Nghiên cứu lắng đọng các IG miễn dịch và bổ thể C3 ở mô da bệnh vảy nến

TÓM TẮT

Mục tiêu: Nghiên cứu sự lắng đọng các Ig và bổ thể C3 vào mô da vảy nến thể thông thường.

Phương pháp nghiên cứu: mô tả, tiến cứu, thực hiện bằng kỹ thuật miễn dịch huỳnh quang trực tiếp.

Kết quả: Nghiên cứu lắng đọng các IgA, IgM, LgG và C3 ở mô da của 27 bệnh nhân vảy nến thể

thông thường kết quả thấy: lắng đọng IgA ở thượng bì vảy nến không thường gặp và không đặc

hiệu. IgM ở thương tổn tăng lắng đọng dương tính 56,00 % và ở da không thương tổn dương tính

26,10%. Da người bình thường khỏe mạnh thì không thấy lắng đọng IgM. Tăng lắng đọng IgG chủ

yếu và thấy rõ ở thương tổn vảy nến chiếm 55,50%. Da không có thương tổn và da người bình

thường khỏe mạnh thì không hoặc rất ít khi thấy lắng đọng IgG, sau điều trị IgG giảm chậm. Bổ

thể C3 lắng đọng rõ tại thương tổn vảy nến, sau điều trị giảm nhanh.

Kết luận: Tại thương tổn vảy nến thể thông thường có tăng sự hiện diện của một số Ig miễn dịch

và C3. Điều đó có thể chứng tỏ hệ thống miễn dịch của cơ thể có tham gia vào cơ chế sinh bệnh

vảy nến.

pdf 5 trang phuongnguyen 2060
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu lắng đọng các IG miễn dịch và bổ thể C3 ở mô da bệnh vảy nến", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu lắng đọng các IG miễn dịch và bổ thể C3 ở mô da bệnh vảy nến

Nghiên cứu lắng đọng các IG miễn dịch và bổ thể C3 ở mô da bệnh vảy nến
Trần Văn Tiến và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 89(01/2): 83 - 87 
83 
NGHIÊN CỨU LẮNG ĐỌNG CÁC Ig MIỄN DỊCH 
VÀ BỔ THỂ C3 Ở MÔ DA BỆNH VẢY NẾN 
 Trần Văn Tiến*, Phan Thị Thu Anh 
Bệnh viện Da liễu Trung ương 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Nghiên cứu sự lắng đọng các Ig và bổ thể C3 vào mô da vảy nến thể thông thường. 
Phương pháp nghiên cứu: mô tả, tiến cứu, thực hiện bằng kỹ thuật miễn dịch huỳnh quang trực tiếp. 
Kết quả: Nghiên cứu lắng đọng các IgA, IgM, LgG và C3 ở mô da của 27 bệnh nhân vảy nến thể 
thông thường kết quả thấy: lắng đọng IgA ở thượng bì vảy nến không thường gặp và không đặc 
hiệu. IgM ở thương tổn tăng lắng đọng dương tính 56,00 % và ở da không thương tổn dương tính 
26,10%. Da người bình thường khỏe mạnh thì không thấy lắng đọng IgM. Tăng lắng đọng IgG chủ 
yếu và thấy rõ ở thương tổn vảy nến chiếm 55,50%. Da không có thương tổn và da người bình 
thường khỏe mạnh thì không hoặc rất ít khi thấy lắng đọng IgG, sau điều trị IgG giảm chậm. Bổ 
thể C3 lắng đọng rõ tại thương tổn vảy nến, sau điều trị giảm nhanh. 
Kết luận: Tại thương tổn vảy nến thể thông thường có tăng sự hiện diện của một số Ig miễn dịch 
và C3. Điều đó có thể chứng tỏ hệ thống miễn dịch của cơ thể có tham gia vào cơ chế sinh bệnh 
vảy nến. 
Từ khóa: Lắng đọng IgA, IgM, LgG và C3; vảy nến thể thông thường 
ĐẶT VẤN ĐỀ* 
Vảy nến là một da bệnh mạn tính, tiến triển 
dai dẳng và khó điều trị. Đến nay người ta 
vẫn chưa xác định rõ được nguồn gốc phát 
sinh và những yếu tố duy trì sự tồn tại dai 
dẳng của thương tổn. Vì vậy, cơ chế sinh 
bệnh vẫn còn nhiều vấn đề đòi hỏi phải được 
tiếp tục nghiên cứu. Gần đây nhờ kỹ thuật hoá 
mô miễn dịch, việc nghiên cứu miễn dịch 
bệnh vảy nến cũng phát triển [6]. Ở mô da 
của bệnh vảy nến người ta thấy lắng đọng các 
globulin miễn dịch (Ig) , bổ thể C3 và nhiều 
yếu tố hoạt hoá khác mà bình thường ở người 
khoẻ mạnh không có hoặc rất ít. Với hiểu biết 
hiện nay, các nhà nghiên cứu cho rằng vảy 
nến là bệnh do rối loạn đáp ứng miễn dịch tại 
chỗ [3], [4]. Để củng cố lý luận và làm sáng 
tỏ cơ chế sinh bệnh, chúng tôi tiến hành 
nghiên cứu sự lắng đọng các Ig và bổ thể C3 
vào mô da vảy nến thể thông thường. 
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
- Nhóm nghiên cứu 27 bệnh nhân vảy nến thể 
thông thường. Trước khi nghiên cứu không 
*
dùng các thuốc ức chế miễn dịch toàn thân 03 
tháng hoặc tại chỗ 01 tháng trở lên, không 
mắc các bệnh mạn tính khác. 
- Nhóm chứng : 09 người khoẻ mạnh tình 
nguyện. 
Phương pháp nghiên cứu 
- Áp dụng phương pháp mô tả, tiến cứu. 
- Đề tài thực hiện bằng kỹ thuật miễn dịch 
huỳnh quang trực tiếp tại Bộ môn Miễn dịch, 
trường Đại học Y Hà Nội. 
- Xử lý số liệu bằng toán thống kê y học, thực 
hiện trên máy vi tính theo chương trình EPI-
INFO 6.0, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê 
với p < 0,05. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
* Mức độ lắng đọng IgA ở mô da bệnh nhân 
vảy nến 
Nhận xét: 
- Bảng 1 cho thấy mức độ lắng đọng IgA ở 
thương tổn vảy nến không có sự khác biệt so 
với da bình thường. 
- Bảng 2 cho thấy tại thương tổn vảy nến tăng 
lắng đọng IgM so với da người khoẻ, không 
có sự khác biệt so với ở thương tổn sau điều 
trị và da không thương tổn. 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 
Trần Văn Tiến và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 89(01/2): 83 - 87 
84 
Bảng 1: So sánh mức độ lắng đọng IgA ở mô da bệnh nhân vảy nến và người khoẻ 
 Vị trí 
Mức độ 
Da người khoẻ 
{n=09} (1) 
T/ tổn trướcđiều trị 
{n=26} (2) 
Da không thương tổn 
{n = 25 } (3) 
T/tổn sau điều trị 
{n =17 } (4) 
n Tỷ lệ % n Tỷ lệ % n Tỷ lệ % n Tỷ lệ % 
(-) 1 11,1 11 42,3 17 68,0 14 82,3 
(+) 8 88,9 6 23,1 7 28,0 2 11,8 
(++) 0 0 5 19,2 1 4,0 1 5,9 
(+++) 0 0 4 15,4 0 0 0 0 
So sánh p ½ > 0,05 p2/3 > 0,05 p2/4 > 0,05 
Bảng 2: Lắng đọng IgM ở mô da bệnh nhân vảy nến và người khoẻ 
 Vị trí 
 Mức độ 
Da người khoẻ 
{n=09} (1) 
T/ tổn trướcđiều trị 
{n=25} (2) 
Da không thương tổn 
{n = 23 }(3) 
T/tổn sau điều trị 
{n =16 } (4) 
n Tỷ lệ % n Tỷ lệ % n Tỷ lệ % n Tỷ lệ % 
(-) 9 100,0 11 44,0 17 73,9 14 87,4 
(+) 0 0 8 32,0 6 26,1 0 0 
(++) 0 0 3 12.0 0 0 1 6,3 
(+++) 0 0 3 12,0 0 0 1 6,3 
So sánh p ½ 0,05 p2/4 > 0,05 
Bảng 3: Lắng đọng IgG ở mô da bệnh nhân vảy nến và người khoẻ 
 Vị trí 
 Mức độ 
Da người khoẻ 
{n=09} (1) 
T/ tổn trướcđiều trị 
{n=27} (2) 
Da không thương tổn 
{n = 26} ( 3) 
T/tổn sau điều trị 
{n =17} ( 4) 
n Tỷ lệ % n Tỷ lệ % n Tỷ lệ % N Tỷ lệ % 
(-) 9 100,0 12 44,5 18 69,2 11 64,7 
(+) 0 0 5 18,5 5 19,2 1 5,9 
(++) 0 0 6 22,2 2 7,8 4 23,5 
(+++) 0 0 4 14,8 1 3,8 1 5,9 
So sánh p ½ 0,05 
Nhận xét: Thương tổn vảy nến tăng lắng đọng IgG so với da người khỏe mạnh bình thường và da 
không thương. Sau điều trị ở thương tổn vảy nến IgG giảm chậm. 
Bảng 4: Lắng đọng bổ thể C3 ở mô da bệnh nhân vảy nến và người khỏe 
 Vị trí 
 Mức độ 
Da người khoẻ 
{n=09} (1) 
T/ tổn trướcđiều 
trị {n=27}(2) 
Da không thương 
tổn {n = 26} (3 ) 
T/tổn sau điều trị 
{n =17 } (4) 
n Tỷ lệ % n Tỷ lệ % n Tỷ lệ % N Tỷ lệ % 
(-) 1 11,1 11 40,8 17 65,4 11 64,8 
(+) 8 88,9 4 14,8 8 30,8 3 17,6 
(++) 0 0 8 29,6 1 3,8 3 17,6 
(+++) 0 0 4 14,8 0 0 0 0 
So sánh p1/2 > 0,05 p2/3 < 0,05 p2/4 < 0,05 
Nhận xét: Tỷ lệ lắng đong bổ thể C3 mức độ vừa và mạnh ở thương tổn vảy nến cao (44,4%) so 
với da không thương tổn và da người khoẻ mạnh bình thường, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê 
với p < 0,05. Sau điều trị,lắng đọng C3 giảm nhanh. 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 
Trần Văn Tiến và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 89(01/2): 83 - 87 
85 
BÀN LUẬN 
- Lắng đọng IgA: Thượng bì thương tổn và da 
không thương tổn của số bênh nhân vảy nến 
thấy tăng lắng đọng IgA hơn so với da người 
khoẻ mạnh. Tuy nhiên, so sánh mức độ lắng 
đọng IgA chung cho tất cả các đối tượng đã 
được nghiên cứu của hai nhóm thì sự khác 
biệt không có ý nghĩa thống kê. Một số 
trường hợp tại thương tổn tăng lắng đọng IgA 
hơn so với da không thương tổn, nhưng 
không có sự khác biệt (p > 0,05). Những 
trường hợp thương tổn được cải thiện sau 
điều trị vẫn thấy lắng đọng IgA ở thượng bì, 
so với trước điều trị, sự khác biệt cũng không 
có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). 
Giải thích sự lắng đọng IgA vào thượng bì 
của những người khoẻ mạnh chúng tôi cho 
rằng trong trường hợp này IgA đóng vai trò 
của một IgA tiết. Bởi vì, cũng như ở các dịch 
tiết khác như nước bọt, dịch tiết sinh dục niệu 
đạo, tiêu hoá v.v thì ở mồ hôi trên da người ta 
cũng thấy có mặt IgA tiết. IgA tiết là phương 
tiện bảo vệ tại chỗ của cơ thể, nó ngăn cản 
các kháng nguyên (KN) như vi khuẩn, virus, 
tế bào lạ v.v xâm nhập từ môi trường bên 
ngoài vào cơ thể [1]. Vì vậy, có thể bình 
thường luôn có một lượng nhỏ IgA thấm vào 
thượng bì sau đó vào tuyến mồ hôi rồi bài 
xuất lên mặt da, Khi mồ hôi bài xuất nhiều thì 
lượng IgA cũng sẽ phải được huy động nhiều 
vào thượng bì. Nhóm chứng là người khoẻ 
mạnh nhưng họ là công nhân lao động nặng 
nhọc, ra mồ hôi nhiều. Vì vậy, có thể đó là lý 
do mà hầu hết những người này đều thấy lắng 
đọng IgA nhẹ ở thượng bì. Một số trường hợp 
vảy nến có tăng lắng đọng IgA vào thượng bì 
có thể chúng tham gia bảo vệ cơ thể, chống 
lại những yếu tố tại chỗ có vai trò khởi phát 
và làm nặng bệnh như những sang chấn, 
nhiễm khuẩn, nhiễm virus v.v. Vì vậy, tăng 
lắng đọng IgA vào thượng bì không phải là 
biểu hiện đặc hiệu và không thường gặp ở 
bệnh nhân vảy nến. Trong một số bệnh da 
khác người ta cũng thấy IgA lắng đọng ở mô 
da nhưng ở những vị trí khác nhau như bệnh 
IgA thành dải thì vị trí IgA lắng đọng là ở 
màng đáy và thành dải. 
- Lắng đọng IgM: Kết quả bảng 2 cho thấy có 
56,0% trường hợp lắng đọng IgM ở thượng bì 
thương tổn vảy nến, trong đó mức độ vừa và 
mạnh chiếm 24,0%. Ngược lại, nhóm người 
khoẻ mạnh không thấy lắng đọng IgM ở 
thượng bì dù là mức độ dương tính nhẹ, sự 
khác biệt giữa hai nhóm có ý nghĩa thống kê 
với p < 0.05. Mô da không thương tổn cũng 
có 26,1% trường hợp lắng đọng IgM, nhưng 
hầu hết chỉ ở mức dương tính nhẹ (+). Sau 
điều trị mức độ lắng đọng IgM giảm chậm, so 
với trước điều trị; sự khác biệt không có ý 
nghĩa thống kê với p > 0,05. Từ kết quả trên, 
chúng tôi thấy IgM lắng đọng sớm và kéo dài 
ở mô da bệnh vảy nến. Tăng lắng đọng IgM 
vào thượng bì vảy nến có thể tại đó đã xảy ra 
một cơ chế đáp ứng miễn dịch sớm chống lại 
những tác nhân gây bệnh để bảo vệ cơ thể. 
Bởi vì, khi KN xâm nhập hoặc được hình 
thành trong da, đăc biệt là những trường hợp 
nhiễm khuẩn sớm thì IgM là KT xuất hiện 
đầu tiên để tham gia vào đáp ứng miễn dịch 
tiên phát, sau đó mới xuất hiện IgG thay thể 
cho IgM [1]. Mặt khác IgM là một trong hai 
KT (IgM và IgG) hoạt hoá được bổ thể khi 
kết hợp với KN để tạo ra các cơ chế bảo vệ cơ 
thể như phản ứng viêm, thực bào, ly giải tế 
bào mang KN v.v [2]. Như vậy, IgM lắng 
đọng ở thượng bì vảy nến là một phản ứng 
sớm, tại chỗ của hệ thống miễn dịch da chống 
lại những yếu tố có đặc tính KN và được coi 
là có vai trò khởi phát hoặc làm nặng bệnh 
vảy nến. 
- Lắng đọng IgG: tại thương tổn vảy nến tăng 
lắng đọng IgG. Tỷ lệ dương tính chiếm 
55,50% trường hợp, nhóm chứng hoàn toàn 
âm tính, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với 
p < 0,05. Da không thương tổn chỉ có một số 
trường hợp IgG dương tính nhẹ ở thượng bì, 
so với thương tổn thì sự khác biệt có ý nghĩa 
thống kê với p < 0,05. Sau điều trị IgG giảm ở 
thượng bì nhưng sự khác biệt so với trước 
điều trị không có ý nghĩa thống kê với p > 
0,05. Như vậy, những số liệu trên cho thấy 
IgG chủ yếu lắng đọng tại thương tổn vảy nến 
đang tiến triển, còn ở da khi chưa có thương 
tổn lâm sàng thì lắng đọng ít IgG, mà chủ yếu 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 
Trần Văn Tiến và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 89(01/2): 83 - 87 
86 
là IgM. Điều này phù hợp với vai trò của IgG 
là tham gia đáp ứng miễn dịch thứ phát, 
kháng độc tố thay thế cho IgM. Khi kết hợp 
với KN, IgG còn có khả năng hoạt hoá bổ thể 
theo đường cũ. Ngoài ra nó còn có khả năng 
gắn lên màng một số tế bào như mastocyte, 
bạch cầu mono, đại thực bào, bạch cầu đa 
nhân trung tính và bạch cầu ái toan v.v để 
hoạt hoá các tế bào này tham gia đáp ứng 
miễn dịch. Kết quả nghiên cứu IgG ở thương 
tổn vảy nến của chúng tôi cũng phù hợp với 
nhận xét của một số tác giả nghiên cứu trước 
đây là có khoảng 50% bệnh nhân vảy nến 
tăng nồng độ IgG trong huyết thanh và lắng 
đọng ở thượng bì [5]. 
- C3 là một trong những yếu tố thường được 
nghiên cứu để đánh giá tình trạng đáp ứng 
miễn dịch không đặc hiệu trong một số 
trường hợp bệnh lý. Trong bệnh vảy nến, khi 
nghiên cứu những rối loạn miễn dịch để tìm 
hiểu cơ chế sinh bệnh cũng có một số tác giả 
đã nghiên cứu lắng đọng C3 ở mô thương tổn 
cũng như những biến động về hàm lượng của 
nó trong huyết thanh. Để đánh giá những rối 
loạn đáp ứng miễn dịch tại chỗ, cùng với các 
thông số khác, chúng tôi tiến hành nghiên cứu 
lắng đọng C3 ở thượng bì của bệnh vảy nến. 
Kết quả nghiên cứu cho thấy có lắng đọng C3 
ở thượng bì tại thương tổn đang tiến triển, 
chiếm 59,2%. Mức độ dương tính vừa và 
mạnh chiếm 44,4%. Nhóm chứng người khoẻ 
mạnh hầu hết chỉ dương tính nhẹ. Da không 
thương tổn lắng đọng C3 ít hơn, sự khác nhau 
có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Sau điều trị 
C3 cũng giảm nhanh, có sự khác biệt so với 
trước điều trị với p < 0,05. Từ kết qủa nghiên 
cứu trên chúng tôi nhận thấy lắng đọng C3 
chủ yếu tập trung mạnh tại thượng bì thương 
tổn vảy nến đang tiến triển. Một số tác giả đã 
nghiên cứu trước đây cũng nhận xét tương tự. 
Như vậy, phải chăng để xuất hiện thương tổn 
vảy nến trên da thì cần phải tăng cường một 
cơ chế đáp ứng miễn dịch không đặc hiệu mà 
trong đó có vai trò của C3. Hoặc ngược lại 
cũng có thể nói do tăng cường đáp ứng miễn 
dịch không đặc hiệu tại chỗ đã thúc đẩy hình 
thành thương tổn da. Lý do tăng lắng đọng C3 
ở thương tổn vảy nến có thể còn được giải 
thích là do hoạt động của các sản phẩm hoạt 
hoá bổ thể như hoạt động phân huỷ các tế bào 
mang KN gồm vi khuẩn, nấm, tế bào nhiễm 
virus v.v, hoạt động hình thành phản ứng 
viêm tại chỗ để cô lập tác nhân gây bệnh, bảo 
vệ cơ thể. C3 còn có vai trò xử lý các phức 
hợp miễn dịch tránh gây hại cho cơ thể. Như 
vậy tăng lắng đọng C3 ở gian bào sừng vảy 
nến tuy không phải là dấu hiệu để chẩn đoán 
và tiên lượng bệnh, song nó cũng là một trong 
những yếu tố góp phần làm sáng tỏ cơ chế 
miễn dịch tại chỗ của bệnh vảy nến. 
KẾT LUẬN 
Nghiên cứu lắng đọng các Ig miễn dịch và C3 
ở mô da vảy nến chúng tôi rút ra một số nhận 
xét sau: 
- Lắng đọng IgA ở thượng bì không thường 
gặp và không đặc hiệu trong bệnh vảy nến. 
- Tăng lắng đọng IgM cả ở thương tổn và da 
không thương tổn vảy nến, có sự khác biệt so 
với da người bình thường với p < 0,05. 
- Tăng lắng đọng IgG chủ yếu và thấy rõ ở 
thương tổn vảy nến. Sau điều trị IgG giảm 
chậm. 
- Bổ thể C3 lắng đọng rõ tại thương tổn vảy 
nến. Sau điều trị C3 giảm nhanh, có sự khác 
biệt so với trước điều trị với p < 0,05. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Trần Thị Chính (1977), “Tế bào B và đáp ứng 
miễn dịch dịch thể”, Miễn dịch học, Nhà xuất bản 
Y học, tr 51- 75. 
[2]. Nguyễn Ngọc Lanh (1977), “Chức năng kháng 
thể”, Miễn dịch học, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, 
tr 75- 81. 
[3]. Barker J.N (1998), “Psoriasis as a T cell- 
mediated autoimmune disease”, Hosp Med, 59: 
530- 533. 
[4]. Jammes G, Krueger (2002), “The immunologie 
basis for treatment of psoriasis with new biologic 
agents”, Journal of American Academy of 
Dermatologie, Volume 46, number 1, 23: 6-14. 
[5]. Guilhow J.J, Meynadier J (1984), “Psoriasis”, 
Encyclopedie Medico- Chirurgicale. Paris. 
Dermatologie, 12310 A10, 11-1984, 11-20. 
[6]. Saurat J.H, Didierjean (1991), “Techniques de 
biologie moléculaire utilisées pour le diagnostic 
des maladies cutanées”, Dermatologie et 
vénéréologie, 2e édition revue et augmentée, 
Masson Paris, p 28- 30. 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 
Trần Văn Tiến và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 89(01/2): 83 - 87 
87 
SUMMARY 
DEPOSITIONS OF IMMUNOGLOBULIN (IG) AND C3 COMPLEMENT ON 
THE PSORIATIC TISSUES 
Tran Van Tien*, Phan Thi Thu Anh 
Dermatology Central Hospital 
Objectives: to investigate depositions of Immunoglobulin (Ig) and C3 Complement on the 
psoriatic tissues in order to strengthen the theory and to learn about pathology of the disease. 
Methodology: this is a descriptive, prospective study using direct immunofluorescent technique. 
Results: The study of depositions of IgA, IgM, IgG and C3 Complement on the psoriatic tissues of 
27 patients with psoriasis vulgaris showed: the deposition of IgA on the psoriatic epidermis was 
uncommon and unspecific. IgM deposition was found in the affected skin as well as on the normal 
skin of the patients 56.0% and 26.1%, respectively. On the skin of healthy people, IgM deposition 
was not observed. IgG deposition was increased and seen clearly in the psoriatic lesions of 55.5% 
psoriasis patients. On normal skin of the patients and skin of the healthy people, the depositions of 
IgG was not seen or rarely seen; and after treatment the level of IgG decreased slowly. C3 
Complement deposition was seen obviously on the psoriatic lesions and decreased after treatment. 
Conclusion: Depositions of some Immunoglobulin and C3 Complement were increased on the 
psoriatic lesions. This implies that the immune system played a part in pathology of psoriasis. 
Key words: Deposition, IgA, IgG, IgM, C3; psoriasis vulgaris 
*
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_lang_dong_cac_ig_mien_dich_va_bo_the_c3_o_mo_da_b.pdf