Nghiên cứu lắng đọng các IG miễn dịch và bổ thể C3 ở mô da bệnh vảy nến
TÓM TẮT
Mục tiêu: Nghiên cứu sự lắng đọng các Ig và bổ thể C3 vào mô da vảy nến thể thông thường.
Phương pháp nghiên cứu: mô tả, tiến cứu, thực hiện bằng kỹ thuật miễn dịch huỳnh quang trực tiếp.
Kết quả: Nghiên cứu lắng đọng các IgA, IgM, LgG và C3 ở mô da của 27 bệnh nhân vảy nến thể
thông thường kết quả thấy: lắng đọng IgA ở thượng bì vảy nến không thường gặp và không đặc
hiệu. IgM ở thương tổn tăng lắng đọng dương tính 56,00 % và ở da không thương tổn dương tính
26,10%. Da người bình thường khỏe mạnh thì không thấy lắng đọng IgM. Tăng lắng đọng IgG chủ
yếu và thấy rõ ở thương tổn vảy nến chiếm 55,50%. Da không có thương tổn và da người bình
thường khỏe mạnh thì không hoặc rất ít khi thấy lắng đọng IgG, sau điều trị IgG giảm chậm. Bổ
thể C3 lắng đọng rõ tại thương tổn vảy nến, sau điều trị giảm nhanh.
Kết luận: Tại thương tổn vảy nến thể thông thường có tăng sự hiện diện của một số Ig miễn dịch
và C3. Điều đó có thể chứng tỏ hệ thống miễn dịch của cơ thể có tham gia vào cơ chế sinh bệnh
vảy nến.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu lắng đọng các IG miễn dịch và bổ thể C3 ở mô da bệnh vảy nến
Trần Văn Tiến và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 89(01/2): 83 - 87 83 NGHIÊN CỨU LẮNG ĐỌNG CÁC Ig MIỄN DỊCH VÀ BỔ THỂ C3 Ở MÔ DA BỆNH VẢY NẾN Trần Văn Tiến*, Phan Thị Thu Anh Bệnh viện Da liễu Trung ương TÓM TẮT Mục tiêu: Nghiên cứu sự lắng đọng các Ig và bổ thể C3 vào mô da vảy nến thể thông thường. Phương pháp nghiên cứu: mô tả, tiến cứu, thực hiện bằng kỹ thuật miễn dịch huỳnh quang trực tiếp. Kết quả: Nghiên cứu lắng đọng các IgA, IgM, LgG và C3 ở mô da của 27 bệnh nhân vảy nến thể thông thường kết quả thấy: lắng đọng IgA ở thượng bì vảy nến không thường gặp và không đặc hiệu. IgM ở thương tổn tăng lắng đọng dương tính 56,00 % và ở da không thương tổn dương tính 26,10%. Da người bình thường khỏe mạnh thì không thấy lắng đọng IgM. Tăng lắng đọng IgG chủ yếu và thấy rõ ở thương tổn vảy nến chiếm 55,50%. Da không có thương tổn và da người bình thường khỏe mạnh thì không hoặc rất ít khi thấy lắng đọng IgG, sau điều trị IgG giảm chậm. Bổ thể C3 lắng đọng rõ tại thương tổn vảy nến, sau điều trị giảm nhanh. Kết luận: Tại thương tổn vảy nến thể thông thường có tăng sự hiện diện của một số Ig miễn dịch và C3. Điều đó có thể chứng tỏ hệ thống miễn dịch của cơ thể có tham gia vào cơ chế sinh bệnh vảy nến. Từ khóa: Lắng đọng IgA, IgM, LgG và C3; vảy nến thể thông thường ĐẶT VẤN ĐỀ* Vảy nến là một da bệnh mạn tính, tiến triển dai dẳng và khó điều trị. Đến nay người ta vẫn chưa xác định rõ được nguồn gốc phát sinh và những yếu tố duy trì sự tồn tại dai dẳng của thương tổn. Vì vậy, cơ chế sinh bệnh vẫn còn nhiều vấn đề đòi hỏi phải được tiếp tục nghiên cứu. Gần đây nhờ kỹ thuật hoá mô miễn dịch, việc nghiên cứu miễn dịch bệnh vảy nến cũng phát triển [6]. Ở mô da của bệnh vảy nến người ta thấy lắng đọng các globulin miễn dịch (Ig) , bổ thể C3 và nhiều yếu tố hoạt hoá khác mà bình thường ở người khoẻ mạnh không có hoặc rất ít. Với hiểu biết hiện nay, các nhà nghiên cứu cho rằng vảy nến là bệnh do rối loạn đáp ứng miễn dịch tại chỗ [3], [4]. Để củng cố lý luận và làm sáng tỏ cơ chế sinh bệnh, chúng tôi tiến hành nghiên cứu sự lắng đọng các Ig và bổ thể C3 vào mô da vảy nến thể thông thường. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu - Nhóm nghiên cứu 27 bệnh nhân vảy nến thể thông thường. Trước khi nghiên cứu không * dùng các thuốc ức chế miễn dịch toàn thân 03 tháng hoặc tại chỗ 01 tháng trở lên, không mắc các bệnh mạn tính khác. - Nhóm chứng : 09 người khoẻ mạnh tình nguyện. Phương pháp nghiên cứu - Áp dụng phương pháp mô tả, tiến cứu. - Đề tài thực hiện bằng kỹ thuật miễn dịch huỳnh quang trực tiếp tại Bộ môn Miễn dịch, trường Đại học Y Hà Nội. - Xử lý số liệu bằng toán thống kê y học, thực hiện trên máy vi tính theo chương trình EPI- INFO 6.0, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU * Mức độ lắng đọng IgA ở mô da bệnh nhân vảy nến Nhận xét: - Bảng 1 cho thấy mức độ lắng đọng IgA ở thương tổn vảy nến không có sự khác biệt so với da bình thường. - Bảng 2 cho thấy tại thương tổn vảy nến tăng lắng đọng IgM so với da người khoẻ, không có sự khác biệt so với ở thương tổn sau điều trị và da không thương tổn. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Trần Văn Tiến và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 89(01/2): 83 - 87 84 Bảng 1: So sánh mức độ lắng đọng IgA ở mô da bệnh nhân vảy nến và người khoẻ Vị trí Mức độ Da người khoẻ {n=09} (1) T/ tổn trướcđiều trị {n=26} (2) Da không thương tổn {n = 25 } (3) T/tổn sau điều trị {n =17 } (4) n Tỷ lệ % n Tỷ lệ % n Tỷ lệ % n Tỷ lệ % (-) 1 11,1 11 42,3 17 68,0 14 82,3 (+) 8 88,9 6 23,1 7 28,0 2 11,8 (++) 0 0 5 19,2 1 4,0 1 5,9 (+++) 0 0 4 15,4 0 0 0 0 So sánh p ½ > 0,05 p2/3 > 0,05 p2/4 > 0,05 Bảng 2: Lắng đọng IgM ở mô da bệnh nhân vảy nến và người khoẻ Vị trí Mức độ Da người khoẻ {n=09} (1) T/ tổn trướcđiều trị {n=25} (2) Da không thương tổn {n = 23 }(3) T/tổn sau điều trị {n =16 } (4) n Tỷ lệ % n Tỷ lệ % n Tỷ lệ % n Tỷ lệ % (-) 9 100,0 11 44,0 17 73,9 14 87,4 (+) 0 0 8 32,0 6 26,1 0 0 (++) 0 0 3 12.0 0 0 1 6,3 (+++) 0 0 3 12,0 0 0 1 6,3 So sánh p ½ 0,05 p2/4 > 0,05 Bảng 3: Lắng đọng IgG ở mô da bệnh nhân vảy nến và người khoẻ Vị trí Mức độ Da người khoẻ {n=09} (1) T/ tổn trướcđiều trị {n=27} (2) Da không thương tổn {n = 26} ( 3) T/tổn sau điều trị {n =17} ( 4) n Tỷ lệ % n Tỷ lệ % n Tỷ lệ % N Tỷ lệ % (-) 9 100,0 12 44,5 18 69,2 11 64,7 (+) 0 0 5 18,5 5 19,2 1 5,9 (++) 0 0 6 22,2 2 7,8 4 23,5 (+++) 0 0 4 14,8 1 3,8 1 5,9 So sánh p ½ 0,05 Nhận xét: Thương tổn vảy nến tăng lắng đọng IgG so với da người khỏe mạnh bình thường và da không thương. Sau điều trị ở thương tổn vảy nến IgG giảm chậm. Bảng 4: Lắng đọng bổ thể C3 ở mô da bệnh nhân vảy nến và người khỏe Vị trí Mức độ Da người khoẻ {n=09} (1) T/ tổn trướcđiều trị {n=27}(2) Da không thương tổn {n = 26} (3 ) T/tổn sau điều trị {n =17 } (4) n Tỷ lệ % n Tỷ lệ % n Tỷ lệ % N Tỷ lệ % (-) 1 11,1 11 40,8 17 65,4 11 64,8 (+) 8 88,9 4 14,8 8 30,8 3 17,6 (++) 0 0 8 29,6 1 3,8 3 17,6 (+++) 0 0 4 14,8 0 0 0 0 So sánh p1/2 > 0,05 p2/3 < 0,05 p2/4 < 0,05 Nhận xét: Tỷ lệ lắng đong bổ thể C3 mức độ vừa và mạnh ở thương tổn vảy nến cao (44,4%) so với da không thương tổn và da người khoẻ mạnh bình thường, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Sau điều trị,lắng đọng C3 giảm nhanh. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Trần Văn Tiến và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 89(01/2): 83 - 87 85 BÀN LUẬN - Lắng đọng IgA: Thượng bì thương tổn và da không thương tổn của số bênh nhân vảy nến thấy tăng lắng đọng IgA hơn so với da người khoẻ mạnh. Tuy nhiên, so sánh mức độ lắng đọng IgA chung cho tất cả các đối tượng đã được nghiên cứu của hai nhóm thì sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Một số trường hợp tại thương tổn tăng lắng đọng IgA hơn so với da không thương tổn, nhưng không có sự khác biệt (p > 0,05). Những trường hợp thương tổn được cải thiện sau điều trị vẫn thấy lắng đọng IgA ở thượng bì, so với trước điều trị, sự khác biệt cũng không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Giải thích sự lắng đọng IgA vào thượng bì của những người khoẻ mạnh chúng tôi cho rằng trong trường hợp này IgA đóng vai trò của một IgA tiết. Bởi vì, cũng như ở các dịch tiết khác như nước bọt, dịch tiết sinh dục niệu đạo, tiêu hoá v.v thì ở mồ hôi trên da người ta cũng thấy có mặt IgA tiết. IgA tiết là phương tiện bảo vệ tại chỗ của cơ thể, nó ngăn cản các kháng nguyên (KN) như vi khuẩn, virus, tế bào lạ v.v xâm nhập từ môi trường bên ngoài vào cơ thể [1]. Vì vậy, có thể bình thường luôn có một lượng nhỏ IgA thấm vào thượng bì sau đó vào tuyến mồ hôi rồi bài xuất lên mặt da, Khi mồ hôi bài xuất nhiều thì lượng IgA cũng sẽ phải được huy động nhiều vào thượng bì. Nhóm chứng là người khoẻ mạnh nhưng họ là công nhân lao động nặng nhọc, ra mồ hôi nhiều. Vì vậy, có thể đó là lý do mà hầu hết những người này đều thấy lắng đọng IgA nhẹ ở thượng bì. Một số trường hợp vảy nến có tăng lắng đọng IgA vào thượng bì có thể chúng tham gia bảo vệ cơ thể, chống lại những yếu tố tại chỗ có vai trò khởi phát và làm nặng bệnh như những sang chấn, nhiễm khuẩn, nhiễm virus v.v. Vì vậy, tăng lắng đọng IgA vào thượng bì không phải là biểu hiện đặc hiệu và không thường gặp ở bệnh nhân vảy nến. Trong một số bệnh da khác người ta cũng thấy IgA lắng đọng ở mô da nhưng ở những vị trí khác nhau như bệnh IgA thành dải thì vị trí IgA lắng đọng là ở màng đáy và thành dải. - Lắng đọng IgM: Kết quả bảng 2 cho thấy có 56,0% trường hợp lắng đọng IgM ở thượng bì thương tổn vảy nến, trong đó mức độ vừa và mạnh chiếm 24,0%. Ngược lại, nhóm người khoẻ mạnh không thấy lắng đọng IgM ở thượng bì dù là mức độ dương tính nhẹ, sự khác biệt giữa hai nhóm có ý nghĩa thống kê với p < 0.05. Mô da không thương tổn cũng có 26,1% trường hợp lắng đọng IgM, nhưng hầu hết chỉ ở mức dương tính nhẹ (+). Sau điều trị mức độ lắng đọng IgM giảm chậm, so với trước điều trị; sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05. Từ kết quả trên, chúng tôi thấy IgM lắng đọng sớm và kéo dài ở mô da bệnh vảy nến. Tăng lắng đọng IgM vào thượng bì vảy nến có thể tại đó đã xảy ra một cơ chế đáp ứng miễn dịch sớm chống lại những tác nhân gây bệnh để bảo vệ cơ thể. Bởi vì, khi KN xâm nhập hoặc được hình thành trong da, đăc biệt là những trường hợp nhiễm khuẩn sớm thì IgM là KT xuất hiện đầu tiên để tham gia vào đáp ứng miễn dịch tiên phát, sau đó mới xuất hiện IgG thay thể cho IgM [1]. Mặt khác IgM là một trong hai KT (IgM và IgG) hoạt hoá được bổ thể khi kết hợp với KN để tạo ra các cơ chế bảo vệ cơ thể như phản ứng viêm, thực bào, ly giải tế bào mang KN v.v [2]. Như vậy, IgM lắng đọng ở thượng bì vảy nến là một phản ứng sớm, tại chỗ của hệ thống miễn dịch da chống lại những yếu tố có đặc tính KN và được coi là có vai trò khởi phát hoặc làm nặng bệnh vảy nến. - Lắng đọng IgG: tại thương tổn vảy nến tăng lắng đọng IgG. Tỷ lệ dương tính chiếm 55,50% trường hợp, nhóm chứng hoàn toàn âm tính, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Da không thương tổn chỉ có một số trường hợp IgG dương tính nhẹ ở thượng bì, so với thương tổn thì sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Sau điều trị IgG giảm ở thượng bì nhưng sự khác biệt so với trước điều trị không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05. Như vậy, những số liệu trên cho thấy IgG chủ yếu lắng đọng tại thương tổn vảy nến đang tiến triển, còn ở da khi chưa có thương tổn lâm sàng thì lắng đọng ít IgG, mà chủ yếu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Trần Văn Tiến và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 89(01/2): 83 - 87 86 là IgM. Điều này phù hợp với vai trò của IgG là tham gia đáp ứng miễn dịch thứ phát, kháng độc tố thay thế cho IgM. Khi kết hợp với KN, IgG còn có khả năng hoạt hoá bổ thể theo đường cũ. Ngoài ra nó còn có khả năng gắn lên màng một số tế bào như mastocyte, bạch cầu mono, đại thực bào, bạch cầu đa nhân trung tính và bạch cầu ái toan v.v để hoạt hoá các tế bào này tham gia đáp ứng miễn dịch. Kết quả nghiên cứu IgG ở thương tổn vảy nến của chúng tôi cũng phù hợp với nhận xét của một số tác giả nghiên cứu trước đây là có khoảng 50% bệnh nhân vảy nến tăng nồng độ IgG trong huyết thanh và lắng đọng ở thượng bì [5]. - C3 là một trong những yếu tố thường được nghiên cứu để đánh giá tình trạng đáp ứng miễn dịch không đặc hiệu trong một số trường hợp bệnh lý. Trong bệnh vảy nến, khi nghiên cứu những rối loạn miễn dịch để tìm hiểu cơ chế sinh bệnh cũng có một số tác giả đã nghiên cứu lắng đọng C3 ở mô thương tổn cũng như những biến động về hàm lượng của nó trong huyết thanh. Để đánh giá những rối loạn đáp ứng miễn dịch tại chỗ, cùng với các thông số khác, chúng tôi tiến hành nghiên cứu lắng đọng C3 ở thượng bì của bệnh vảy nến. Kết quả nghiên cứu cho thấy có lắng đọng C3 ở thượng bì tại thương tổn đang tiến triển, chiếm 59,2%. Mức độ dương tính vừa và mạnh chiếm 44,4%. Nhóm chứng người khoẻ mạnh hầu hết chỉ dương tính nhẹ. Da không thương tổn lắng đọng C3 ít hơn, sự khác nhau có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Sau điều trị C3 cũng giảm nhanh, có sự khác biệt so với trước điều trị với p < 0,05. Từ kết qủa nghiên cứu trên chúng tôi nhận thấy lắng đọng C3 chủ yếu tập trung mạnh tại thượng bì thương tổn vảy nến đang tiến triển. Một số tác giả đã nghiên cứu trước đây cũng nhận xét tương tự. Như vậy, phải chăng để xuất hiện thương tổn vảy nến trên da thì cần phải tăng cường một cơ chế đáp ứng miễn dịch không đặc hiệu mà trong đó có vai trò của C3. Hoặc ngược lại cũng có thể nói do tăng cường đáp ứng miễn dịch không đặc hiệu tại chỗ đã thúc đẩy hình thành thương tổn da. Lý do tăng lắng đọng C3 ở thương tổn vảy nến có thể còn được giải thích là do hoạt động của các sản phẩm hoạt hoá bổ thể như hoạt động phân huỷ các tế bào mang KN gồm vi khuẩn, nấm, tế bào nhiễm virus v.v, hoạt động hình thành phản ứng viêm tại chỗ để cô lập tác nhân gây bệnh, bảo vệ cơ thể. C3 còn có vai trò xử lý các phức hợp miễn dịch tránh gây hại cho cơ thể. Như vậy tăng lắng đọng C3 ở gian bào sừng vảy nến tuy không phải là dấu hiệu để chẩn đoán và tiên lượng bệnh, song nó cũng là một trong những yếu tố góp phần làm sáng tỏ cơ chế miễn dịch tại chỗ của bệnh vảy nến. KẾT LUẬN Nghiên cứu lắng đọng các Ig miễn dịch và C3 ở mô da vảy nến chúng tôi rút ra một số nhận xét sau: - Lắng đọng IgA ở thượng bì không thường gặp và không đặc hiệu trong bệnh vảy nến. - Tăng lắng đọng IgM cả ở thương tổn và da không thương tổn vảy nến, có sự khác biệt so với da người bình thường với p < 0,05. - Tăng lắng đọng IgG chủ yếu và thấy rõ ở thương tổn vảy nến. Sau điều trị IgG giảm chậm. - Bổ thể C3 lắng đọng rõ tại thương tổn vảy nến. Sau điều trị C3 giảm nhanh, có sự khác biệt so với trước điều trị với p < 0,05. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Trần Thị Chính (1977), “Tế bào B và đáp ứng miễn dịch dịch thể”, Miễn dịch học, Nhà xuất bản Y học, tr 51- 75. [2]. Nguyễn Ngọc Lanh (1977), “Chức năng kháng thể”, Miễn dịch học, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, tr 75- 81. [3]. Barker J.N (1998), “Psoriasis as a T cell- mediated autoimmune disease”, Hosp Med, 59: 530- 533. [4]. Jammes G, Krueger (2002), “The immunologie basis for treatment of psoriasis with new biologic agents”, Journal of American Academy of Dermatologie, Volume 46, number 1, 23: 6-14. [5]. Guilhow J.J, Meynadier J (1984), “Psoriasis”, Encyclopedie Medico- Chirurgicale. Paris. Dermatologie, 12310 A10, 11-1984, 11-20. [6]. Saurat J.H, Didierjean (1991), “Techniques de biologie moléculaire utilisées pour le diagnostic des maladies cutanées”, Dermatologie et vénéréologie, 2e édition revue et augmentée, Masson Paris, p 28- 30. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Trần Văn Tiến và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 89(01/2): 83 - 87 87 SUMMARY DEPOSITIONS OF IMMUNOGLOBULIN (IG) AND C3 COMPLEMENT ON THE PSORIATIC TISSUES Tran Van Tien*, Phan Thi Thu Anh Dermatology Central Hospital Objectives: to investigate depositions of Immunoglobulin (Ig) and C3 Complement on the psoriatic tissues in order to strengthen the theory and to learn about pathology of the disease. Methodology: this is a descriptive, prospective study using direct immunofluorescent technique. Results: The study of depositions of IgA, IgM, IgG and C3 Complement on the psoriatic tissues of 27 patients with psoriasis vulgaris showed: the deposition of IgA on the psoriatic epidermis was uncommon and unspecific. IgM deposition was found in the affected skin as well as on the normal skin of the patients 56.0% and 26.1%, respectively. On the skin of healthy people, IgM deposition was not observed. IgG deposition was increased and seen clearly in the psoriatic lesions of 55.5% psoriasis patients. On normal skin of the patients and skin of the healthy people, the depositions of IgG was not seen or rarely seen; and after treatment the level of IgG decreased slowly. C3 Complement deposition was seen obviously on the psoriatic lesions and decreased after treatment. Conclusion: Depositions of some Immunoglobulin and C3 Complement were increased on the psoriatic lesions. This implies that the immune system played a part in pathology of psoriasis. Key words: Deposition, IgA, IgG, IgM, C3; psoriasis vulgaris * Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
File đính kèm:
- nghien_cuu_lang_dong_cac_ig_mien_dich_va_bo_the_c3_o_mo_da_b.pdf