu này 
có số bệnh nhân nam (97) nhiều hơn nữ 
(53) với các tỷ lệ tương ứng là 64,7% so 
với 35,3%. Khi khảo sát theo từng nhóm 
tuổi, số bệnh nhân nam cũng nhiều hơn 
nữ. Kết quả này tương tự với nhận xét của 
Giáo sư Phạm Khuê, tỷ lệ ĐQN nam/nữ là 
2/1[3]. Nguyễn Văn Tuyến, Nguyễn Văn 
Thông và CS (2011) nghiên cứu 240 bệnh 
nhân ĐQN thấy nam là 75,8% [10]. Như 
vậy, mặc dù các tỷ lệ cụ thể của từng ng-
hiên cứu có khác nhau nhưng tác giả đều 
thống nhất nhận xét: trong ĐQN tỷ lệ nam 
nhiều hơn nữ với nam gấp khoảng hai lần 
nữ.
Về chỉ số khối cơ thể (BMI): Kết quả 
nghiên cứu cho thấy phần lớn bệnh nhân 
có thể trạng trung bình (87/150) với tỷ lệ 
58,0%, tỷ lệ thừa cân (48/150) là 32%, tỷ 
lệ béo phì (10/150) 6,7%. Các tác giả Yun-
Mi Song, Joohon Sung và CS cho rằng 
BMI là một yếu tố nguy cơ của cả đột quỵ 
thiếu máu não và đột quỵ chảy máu não. 
Đối với đột quỵ thiếu máu khi BMI tăng 
thêm 1kg/m2 thì khả năng xuất hiện đột 
quỵ tăng 11%. Còn đột quỵ chảy máu thì 
với BMI>23kg/m2 sẽ làm tăng nguy cơ 
đột quỵ [15].
Khởi phát bệnh đột ngột là một đặc 
trưng của bệnh lý mạch máu não. Đây 
cũng là một trong những tiêu chuẩn trong 
định nghĩa ĐQN của WHO. Biểu hiện 
khởi phát đột ngột gặp chủ yếu trong ng-
hiên cứu này chiếm tỷ lệ 84%, với các triệu 
chứng nặng ngay từ đầu. Tác giả Nguyễn 
Văn Chương cũng có nhận xét tương tự 
với tỷ lệ khởi phát đột ngột là 81,9% [1]. 
Tác giả Nguyễn Văn Thông cũng có nhận 
xét trong ĐQN bệnh khởi phát đột ngột là 
chủ yếu. Qua kết quả nghiên cứu của nhiều 
tác giả có thể thấy rằng khởi phát bệnh đột 
ngột mang tính đặt trưng riêng của bệnh lý 
ĐQN [8].
Thời điểm khởi phát bệnh, theo nhiều 
TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 3 - 9/2015
11
nghiên cứu, ĐQN có thể xảy ra ở bất kỳ 
thời điểm nào trong ngày. Trong nghiên 
cứu của chúng tôi thời điểm khởi phát 
ĐQN từ 6 – 18 giờ chiếm tỷ lệ 69,3%. Tác 
giả Nguyễn Văn Chương cũng nhận thấy 
thời điểm khởi phát ĐQN thường vào 6 – 
18 giờ với tỷ lệ là 65,34%, riêng đột quỵ 
CMN ở khoảng thời gian trên là 56% [1]. 
Các tác giả Trịnh Tiến Lực, Hà Hữu Quý, 
Lê Văn Thính và cộng sự thấy thời điểm 
khởi phát từ 6 – 18 giờ là 61,2% [4]. Ng-
hiên cứu của Nguyễn Văn Thông và CS 
thấy thời điểm khởi phát đột quỵ CMN 
ban ngày là 58,1% [8]. Qua kết quả nghiên 
cứu của nhiều tác giả có thể kết luận rằng 
ĐQN thời điểm khởi phát ban ngày gặp 
nhiều hơn ban đêm. 
Hoàn cảnh khởi phát ĐQN rất đa dạng. 
Bệnh có thể xảy ra sau một hoạt động quá 
mức về thể chất hoặc tinh thần nhưng cũng 
có thể xảy ra khi đang nghỉ ngơi. Trong 
nghiên cứu này cho thấy ĐQN xuất hiện 
khi nghỉ ngơi chiếm tỷ lệ cao nhất (56%). 
Kết quả này cũng phù hợp với nghiên cứu 
của các tác giả Trịnh Tiến Lực, Hà Hữu 
Quý, Lê Văn Thính và CS. Theo nhóm ng-
hiên cứu này tỷ lệ ĐQN xuất hiện khi nghỉ 
ngơi là 53,1% [4]. Như vậy, ĐQN có thể 
xuất hiện trong bất kỳ hoàn cảnh nào trong 
đó xuất hiện lúc nghỉ ngơi là hay gặp nhất.
Về các yếu tố nguy cơ: Bệnh nhân 
ĐQN nói chung thường là những người 
cao tuổi. Đột quỵ não cũng thường xảy 
ra ở những đối tượng có các yếu tố nguy 
cơ đi kèm. Theo WHO 1989, có khoảng 
20 yếu tố nguy cơ đối với chảy máu não 
như tăng huyết áp, nghiện rượu, đái tháo 
đường, nghiện thuốc lá, thời tiết thay đổi 
đột ngột, chấn thương tâm lí,... Bệnh nhân 
càng có nhiều yếu tố nguy cơ thì khả năng 
đột quỵ não càng cao . Trong nghiên cứu 
này đề cập đến các yếu tố nguy cơ như tăng 
huyết áp, đái tháo đường, tiền sử đột quỵ 
não, nghiện rượu, nghiện thuốc lá, rối loạn 
mỡ máu, rung nhĩ. Phần lớn các bệnh nhân 
trong nghiên cứu của chúng tôi có mắc 
các yếu tố nguy cơ với số lượng 119, tỷ lệ 
79,3%. Trong đó, số bệnh nhân mắc đồng 
thời từ 2 yếu tố nguy cơ trở lên là 67 bệnh 
nhân chiếm tỷ lệ 44,7%. Tác giả Nguyễn 
Văn Chương cũng có kết quả tương tự khi 
nghiên cứu 1105 bệnh nhân đột quỵ não có 
87,9% bệnh nhân có mắc các yếu tố nguy 
cơ, số bệnh nhân mắc đồng thời từ 2 yếu tố 
nguy cơ trở lên là 52,11% [1].
2. Giá trị glucose máu
Đột quỵ não kể cả đột quỵ nhồi máu 
hay đột quỵ chảy máu đều gây ra tình trạng 
thiếu oxy. Khi các tế bào não không đủ 
oxy cung cấp sẽ dẫn đến hàng loạt các biến 
đổi sinh học và chuyển hóa, trong đó có 
rối loạn chuyển hóa glucose. Nghiên cứu 
của chúng tôi làm xét nghiệm đường máu 
ít nhất 2 lần đối với mỗi bệnh nhân. Lần 
1 ngay khi bệnh nhân vào viện, lần 2 là 
ngày thứ 10 sau khi nhập viện. Chúng tôi 
thấy có 33 bệnh nhân chiếm 22% là tăng 
đường máu phản ứng sau đột quỵ não, 32 
bệnh nhân đái tháo đường chiếm tỉ lệ 27% 
và 85 bệnh nhân có mức đường máu bình 
thường sau đột quỵ não. Trần Văn Trung 
(2012) nghiên cứu ở NMN thấy giá trị glu-
cose trung bình là 7,35 ± 2,91 mmol/l và 
tỷ lệ tăng đường máu là 47% [9]. Trên thực 
tế, tăng glucose máu hay gặp trong ĐQN 
vào khoảng 50% các trường hợp ĐQN, 
việc sử dụng insulin truyền tĩnh mạch đã 
làm hạn chế tình trạng thiếu máu não. Do 
vậy việc điều trị để hạ nồng độ glucose 
máu sau khi xuất hiện ĐQN là công việc 
thường làm và là một trong các biện pháp 
hữu hiệu hạn chế sự lan rộng vùng não bị 
TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 3 - 9/2015
12
tổn thương. Một nghiên cứu của Sarah E. 
Capes cho thấy tỉ lệ tăng đường máu của 
bệnh nhân ĐQN từ 20-50%. Tác giả cho 
rằng tổn thương não dù là đột quỵ thiếu 
máu não hay chảy máu não đều gây ra một 
tình trạng biến đổi đường máu như nhau. 
Tỷ lệ cao hay thấp, đối tượng có giảm 
dung nạp đường máu lúc đói cũng như bị 
đái tháo đường chủ yếu là do đối tượng bị 
ĐQN có hay không có, có nhiều hay ít yếu 
tố nguy cơ gây rối loạn đường máu [13].
Nồng độ glucose máu ở bệnh nhân 
ĐQN giai đoạn cấp tính biến đổi không 
những là tiêu chí để chẩn đoán, sàng lọc 
tình trạng rối loạn glucose, song còn là 
tiêu chí quan trọng làm cơ sở cho việc 
điều chỉnh glucose mà khi ĐQN thì điều 
chỉnh nồng độ glucose ở mức tối ưu là 
rất quan trọng, nó góp phần làm cho bệnh 
nhân nhanh chóng hồi phục. Bệnh nhân 
ĐQN không được duy trì nồng độ glucose 
máu cao hoặc thấp dưới ngưỡng cho phép. 
Theo khuyến cáo của Hội Tim mạch Mỹ, 
nồng độ glucose máu ở bệnh nhân ĐQN 
giai đoạn cấp tính được coi là hợp lý là 
trong khoảng 5,5 - 7,0mmol/l [14]. 
3. Liên quan giữa biến đổi nồng độ 
glucose máu với một số đặc điểm lâm 
sàng và cận lâm sàng 
Liên quan giữa rối loạn ý thức với nồng 
độ glucose máu lúc vào viện, nghiên cứu 
này thấy nhóm glucose máu ≥ 7 mmol/l có 
18 bệnh nhân rối loạn ý thức (27,7%). Tỷ lệ 
này cao hơn nhiều so với nhóm glucose < 
7 mmol/l là 12,9%, sự khác biệt có ý nghĩa 
thống kê. Nghiên cứu của Trần Ngọc Tâm 
ở 41 bệnh nhân ĐQN cấp có tăng glucose 
máu cũng nhân định: tăng glucose máu 
được coi như là yếu tố tiên lượng nặng 
trong giai đoạn cấp của ĐQN và có mối 
tương quan nghịch chặc chẽ giữa nồng độ 
glucose huyết với mức độ rối loạn ý thức 
theo thang điểm Glasgow khi vào viện [6]. 
Cũng như vậy, nghiên cứu của Nguyễn Thị 
Minh Đức thấy rối loạn ý thức gặp nhiều 
ở nhóm có tăng nồng độ glucose máu hơn 
nhóm có glucose máu bình thường sau 
đột quỵ [2]. Như vậy, rối loạn ý thức ngày 
đầu nhập viện có liên quan đến nồng độ 
glucose máu theo hướng nồng độ glucose 
máu tăng hơn bình thường thì tỷ lệ rối loạn 
ý thức tăng lên và đây cũng là một yếu tố 
liên quan đến tiên lượng bệnh. 
Kết quả nghiên cứu mối liên quan 
giữa nồng độ glucose máu với mức độ liệt 
lúc vào viện, chúng tôi thấy rằng ở nhóm 
glucose máu bình thường có 62,4% bệnh 
nhân liệt mức độ nhẹ và vừa đồng thời có 
37,6% bệnh nhân liệt mức độ nặng. Đối 
với nhóm glucose máu ≥ 7mmol/l có 40% 
bệnh nhân liệt mức độ nhẹ và vừa, cũng 
như có 60% liệt mức độ nặng. Sự khác 
nhau về tỷ lệ giữa hai nhóm là có ý nghĩa 
thống kê. Kết quả này tương tự nghiên cứu 
của Trần Thanh Tâm. Tác giả nhận thấy ở 
nhóm glucose máu bình thường có 54,8% 
bệnh nhân liệt mức độ nhẹ và vừa cũng 
như có 45,2% bệnh nhân liệt mức độ nặng. 
Còn ở nhóm glucose máu ≥ 7mmol/l có 
40,1% bệnh nhân liệt mức độ nhẹ và vừa, 
có 59,9% liệt mức độ nặng [7]. Như vậy, 
khi glucose máu ≥ 7mmol/l thì tỷ lệ gặp 
bệnh nhân liệt mức độ nặng nhiều hơn so 
với glucose máu bình thường. Các nghiên 
cứu trên động vật đã ghi nhận tác hại của 
tăng glucose máu đối với não. Tăng glu-
cose máu dẫn đến làm tăng quá mức phù 
não, tổn thương hàng rào máu não, chuyển 
dạng xuất huyết trong ổ nhồi máu, do đó 
ảnh hưởng xấu đến tình trạng lâm sàng 
trong giai đoạn cấp của ĐQN.
TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 3 - 9/2015
13
Liên quan giữa nồng độ glucose máu 
với hình thái đột quỵ não, các tác giả 
Nadya Kagansky, Shmuel Lewy, Hilla 
Knobler năm 2000 nghiên cứu vai trò của 
tăng glucose máu ở bệnh nhân đột quỵ não 
đã chỉ ra rằng tăng glucose máu ở bệnh 
nhân đột quỵ não lúc nhập viện có hoặc 
không có bệnh đái tháo đường cũng đều 
làm cho tiên tượng xấu hơn [12]. Tăng 
glucose máu và bệnh ĐTĐ liên quan đến 
tăng tỷ lệ chuyển dạng xuất huyết của 
nhồi máu não. Tăng glucose máu là yếu 
tố tiên lượng độc lập của xuất huyết não 
ở bệnh nhân đột quỵ thiếu máu não được 
điều trị bằng yếu tố hoạt hóa mô. Nồng độ 
glucose huyết thanh lớn hơn 11,1mmol/l 
làm tăng tỷ lệ xuất huyết thêm 25%. Tăng 
glucose máu và bệnh ĐTĐ liên quan đến 
tăng tỷ lệ chuyển dạng xuất huyết của nhồi 
máu não. Tăng glucose máu là yếu tố tiên 
lượng độc lập của xuất huyết não ở bệnh 
nhân đột quỵ thiếu máu não được điều trị 
bằng yếu tố hoạt hóa mô. Nồng độ glucose 
huyết thanh lớn hơn 11,1mmol/l làm tăng 
tỷ lệ xuất huyết thêm 25%. Trong một thử 
nghiệm lớn ở 1259 bệnh nhân đột quỵ não, 
các tác giả Bruno A, Biller J, Adams HP và 
cộng sự năm 2006 đã nhận thấy tăng glu-
cose máu trong giai đoạn cấp của đột quỵ 
thiếu máu não đã làm cho tiên lượng của 
bệnh nhân xấu đi, ngoài ra tăng glucose 
máu còn làm tăng tỷ lệ chảy máu ở trong 
ổ nhồi máu [11]. Nhồi máu não và CMN 
là 2 thể lâm sàng thường gặp nhất của đột 
quỵ não. Nghiên cứu của Nguyễn Văn 
Ngọc số lượng bệnh nhân NMN nhiều hơn 
so với CMN ( 54/32 bệnh nhân tương ứng 
với 64,3/35,7%) [5]. Theo Nguyễn Văn 
Chương thì đột quỵ NMN chiếm tới 80% 
trường hợp nói chung. Nguyên nhân dẫn 
đến NMN cũng có nhiều hơn về số lượng 
so với CMN [1]. Trong nghiên cứu của 
chúng tôi, số bệnh nhân NMN là chủ yếu 
với 115 trường hợp (76,7%) còn bệnh nhân 
CMN là 35 (23,3%). Liên quan giữa glu-
cose máu với hình thái ĐQN, nghiên cứu 
này nhận thấy ở nhóm NMN bệnh nhân có 
glucose < 7mmol/l có tỷ lệ (80%) cao hơn 
so với glucose ≥ 7mmol/l (72,3%), còn ở 
nhóm CMN thì ngược lại nhưng sự khác 
biệt không có ý nghĩa thống kê.
Rối loạn cơ vòng là một triệu chứng 
lâm sàng hay gặp của đột quỵ não. Trong 
nghiên cứu này gặp rối loạn cơ vòng là 30 
bệnh nhân chiếm tỷ lệ 20%. Tỷ lệ này thấp 
hơn của Trần Thanh Tâm gặp rối loạn cơ 
vòng là 40,2% [7]. Sự khác nhau giữa các 
kết quả có thể là do cách chọn bệnh nhân 
vào nghiên cứu. Liên quan nồng độ glu-
cose máu với rối loạn cơ vòng, nghiên cứu 
này cho thấy ở nhóm glucose ≥ 7mmol/l tỷ 
lệ có rối loạn cơ vòng là 30,8% còn ở nhóm 
glucose < 7mmol/l tỷ lệ này là 11,8%. Sự 
khác biệt có ý nghĩa thống kê. Như vậy, tỷ 
lệ rối loạn cơ vòng tăng theo sự tăng của 
glucose máu.
Rối loạn lipid máu cũng là biểu hiện 
thường gặp ở bệnh nhân ĐQN không kể 
đó là đội quỵ NMN hay CMN. Rối loạn 
lipid máu mà đặc biệt là tăng nồng độ 
acid béo tự do có giá trị tiên lượng đánh 
giá khả năng tiến triển nguy cơ chuyển 
từ giảm dung nạp glucose sang bệnh đái 
tháo đường týp 2. Liên quan glucose máu 
với các chỉ số lipid máu, nghiên cứu nhận 
thấy ở nhóm có glucose < 7mmol/l tỷ lệ 
Cholesterol tăng là 34,1%, LDL-c tăng là 
17,6% và nói chung các chỉ số lipid tăng là 
49,2% thấp hơn nhóm glucose ≥ 7mmol/l 
với các tỷ lệ Cholesterol tăng là 55,4%, 
LDL-c tăng là 47,7% và nói chung các 
chỉ số lipid tăng là 72,3%, sự khác biệt có 
TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 3 - 9/2015
14
ý nghĩa thống kê. Các giá trị Triglycerid 
và HDL-c ở nhóm glucose ≥ 7mmol/l cao 
hơn nhóm glucose < 7mmol/l, tuy nhiên sự 
khác biệt không có ý nghĩa thống kê.
Như vậy, các chỉ số lipid máu tăng 
theo mức tăng glucose máu. Điều này có 
thể do vai trò rối loạn chuyển hóa glucose 
và lipid máu liên quan với nhau.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu 150 bệnh nhân đột 
quỵ não được điều trị tại khoa Nội chung 
Bệnh viện Quân y 13, chúng tôi có một số 
kết luận sau:
1. Đặc điểm lâm sàng và cận lâm 
sàng
- Tuổi: 36% bệnh nhân từ 70 tuổi trở 
lên, Tỷ lệ đột quỵ não tăng theo tuổi. Tuổi 
mắc bệnh trung bình là 63,9 ± 12,5. Tỷ lệ 
bệnh nhân nam chiếm đa số 64,7% (gần 
gấp đôi nữ). Bệnh nhân có thể trạng trung 
bình là 58%. Có 84% bệnh nhân khởi phát 
đột ngột, 56% khởi phát khi nghỉ, 69,3% 
khởi phát ban ngày. Về yếu tố nguy cơ: 
tỷ lệ bệnh nhân có 1 yếu tố là 79,3%; có 
2 yếu tố là 44,7%. Yếu tố tăng huyết áp 
69,3%; Rối loạn lipid máu 49,3%.
- Tỷ lệ rối loạn glucose máu ở giai 
đoạn cấp của ĐQN: không tăng glucose 
máu 56,7%; tăng glucose máu phản ứng 
22%; đái tháo đường 21,3%. 
2. Mối liên quan giữa biến đổi nồng 
độ glucose máu với các đặc điểm lâm 
sàng và cận lâm sàng
- Tỷ lệ rối loạn ý thức ở nhóm bệnh 
nhân có tăng glucose máu (27,7%) cao hơn 
nhóm không tăng glucose máu (12,9%).
- Tỷ lệ mức độ liệt nặng ở nhóm bệnh 
nhân có tăng glucose máu (60%) cao hơn 
nhóm không tăng glucose máu (37,6%). 
- Tỷ lệ chảy máu não ở nhóm bệnh 
nhân có tăng glucose máu (27,7%) cao 
hơn nhóm không tăng glucose máu (20%), 
khác biệt không có ý nghĩa thống kê.
- Tỷ lệ rối loạn cơ vòng ở nhóm bệnh 
nhân có tăng glucose máu (30,8%) cao hơn 
nhóm không tăng glucose máu (11,8%).
- Tỷ lệ rối loạn lipid chung, choles-
terol, LDL-c ở nhóm bệnh nhân có tăng 
glucose máu cao hơn nhóm không tăng 
glucose máu.
* KIẾN NGHỊ:
- Trong điều trị bệnh nhân đột quỵ não 
cần xét nghiệm glucose máu, HbA1C để 
đánh giá tình trạng rối loạn glucose máu.
- Cần can thiệp tích cực hơn vào tình 
trạng tăng glucose máu khi mới bị đột quỵ 
và tránh dùng dung dịch truyền glucose 
cho bệnh nhân.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Văn Chương, Nguyễn Minh 
Hiện, Phạm Thanh Hòa (2007), “Nghiên 
cứu đặc điểm lâm sàng, giá trị chẩn đoán 
của các triệu chứng trên bệnh nhân đột quỵ 
chảy máu não”, Tạp chí y dược lâm sàng 
108, tháng 11/2007.
2. Nguyễn Thị Minh Đức (2003), “Ng-
hiên cứu ảnh hưởng của tăng đường huyết 
trên bệnh nhân tai biến mạch máu não”, 
Kỷ yếu các công trình nghiên cứu khoa 
học. Hội nội khoa Việt Nam, tr 145 - 153
3. Phạm Khuê (1999), “Đề phòng tai 
biến mạch máu não ở người cao tuổi”, 
NXBYH.
4. Trịnh Tiến Lực, Hà Hữu Quý, Lê 
Văn Thính và CS (2008), “Tình hình đột 
quỵ não tại khoa thần kinh Bệnh viện Bạch 
TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 3 - 9/2015
15
Mai năm 2007”, Sinh hoạt khoa học của 
Hội thần kinh học khu vực Hà Nội, tháng 
9/2008.
5. Nguyễn Văn Ngọc (2008), “Ng-
hiên cứu biến đổi đường máu ở bệnh nhân 
đột quỵ não”, Luận văn chuyên khoa II, 
HVQY.
6. Trần Ngọc Tâm (1999). "Nghiên 
cứu tăng đường huyết ở bệnh nhân tai biến 
mạch máu não giai đoạn cấp qua HbA1C 
và nghiệm pháp dung nạp đường tại khoa 
Hồi sức cấp cứu Bệnh viện Trung ương 
Huế. Luận văn Thạc sỹ y học. Đại học y 
khoa Huế.
7. Trần Thanh Tâm (2009), “Nghiên 
cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng biến 
đổi glucose huyết ở bệnh nhân đột quỵ 
chảy máu não trong tuần đầu”, Luận văn 
thạc sỹ y học, HVQY.
8. Nguyễn Văn Thông, Nguyễn Hoàng 
Ngọc và CS (2007), “Nghiên cứu đặc điểm 
lâm sàng, cận lâm sàng, một số yếu tố 
nguy cơ của 1378 bệnh nhân đột quỵ tại 
Bệnh viện TƯQĐ 108”, Tạp chí Y dược 
lâm sàng 108, tháng 11/2007.
9. Trần Văn Trung (2012), “Nghiên 
cứu mối liên quan một số yếu tố nguy cơ 
với thang điểm Henry và đường kính ổ 
nhồi máu não trên CT sọ não ở bệnh nhân 
nhồi máu não”,Hội nghị khoa học Bệnh 
viện đa khoa tỉnh Bình Định 8/2012. .
10. Nguyễn Văn Tuyến, Nguyễn Văn 
Thông và CS (2011), “Nghiên cứu sàng 
lọc, đánh giá rối loạn nuốt ở bệnh nhân đột 
quỵ não”, Tạp chí Y Dược lâm sàng 108, 
tháng 3/2011.
11. Bruno A; Biller J; Adams HP 
(1999). "Acute blood glucose level and 
outcome from ischemic stroke". Neurol-
ogy. Jan 15; 52(2); 280 - 4.
12. Nadya Kagansky, Shmuel Lewy, 
Hilla Knobler (2000). "The role of hyper-
glycemia in acute stroke". Arch Neurol, 
vol 58: 1209 - 11.
13. Sarah E. Capes MD; Dereck Hunt 
MD; Klas Malmberg MD et al (2001), 
“Stress Hyperglycemia and Prognosis of 
Stroke in Nondiabetic and Diabetic Pa-
tients”, Stroke, 32:2426-32.
14. Umegaki et al (2008). "Glucose 
control levels, ischemic brain lesions and 
hyperinsulinaemia were associated with 
cognitive dysfunction in diabetic elderly". 
Age Aeing; o:51-8.
15. Yun-Mi Song, Joohon Sung, 
George Davey Smith et al (2004), “Body 
mass index and ischemic and hemorrhagic 
stroke”, Stroke, 35:831.

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_lien_quan_roi_loan_glucose_mau_voi_mot_so_dac_die.pdf