Nghiên cứu kiến thức và thực hành chăm sóc sơ sinh của các bà mẹ tại tỉnh Yên Bái năm 2012

Sinh thái người làm nghề nguy hiểm là môn tổng hợp - Một phần của sinh thái người, bao hàm những vấn đề về vệ sinh - sinh lý và y học - xã hội nhằm bảo vệ sức khoẻ, hiệu quả và độ tin cậy hoạt động của những người phải chịu rủi ro cá nhân cao về những hậu quả bất lợi cho sức khoẻ và cuộc sống của mình trong khi thực hiện nghĩa vụ lao động. Một từ đồng nghĩa được chấp nhận để làm việc là sinh lý học sinh thái hoạt động sống trong điều kiện khắc nghiệt

pdf 4 trang phuongnguyen 240
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu kiến thức và thực hành chăm sóc sơ sinh của các bà mẹ tại tỉnh Yên Bái năm 2012", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu kiến thức và thực hành chăm sóc sơ sinh của các bà mẹ tại tỉnh Yên Bái năm 2012

Nghiên cứu kiến thức và thực hành chăm sóc sơ sinh của các bà mẹ tại tỉnh Yên Bái năm 2012
 Y HỌC THỰC HÀNH (914) - SỐ 4/2014 
132
người như amíp, trùng roi, bào tử trùng. Cao hơn tại 
TP. Hà Nội có 24/150 (16%) mẫu nước và bùn nhiễm 
đơn bào, trong đó có nhiều loài gây bệnh cho người 
như amíp, trùng roi, bào tử trùng. 
2. Tại nông thôn 
2.1. Mầm bệnh giun sán 
Tại điểm nông thôn Krong Păc, nước ở đáy thấy 
mầm bệnh giun sán, đặc biệt đã tìm thấy trứng sán lá 
ruột nhỏ, tỷ lệ nhiễm chung 26,6%. Tỷ lệ này thấp hơn 
ở nông thôn Nam Định có 53/150 (35,3%) mẫu nước 
và bùn nhiễm giun sán gây bệnh cho người bao gồm 
trứng giun đũa, giun tóc, sán lá gan nhỏ, sán lá ruột 
nhỏ, ấu trùng giun móc. Tương tự tại ngoại thành Hà 
Nội có 38/150 (25,3%) mẫu nước và bùn nhiễm giun 
sán gây bệnh cho người gồm trứng giun đũa, giun tóc, 
sán lá ruột nhỏ, ấu trùng giun móc. Cao hơn ở nông 
thôn Hòa Bình có 25/150 (16,7%) mẫu nước và bùn 
nhiễm giun sán gây bệnh cho người bao gồm trứng 
giun đũa và giun tóc. 
2.2. Mầm bệnh đơn bào 
Trong nước thải nông thôn Krong Păc, đã phát 
hiện đơn bào gây bệnh, trong đó nước bề mặt nhiễm ít 
hơn, tỷ lệ chung 38,3%. Tỷ lệ này thấp hơn điểm nông 
thôn Nam Định có 81/150 (54,0%) mẫu nước và bùn 
nhiễm đơn bào, trong đó có nhiều loài gây bệnh cho 
người như amíp, trùng roi, bào tử trùng. Cao hơn điểm 
nông thôn ngoại thành Hà Nội có 39/150 (26%) mẫu 
nước và bùn nhiễm đơn bào, trong đó có nhiều loài 
gây bệnh cho người như amíp, trùng roi, bào tử trùng. 
Tương tự điểm nông thôn Hòa Bình có 55/150 (36,7%) 
mẫu nước và bùn nhiễm đơn bào, trong đó có nhiều 
loài gây bệnh cho người như amíp, trùng roi, bào tử 
trùng. 
So với kết quả của Jose và cs (2010) thì bào nang 
Giardia xuất hiện trong nước thải 96% và bào nang 
Cryptosporidium xuất hiện 64% tại Tây Ban Nha, kết 
quả của chúng tôi thấp hơn. 
Các sản phẩm có liên quan đến nước thải như rau 
xanh cũng bị ô nhiễm bởi các mầm bệnh ký sinh trùng 
tương tự. 
KẾT LUẬN 
Tại 2 điểm thành phố và nông thôn thuộc tỉnh Đăk 
Lăk, nước thải đều bị ô nhiễm bởi mầm bệnh ký sinh 
trùng, đặc biệt là mầm bệnh đơn bào. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Nguyễn Văn Đề (2003). Mầm bệnh ký sinh trùng 
trong thực phẩm ở Việt Nam. Tạp chí Thông tin Y - Dược. 
Số 9: 11-15. 
2. Nguyễn Văn Đề, Phan Thị Hương Liên, Trương Thị 
Kim Phượng và cs (2011). Xác định mầm bệnh ký sinh 
trùng gây bệnh cho người trong rau và thủy sản được 
nuôi trồng từ nguồn nước thải tại một số thành phố và 
nông thôn miền Bắc. Báo cáo khoa học tại Hội nghị Ký 
sinh trùng toàn quốc: 111-117. 
3. Lê Thị Ngọc Kim, Vũ Đình Phương Ân, Trần Thị 
Hồng (2007). Khảo sát ký sinh trùng trên rau sống bán tại 
chợ trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh. Báo cáo khoa học tại 
Hội nghị Ký sinh trùng toàn quốc: 16-18. 
4. Jeroen H.J.Ensink, Tariq Mahmood et al (2007). 
Wastewater-irrigated vegetables: market handling versus 
irrigation water quality. Tropical Medicine and International 
Health. Vol12, Sub 2: 2-7. 
5. José Antonio Castro-Hermida, Ignacio García-
Presedo, Marta González-Warleta et al (2010). 
Cryptosporidium and Giardia detection in water bodies of 
Galicia, Spain. Water Research, 2010; 44 (20): 5887. 
6. Tram Thuy Nguyen (2007). Emerging Food and 
Waterborne Protozoan Parasites in Asia. Meeting 
’Protozoan parasites in Vietnam – Food safety and human 
health aspects in National Institute of Hygiene and 
Epidemiology: 4-8. 
7. L. Tonner Klank, T.A. Vuong, H.L. Enemark et al 
(2007). Protozoan Parasites in Vietnam- Studies in 
watewater-irrigated filds. Meeting ’Protozoan parasites in 
Vietnam – Food safety and human health aspects in 
National Institute of Hygiene and Epidemiology: 2-4. 
NGHIÊN CỨU KIẾN THỨC VÀ THỰC HÀNH CHĂM SÓC SƠ SINH 
CỦA CÁC BÀ MẸ TẠI TỈNH YÊN BÁI NĂM 2012 
TẠ NHƯ ĐÍNH, LÊ THIỆN THÁI, NGÔ VĂN TOÀN 
TÓM TẮT 
Nghiên cứu được thực hiện trên 516 phụ nữ sinh 
con trong giai đoạn từ 2011-2012. Thiết kế nghiên 
cứu mô tả cắt ngang được áp dụng với việc phỏng 
vấn trực tiếp bằng bộ câu hỏi có cấu trúc. Kết quả 
nghiên cứu cho thấy kiến thức và thực hành của các 
bà mẹ ở Yên Bái về chăm sóc sơ sinh là không đồng 
đều cho các nội dung chăm sóc sơ sinh. Các kiến 
thức và thực hành của các bà mẹ cần được nâng cao 
là cần tắm cho trẻ sau 24 giờ, hút nhớt, kiểm tra dị 
tật, chăm sóc mắt, lợi ích của sữa mẹ, các dấu hiệu 
rất nguy hiểm cụ thể cho trẻ sơ sinh, thăm khám lại 
trong vòng 7 tuần sau đẻ. 
Từ khóa: Chăm sóc sơ sinh, Yên Bái. 
SUMMARY 
The study was carried out among 516 mothers who 
gave births during 2011-2012. The descriptive design 
was applied with direct interviewing these women by 
using structured questionnaires. The results shown 
that the neonatal care knowledge and practice of these 
mothers were different in terms. The knowledge and 
practice should be improved such as newborn bath 24 
hours after giving birth, mouth cleaning, malformation 
check, eye’s check, breastmilk, dangerous symtoms 
and postnatal check within 7 days after birth. 
Keywords: Neonatal care, Yen Bai. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Theo ước tính, mỗi năm trên toàn thế giới có 
khoảng 3,9 triệu ca tử vong sơ sinh, trong đó tập trung 
chủ yếu ở các nước có thu nhập thấp [1]. Tử vong sơ 
sinh thường xảy ra ở những người nghèo khổ, những 
người không được tiếp cận với các dịch vụ y tế. Tại 
Việt Nam, tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh đã giảm được 
hơn một nửa từ năm 1990 đến năm 2009, tuy nhiên tỷ 
lệ tử vong sơ sinh trong năm 2009 vẫn còn cao với 16 
ca sơ sinh tử vong/ 1000 ca đẻ sống. Mặc dù đã đạt 
được những tiến bộ đáng kể trong giảm tử vong sơ 
Y HỌC THỰC HÀNH (914) - SỐ 4/2014 
133
sinh, nhưng phần lớn số trẻ tử vong dưới 1 tuổi vẫn 
xảy ra ở tháng đầu tiên. 
Các nguyên nhân chính gây ra tử vong sơ sinh trên 
thế giới là biến chứng của sinh non (28,0%), nhiễm 
trùng huyết và viêm phổi (26,0%), ngạt và gặp chấn 
thương khi sinh (23,0%), uốn ván (7,0%), dị tật bẩm 
sinh (7,0%) và tiêu chảy (3,0%) [2], [3]. Tuy nhiên, hầu 
hết các trường hợp bệnh tật và tử vong ở trẻ sơ sinh 
đều có thể tránh được bằng việc chăm sóc tốt của trẻ 
sơ sinh ngay từ khi mới sinh ra. Tổ chức Cứu trợ Trẻ 
em Quốc tế đã phát triển một mô hình toàn diện nhằm 
nâng cao sức khỏe của trẻ sơ sinh và bà mẹ, hoạt 
động trong hệ thống chăm sóc sức khỏe sẵn có và huy 
động sự tham gia của cộng đồng trên toàn thế giới 
trong đó có Việt Nam. Mô hình “Chăm sóc liên tục từ 
nhà tới bệnh viện” (HHCC) đảm bảo sự sẵn có và tiếp 
cận chăm sóc bà mẹ và trẻ sơ sinh có chất lượng 
được cung cấp một cách liền mạch liên tục từ gia đình, 
cộng đồng, trung tâm chăm sóc sức khỏe và bệnh 
viện. 
Tỉnh Yên Bái nằm ở vùng Tây Bắc tiếp giáp 
với Đông Bắc. Phía Đông Bắc giáp hai tỉnh Tuyên 
Quang và Hà Giang, phía Đông Nam giáp tỉnh Phú 
Thọ, phía tây nam giáp tỉnh Sơn La, phía Tây Bắc giáp 
hai tỉnh Lai Châu và Lào Cai. Yên Bái bao gồm 1 thành 
phố, 1 thị xã và 7 huyện. Với tổng số 180 xã, phường, 
thị trấn. Yên Bái có 740.905 người. Nghiên cứu này 
được thực hiện nhằm mô tả thực trạng chăm sóc sơ 
sinh của người dân tại tỉnh Yên Bái. 
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Phụ nữ sinh con trong giai đoạn từ 1 tháng 11 năm 
2011 tới 31 tháng 10 năm 2012 sẽ được phỏng vấn tại 
nhà. Thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang được áp 
dụng. Kết quả nghiên cứu sẽ được sử dụng cho lập kế 
hoạch của dự án và đánh giá hiệu quả của dự án bằng 
cách so sánh kết quả điều tra ban đầu và điều tra kết 
thúc sau 3 năm nên cỡ mẫu của khảo sát tại nhà sẽ 
được tính như sau: 
2
21
2
22111)2/1(
21 )(
])1()1([)1(2[
pp
ppppZppZ
nn
  
p1: Tỷ lệ bà mẹ nhận được sự chăm sóc sơ sinh 
đúng vào năm 2012 (được ước lượng 50%). p2: Tỷ lệ 
bà mẹ nhận được sự chăm sóc sơ sinh đúng vào năm 
2015 (được ước lượng = 65%). Như vậy, tổng số mẫu 
cho 2 huyện ở tỉnh sẽ là 516 phụ nữ (đã cộng thêm 
10% cho những người từ chối tham gia). Mẫu nghiên 
cứu được chọn theo kỹ thuật lấy mẫu nhiều giai đoạn 
(multi-stage sampling technique) được áp dụng qua 3 
giai đoạn. Số liệu được làm sạch và nhập 2 lần vào 
máy tính với phần mềm Epidata 3.1. Validate được 
thực hiện để đảm bảo sự chính xác trong quá trình 
nhập số liệu. Phần mềm STATA phiên bản 10.0 được 
sử dụng để phân tích số liệu. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
1. Một số đặc trưng cá nhân 
Tuổi trung bình của các bà mẹ được nghiên cứu là 
là 25,4 5,9 tuổi, không có sự khác biệt nhiều giữa 2 
huyện. Các bà mẹ dân tộc Kinh chiếm tỷ lệ thấp 
(10,27%), H’mông và Tày chiếm tỷ lệ cao nhất 
(36,63% và 31,78%). Có 34,11% bà mẹ có trình độ 
học vấn tốt nghiệp trung học cơ sở sau đó tới tiếp sau 
là phổ thông trung học (19,77%), đặc biệt tỷ lệ bà mẹ 
không biết đọc và biết viết rất cao (31,98%). Tỷ lệ bà 
mẹ làm ruộng, rẫy là cao nhất (88,18%) buôn bán nhỏ 
(3,68%); cũng có xấp xỉ 6,2% bà mẹ là cán bộ công 
chức nhà nước. 
2. Chăm sóc sơ sinh 
Bảng 1. Kiến thức của các bà mẹ về các việc cần 
làm ngay sau khi sinh 
Kiến thức về các dấu hiệu nguy hiểm 
 khi chuyển dạ 
Số 
lượn
g 
Tỷ lệ 
% 
Lau khô trẻ 413 80,04 
Giữ ấm cho trẻ 356 68,99 
Buộc và cắt dây rốn 177 34,30 
Bắt đầu cho trẻ bú mẹ trong vòng 1 giờ 
sau sinh 235 45,54 
Chăm sóc mắt cho trẻ 22 4,26 
Khác (cho mật ong, tắm, cho uống nước, 
kiểm tra dị tật, cân trẻ, hút nhớt) 18 3,48 
Không nhớ/biết 47 9,11 
Không trả lời 3 0,58 
Nhìn chung những hiểu biết của các bà mẹ về 
chăm sóc trẻ ngay sau khi sinh là tương đối thấp. Tỷ lệ 
các bà mẹ biết cần lau khô và ủ ấm cho trẻ chiếm 
80,04% và 68,99%. Tỷ lệ bà mẹ trả lời cần làm tắm 
ngay cho trẻ, hút nhớt, kiểm tra dị tật,.. chiếm 4,38%, 
chăm sóc mắt cho trẻ chiếm 4,26%. 
Bảng 2. Kiến thức của các bà mẹ về lợi ích của 
sữa mẹ và lợi ích của việc bú sớm trong vòng 1 giờ 
sau sinh 
Kiến thức của các bà mẹ về lợi ích 
 của sữa mẹ và bú sớm 
Số 
lượn
g 
Tỷ lệ 
% 
Kiến thức của các bà mẹ về lợi ích của sữa mẹ 
Tăng cường sức đề kháng của trẻ 219 53,16 
Trẻ có sức khoẻ tốt 344 83,50 
Tăng cường mối quan hệ mẹ con 48 11,65 
Giảm rối loạn tiêu hoá 38 9,22 
Trẻ thông minh 61 14,81 
Tốt cho mắt của trẻ 12 2,91 
Phòng các bệnh hô hấp cho trẻ 31 7,52 
Khác (không tốn tiền, đủ dinh dưỡng, 
sạch, mau lớn, thông minh) 25 6,06 
Kiến thức của các bà mẹ về lợi ích của bú sớm 
Tăng cường sức đề kháng của trẻ 198 68,51 
Trẻ có sức khoẻ tốt 231 79,93 
Tăng cường mối quan hệ mẹ con 48 16,61 
Giảm rối loạn tiêu hoá 28 9,69 
Trẻ sẽ thông minh 48 16,61 
Dạ con co tốt hơn, tránh băng huyết 18 6,23 
Sữa về sớm và nhiều hơn 31 10,73 
Vú ít sưng đau 15 5,19 
Khác (trẻ cao, không tốn tiền, chống 
SDD, 
phát triển trí não) 
4 1,38 
Kiến thức của bà mẹ về thời điểm nên cho trẻ bú lần 
đầu tiên 
 sau sinh 
Trong vòng 1h đầu sau đẻ 369 71,51 
Sau 1 giờ đầu 147 28,49 
 Y HỌC THỰC HÀNH (914) - SỐ 4/2014 
134
Kết quả bảng trên cho thấy tỷ lệ bà mẹ biết về lợi 
ích của sữa mẹ đối với trẻ sơ sinh là chưa cao, dao 
động từ 6,06% đến 83,50%. Có đến 20,16% bà mẹ 
không biết về lợi ích của sữa mẹ cho sức khỏe trẻ sơ 
sinh. Chỉ có 71,51% bà mẹ cho rằng cần cho trẻ sơ 
sinh bú ngay trong vòng 1 giờ sau sinh. Đây cũng là 
một nội dung cần can thiệp truyền thông thay đổi 
hành vi cho các bà mẹ về khía cạnh cho trẻ sơ sinh 
bú sớm trong vòng 1 giờ sau sinh và lợi ích của sữa 
mẹ đối với trẻ. 
Bảng 3. Một số thực hành chăm sóc trẻ sơ sinh 
ngay sau khi sinh 
Thực hành chăm sóc trẻ sơ sinh Số lượng 
Tỷ lệ 
% 
Lau khô sau khi cân 
Có 495 98,61 
Không 1 0,20 
Không nhớ/không biết 6 1,20 
ủ ấm 
Quần áo 497 99,00 
Đội mũ cho trẻ 492 98,01 
Chăn 473 94,22 
Sưởi cạnh bếp 84 16,73 
Khác (sưởi bằng bóng điện, nằm 
cạnh mẹ,) 16 3,18 
Không nhớ/không biết 3 0,60 
Tắm cho trẻ sau khi sinh 
Trong vòng 1 giờ sau sinh 51 10,16 
Trong vòng 2-3 giờ sau sinh 11 2,19 
Trong vòng từ 4 giờ đến hết ngày đầu 
tiên 81 16,14 
Sau 1 ngày 344 68,53 
Không nhớ 15 2,99 
Thực hành chăm sóc trẻ sơ sinh ngay sau khi 
sinh của các bà mẹ là tương đối tốt. Tỷ lệ trẻ được 
lau khô sau sinh chiếm 98,61% và tỷ lệ trẻ được tắm 
sau 1 ngày sau sinh chiếm tỷ lệ chưa cao 68,53%. 
Bảng 4. Hiểu biết của các bà mẹ về những dấu 
hiệu nguy hiểm của trẻ sơ sinh cần khám lại ngay 
sau sinh trong vòng 7 ngày 
Hiểu biết của bà mẹ về các dấu hiệu nguy 
hiểm của trẻ sơ sinh trong vòng 7 ngày 
Số 
lượng Tỷ lệ % 
Biết các dấu hiệu 
Biết 387 77,09 
Không biết 115 22,91 
Hiểu biết của bà mẹ về từng dấu hiệu nguy 
hiểm 
Bỏ bú, bú kém, không ăn được 174 44,96 
Sốt 228 58,91 
Co giật 26 6,72 
Tiêu chảy, phân có nhầy máu 67 17,31 
Rốn đỏ, chảy nước, dịch 51 13,18 
Mắt đỏ, chảy rử, mủ 7 1,81 
Vàng da hoặc vàng mắt 67 17,31 
Khóc nhiều 95 24,55 
Li bì, khó đánh thức 8 2,07 
Khó thở/ thở nhanh 63 16,28 
Tím tái 17 4,39 
Không đái được 11 2,84 
Không ỉa được 17 4,39 
Khác (mẩn đỏ, nôn trớ) 56 14,47 
Bảng trên cho thấy, tỷ lệ bà mẹ hiểu biết về từng 
dấu hiệu rất nguy hiểm cụ thể cho trẻ sơ sinh rất thấp 
như co giật (6,72%), tím tái (4,39%), không đại tiện 
được (4,39%) và các triệu chứng khác cũng dưới 25% 
trừ sốt (58,91%). Những dấu hiệu này chính là những 
triệu chứng báo trước đe dọa sức khỏe và tính mạng 
của trẻ sơ sinh. 
Bảng 5. Tỷ lệ trẻ sơ sinh được thăm khám lại và lý 
do không được khám lại trong vòng 7 tuần sau sinh 
Trẻ sơ sinh được khám lại sau sinh Số lượng Tỷ lệ % 
Có 224 43,41 
Không 292 56,59 
Lý do không đi khám lại sau sinh 
Không biết là cần phải đi khám 51 17,47 
Quá bận 13 4,45 
Không có tiền 6 2,05 
Cơ sở y tế ở xa 13 4,45 
Chồng không đồng ý 1 0,34 
Không có vấn đề gì nên không đi 
khám 224 76,71 
Khác (bố mẹ chồng không đồng ý, 
không ai đưa đi) 4 1,36 
Tỷ lệ trẻ sơ sinh được thăm khám lại trong vòng 7 
tuần sau đẻ chỉ đạt 43,41%. Trong số 292 trẻ sơ sinh 
không được khám lại sau sinh thì các lý do cơ bản mà 
các trẻ sơ sinh không được khám lại bao gồm: không 
có vấn đề gì nên không đi khám lại (76,71%), không 
biết cần phải khám lại (17,47%), quá bận và cơ sở y tế 
xa (cùng bằng 4,45%). Công tác truyền thông cho các 
bà mẹ biết cần phải khám lại cho trẻ sau sinh sau khi 
sinh cũng cần thiết được đưa vào nội dung can thiệp 
sau này. 
BÀN LUẬN 
1. Hiểu biết về chăm sóc sơ sinh 
Kết quả nghiên cứu cho thấy kiến thức của các bà 
mẹ tại huyện Trạm Tấu và Lục Yên về chăm sóc sơ 
sinh là khá thấp. Tỷ lệ các bà mẹ biết cần ủ ấm cho trẻ 
chỉ chiếm 68,99%, cần tắm ngay cho trẻ chiếm 4,38%, 
cần chăm sóc mắt cho trẻ chiếm 4,26 %. Chỉ có 
71,51% bà mẹ cho rằng cần cho trẻ sơ sinh bú ngay 
trong vòng 1 giờ sau sinh. Duy trì nhiệt độ cơ thể bình 
thường là rất quan trọng đối với trẻ sơ sinh, tránh nguy 
cơ hạ nhiệt độ ở trẻ, qua đó đảm bảo sự phát triển tốt 
nhất cho trẻ trong những ngày đầu. Việc chăm sóc dây 
rốn tốt có thể tránh được nhiễm trùng dây rốn cho trẻ 
sơ sinh và rất quan trọng trong dự phòng nhiễm trùng 
sơ sinh sớm, đặc biệt là việc cắt dây rốn vô trùng ngay 
sau sinh [2]. Một nghiên cứu can thiệp tại 3 tỉnh tại Việt 
Nam cho thấy Tỷ lệ các bà mẹ biết được những hành 
động chăm sóc ngay lập tức cho trẻ sơ sinh khá thấp 
năm 2008 là 7,9%. Có sự khác biệt này có thể trình độ 
của các bà mẹ còn hạn chế. Đồng thời do sự tuyên 
truyền, phổ biến kiến thức cho các bà mẹ còn chưa 
đồng đều, các hiểu biết về việc cần thiết của chăm sóc 
mắt và cho trẻ sơ sinh bắt đầu bú ngay sau sinh còn 
chưa được chú trọng so với các nội dung khác. Theo 
khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới nên cho trẻ bú 
sớm trong vòng 1 giờ sau sinh, sẽ đem lại nhiều lợi ích 
cho sức khỏe của trẻ sơ sinh và của cả bà mẹ. Tỷ lệ 
Y HỌC THỰC HÀNH (914) - SỐ 4/2014 
135
này cao hơn nhiều kết quả của nghiên cứu tại Ấn Độ 
với 54,5% bà mẹ biết bắt đầu cho trẻ bú trong vòng 1 
giờ sau sinh [1]. Điều này có thể do đối tượng nghiên 
cứu của 2 nghiên cứu có sự khác biệt. Đối tượng của 
nghiên cứu này là các bà mẹ ở cả khu vực đô thị và 
nông thôn thuộc tỉnh Yên Bái. Trong khi đó, nghiên 
cứu tại Indore Ấn Độ, đối tượng nghiên cứu lại tập 
trung vào các bà mẹ nghèo ở khu ổ chuột, đây là đối 
tượng có trình độ thấp, cuộc sống gặp nhiều khó khăn 
nên ít được tiếp xúc với các kiến thức và dịch vụ chăm 
sóc sơ sinh, dẫn đến tỷ lệ bà mẹ cho biết cần cho con 
bú sớm trong vòng 1 giờ sau sinh chiếm tỷ lệ thấp. 
2. Thực hành chăm sóc sơ sinh 
Trong nghiên cứu này, tỷ lệ trẻ sơ sinh được thăm 
khám lại trong vòng 7 tuần sau đẻ chỉ đạt 43,4%, lý do 
chính trẻ sơ sinh không được khám lại sau sinh là 
không có vấn đề gì nên không đi khám lại (76,71%), 
không biết cần phải khám lại (17,47%), cơ sở y tế xa 
và quá bận (cùng bằng 4,45%. Nhiều bà mẹ cho trẻ 
uống mật ong hoặc các loại nước thuốc nam trước khi 
cho con bú. Tại Việt Nam, chương trình chăm sóc sức 
khỏe bà mẹ và trẻ sơ sinh đã được Chính phủ quan 
tâm trong chiến lược phát triển y tế, đồng thời những 
năm gần đây đã được sự hỗ trợ từ các tổ chức phi 
chính phủ, nên chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ sơ 
sinh đã được cải thiện rất nhiều. Kết quả này cao hơn 
so với nghiên cứu tại phía Đông Ugandan năm 2010 
với tỷ lệ trẻ em được giữ ấm ngay lập tự bằng các biện 
pháp sử dụng chăn, quần áo và mũ là 86,0% [10]. Duy 
trì tốt thân nhiệt cho trẻ mới sinh có vai trò rất quan 
trọng để ngăn ngừa hạ thân nhiệt, hạ đường huyết và 
nhiễm trùng ở trẻ sơ sinh. Các nghiên cứu tại Uganda 
đã chỉ ra rằng ngay ở một đất nước nhiệt đới thì tỷ lệ 
hạ thân nhiệt khi sinh cũng là phổ biến [4]. Vì vậy, việc 
sử dụng các biện pháp duy trì thân nhiệt cho mới sinh 
là rất quan trọng. Trong đó, biện pháp giữ thân nhiệt 
cho trẻ sơ sinh bằng phương pháp da kề da được 
khuyến khích sử dụng [5]. Theo kết quả nghiên cứu tỷ 
lệ các bà mẹ sử dụng phương pháp da kề da để giữ 
ấm cho trẻ trong năm 2008 chiếm tỷ lệ rất thấp (3,4%), 
tuy nhiên tỷ lệ này được tăng lên rất nhiều trong năm 
2011 với 23,4% cao hơn rất nhiều so với kết quả gần 
3,0% theo nghiên cứu tại miền Đông Uganda [4]. Theo 
khuyến cáo của TCYTTG, trẻ sơ sinh nên được tắm 
lần đầu tiên không sớm hơn 24 giờ sau khi sinh, để 
tránh nguy cơ hạ nhiệt độ cho trẻ. Nghiên cứu tại Ấn 
Độ cho thấy khoảng 75% bà mẹ tắm lần đầu tiên cho 
trẻ 1 ngày sau sinh theo nghiên cứu của Mohamed 
Asif Padiyath và cộng sự tại Ấn Độ năm 200 [5]. Tuy 
nhiên, một thực tế rất phổ biến xảy ra là trẻ sơ sinh 
được tắm ngay lập tức sau khi sinh, đa số trong vòng 
12 giờ đầu tiên và hầu hết đều được tắm trong vòng 
24 giờ đầu sau sinh [2], [6]. Điều này làm cho trẻ sơ 
sinh có nguy cơ bị hạ nhiệt độ nguy hiểm hơn so với 
việc thiếu lau khô và thiếu quần áo ấm. Lý do cho 
việc thực hành này tại một số nước Nepal, Ấn Độ hay 
Uganda, các bà mẹ tin rằng máu, chất lỏng và lớp 
chất gây ở trên da trẻ mới sinh là không sạch và có 
thể loại bỏ triệt để; đây là hiểu biết sai lầm dẫn đến 
thực hành không đúng, gây nguy cơ hạ nhiệt độ và tử 
vong cho trẻ sơ sinh. 
Tỷ lệ trẻ sơ sinh được bú mẹ ngay trong vòng 30 
phút sau khi sinh trong nghiên cứu này thấp. Kết quả 
này phù hợp với nghiên cứu tại miền Đông Uganda 
năm 2010 của Waiswa P và CS: mặc dù tất cả đều 
được bú sữa mẹ, nhưng chỉ khoảng một nửa trong số 
đó được bú sữa mẹ trong vòng một giờ đầu sau sinh 
[6]. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng các bà mẹ thường 
chờ đợi một vài ngày sau sinh mới bắt đầu cho con bú, 
họ tránh cho trẻ bú sữa non hoặc đồng thời cho trẻ ăn 
bổ sung các thức ăn khác ngoài sữa mẹ như sữa bò, 
nước, nước đường, nước hoa quả ép và trà trái với 
khuyến cáo của WHO [6], [7]. 
KẾT LUẬN 
Kết quả nghiên cứu cho thấy kiến thức và thực 
hành của các bà mẹ ở Yên Bái về chăm sóc sơ sinh là 
không đồng đều cho các nội dung chăm sóc sơ sinh. 
Các kiến thức và thực hành của các bà mẹ cần được 
nâng cao là cần tắm cho trẻ sau 24 giờ, hút nhớt, kiểm 
tra dị tật, chăm sóc mắt, lợi ích của sữa mẹ, các dấu 
hiệu rất nguy hiểm cụ thể cho trẻ sơ sinh, thăm khám 
lại trong vòng 7 tuần sau đẻ. Công tác truyền thông 
cho các bà mẹ biết cần phải khám lại cho trẻ sau sinh 
là rất cần thiết cần được đưa vào nội dung can thiệp 
sau này. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Agarwal S., Srivastava K., Sethi V (2007). Maternal 
and newborn care practices among the Urban poor in 
Indore, India: Gaps, Reasons and Possible Program 
Options. Urban Health Resource Center (New Delhi). pp: 
42. 
2. Baqui A.H., Williams E.K., Darmstadt G.L. et al 
(2007). Newborn Care in Rural Uttar Pradesh. Indian J 
Pediatrics Volume 74; pp: 241-247. 
3. Darmstadt G.L., Kumar V., Yadav R. et al 
(2006). Introduction of community based skin-to-skin care 
in rural Uttar Pradesh, India. J Perinatol 26(10): 597-604. 
4. Waiswa P., Peterson S., Tomson G. et al (2010). 
Poor newborn care practices a population based survey in 
eastern Uganda. BMC Pregnancy and Childbirth 2010, 
10:9. 
5. Mohamed Asif Padiyath, Vishnu Bhat B, Maheswari 
Ekambaram (2010). Knowledge attitiude and practice of 
neonatal care among postnatal mothers. Curr Pediatr Res 
Volume 14 Issue 2; pp: 147-152. 
6. Osrin D., Tumbahangphe K., Shrestha D. et al 
(2002). Cross sectional, community based study of care 
newborn infants in Nepal. BMJ 325(1063). 
7. Talukder M. (2000). The importance of 
breastfeeding and strategies to sustain high breastfeeding 
rates. Improving newborn infant health in developing 
countries. Singapore: World Scientific Publications. pp: 
309-342. 

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_kien_thuc_va_thuc_hanh_cham_soc_so_sinh_cua_cac_b.pdf