Nghiên cứu kiến thức, thực hành về làm mẹ an toàn của bà mẹ có con dưới 24 tháng tuổi tại tỉnh Trà Vinh năm 2014
Nghiên cứu kiến thức và thực hành về làm mẹ an toàn (LMAT) của bà mẹ
có con dưới 24 tháng tuổi tại tỉnh Trà Vinh năm 2014 cho thấy: Tỷ lệ đối tượng
có kiến thức đúng về lợi ích của sữa mẹ 26,25 %; lợi ích của sữa non - 44,31 %;
lợi ích việc uống viên sắt - 69,17 %; lợi ích tiêm phòng uốn ván - 73,61 % ; lợi
ích của khám thai - 75,69 %; số lần tiêm phòng uốn ván - 77,64 %; thời điểm
khám thai - 82,08 %; chọn nơi sinh - 99,31 %. Tỷ lệ có kiến thức chung đúng về
LMAT là 17,78 %. Thực hành đúng về LMAT: Tỷ lệ tiêm phòng uốn ván 2 lần
đạt 60,28 %; Cho con bú sữa non - 78,61 %; Uống viên sắt trên 90 ngày -
85,28%; Khám thai 3 lần - 87,36%; Thực hiện KHHGĐ - 90,69 %; Nuôi con
bằng sữa mẹ - 94,03 %; Sinh con ở cơ sở y tế - 99,72%. Tỷ lệ thực hành chung
đúng về LMAT là 68,19%.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu kiến thức, thực hành về làm mẹ an toàn của bà mẹ có con dưới 24 tháng tuổi tại tỉnh Trà Vinh năm 2014
190 NGHIÊN CỨU KIẾN THỨC, THỰC HÀNH VỀ LÀM MẸ AN TOÀN CỦA BÀ MẸ CÓ CON DƯỚI 24 THÁNG TUỔI TẠI TỈNH TRÀ VINH NĂM 2014 BSCKII. Trương Văn Dũng Trung tâm Truyền thông GDSK tỉnh Trà Vinh Tóm tắt nghiên cứu Nghiên cứu kiến thức và thực hành về làm mẹ an toàn (LMAT) của bà mẹ có con dưới 24 tháng tuổi tại tỉnh Trà Vinh năm 2014 cho thấy: Tỷ lệ đối tượng có kiến thức đúng về lợi ích của sữa mẹ 26,25 %; lợi ích của sữa non - 44,31 %; lợi ích việc uống viên sắt - 69,17 %; lợi ích tiêm phòng uốn ván - 73,61 % ; lợi ích của khám thai - 75,69 %; số lần tiêm phòng uốn ván - 77,64 %; thời điểm khám thai - 82,08 %; chọn nơi sinh - 99,31 %. Tỷ lệ có kiến thức chung đúng về LMAT là 17,78 %. Thực hành đúng về LMAT: Tỷ lệ tiêm phòng uốn ván 2 lần đạt 60,28 %; Cho con bú sữa non - 78,61 %; Uống viên sắt trên 90 ngày - 85,28%; Khám thai 3 lần - 87,36%; Thực hiện KHHGĐ - 90,69 %; Nuôi con bằng sữa mẹ - 94,03 %; Sinh con ở cơ sở y tế - 99,72%. Tỷ lệ thực hành chung đúng về LMAT là 68,19%. Kết quả nghiên cứu cũng xác định được mối liên quan giữa các yếu tố tuổi, trình độ học vấn và thu nhập gia đình với hiểu biết đúng về khám thai. Có mối liên quan giữa các yếu tố nghề nghiệp, trình độ học vấn, thu nhập gia đình và số con của bà mẹ với hiểu biết đúng về tiêm phòng uốn ván. Có mối liên quan giữa các yếu tố tuổi và nghề nghiệp với hiểu biết đúng về các biện pháp tránh thai. Có mối liên quan giữa các yếu tố tuổi, nghề nghiệp và trình độ học vấn của bà mẹ với kiến thức chung đúng về làm mẹ an toàn. Có mối liên quan giữa các yếu tố tuổi, trình độ học vấn và số con của bà mẹ với thực hành đúng về khám thai, tiêm phòng uốn ván. Các yếu tố tuổi, trình độ học vấn, thu nhập gia đình và số con của bà mẹ có mối liên quan với thực hành đúng về nuôi con bằng sữa mẹ và bú sữa non. Có mối liên quan giữa các yếu tố tuổi, nghề nghiệp, trình độ học vấn và số con của bà mẹ với thực hành chung đúng về LMAT. 1. Đặt vấn đề Làm mẹ an toàn là một trong những nội dung của chăm sóc sức khỏe sinh sản (SKSS), là nội dung được đề cập đầu tiên trong chương trình giáo dục SKSS, vì trên hết, đó là các hoạt động nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe cho bà mẹ và trẻ sơ sinh, nhằm giảm tối thiểu tỷ lệ tai biến sản khoa, giảm tình trạng tử vong mẹ và tử vong sơ sinh [1], [2], [3]. Để có những thông tin giúp cho công 191 tác quản lý về chăm sóc SKSS và có cơ sở lập kế hoạch công tác truyền thông giáo dục sức khỏe (TT-GDSK) trên địa bàn tỉnh Trà Vinh, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu kiến thức, thực hành về làm mẹ an toàn của bà mẹ có con dưới 24 tháng tuổi tại tỉnh Trà Vinh năm 2014”. 2. Mục tiêu nghiên cứu 1. Đánh giá thực trạng kiến thức, thực hành về LMAT của bà mẹ có con dưới 24 tháng tuổi tại tỉnh Trà Vinh năm 2014. 2. Mô tả một số yếu tố liên quan đến kiến thức và thực hành về LMAT của bà mẹ có con dưới 24 tháng tuổi tại tỉnh Trà Vinh năm 2014. 3. Phương pháp nghiên cứu 3.1. Đối tượng: Bà mẹ có con dưới 24 tháng tuổi (sinh từ ngày 01 tháng 3 năm 2012 đến ngày 01 tháng 3 năm 2014) trên địa bàn tỉnh Trà Vinh. 3.2. Thiết kế nghiên cứu: nghiên cứu cắt ngang trên mẫu ngẫu nhiên. 3.3. Cỡ mẫu nghiên cứu: Chọn mẫu cụm, điều tra phỏng vấn 30 xã/phường/thị trấn trong tỉnh. Sử dụng công thức tính cỡ mẫu: n = Z2(1- /2) 2 )1( d pp Trong đó: n = Cỡ mẫu tối thiểu cần để nghiên cứu; Z = 1,96 là mức tin cậy mong muốn 95%; p = 35 % là tỷ lệ ước đoán tham số chưa biết của quần thể (theo Huỳnh Minh Phúc tại Long An, năm 2009; c = 0,05 mức chính xác của nghiên cứu, chọn hệ số thiết kế k = 2; cỡ mẫu n = 350 x 2 = 700. Chúng tôi chọn n = 720, mỗi cụm tiến hành phỏng vấn 720/30 = 24 đối tượng [8], [10]. 3.4. Chọn mẫu: Bước 1 chọn 30 cụm theo khoảng cách mẫu Bước 2 chọn ấp/khóm theo phương pháp ngẫu nhiên, chọn cá thể theo phương pháp cổng liền cổng. 3.5. Biến số nghiên cứu: Tuổi; Dân tộc; Tôn giáo; Nghề nghiệp; Học vấn của bà mẹ; Tổng số con; Thu nhập gia đình. Kiến thức và thực hành gồm các nội dung trước, trong và sau khi sinh về LMAT. Một số yếu tố liên quan đến 192 kiến thức và thực hành về LMAT gồm: tuổi, nghề nghiệp, học vấn, thu nhập gia đình, số con của bà mẹ. 3.6. Địa điểm nghiên cứu: Tất cả 105 xã/phường/thị trấn trong tỉnh Trà Vinh 3.7. Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 5 đến tháng 8 năm 2014. 3.8. Xử lý số liệu: bằng phần mềm chương trình Excell 2010. Sử dụng test thống kê χ2. Chọn mức ý nghĩa p<0,05. 4. Kết quả nghiên cứu và bàn luận 4.1. Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu Tuổi của bà mẹ nhỏ nhất là 16 và lớn nhất là 47, có 03 bà mẹ dưới 18 tuổi. Nhóm tuổi 25-29 chiếm tỷ lệ cao nhất (32,08%). Dân tộc Kinh chiếm tỷ lệ 71,94% dân số, còn lại là các dân tộc khác. Có khoảng 65% theo đạo, Phật giáo chiếm gần 60%. Đa số là nội trợ (36,25%), kế đến là công nhân (21,53%), làm ruộng (18,06%), buôn bán (15%) và CBCCVC (7,08%). Hộ nghèo và cận nghèo chiếm 15%. Có 70,84% bà mẹ có trình độ học vấn từ trung học cơ sở trở lên (THCS 40,83; THPT 22,08%; cao đẳng, đại học 7,93%). Tỷ lệ à mẹ biết đọc biết viết 7,08%; có trình độ tiểu học 22,08%. Số bà mẹ có dưới 3 con chiếm đa số (93,75%). Đa số đều dùng phương tiện xe mô tô để tiếp cận các cơ sở y tế (90,56%). Cán bộ y tế, truyền hình, đài phát thanh là nơi bà mẹ nhận được thông tin về LMAT nhiều nhất (80,69%; 70%) kế đến là cộng tác viên y tế/dân số 49,64%, sách báo tạp chí 27,64%; cha mẹ hoặc chồng 15,56%; internet 14,31% thấp nhất là từ cán bộ ban ngành, đoàn thể 8,06%. 4.2. Kiến thức chung của bà mẹ về LMAT 4.2.1. Kiến thức về khám thai Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ bà mẹ hiểu biết về lợi ích khám thai đạt 75,69% và khám thai ở 3 tháng đầu (94,17%) và 3 tháng cuối (90,56%) cao hơn 3 tháng giữa của thai kỳ (89,86%). Kết quả này thấp hơn nghiên cứu của tác giả Huỳnh Minh Phúc (100%) và của Trần Thị Khuyên tại Lai Châu năm 2009 (98,5%) [7],[6]. Tỷ lệ bà mẹ hiểu biết đúng cả 2 nội dung đạt tỷ lệ trung bình (66,11%). Tỷ lệ bà mẹ hiểu biết về việc phải khám thai ít nhất 3 lần trong 3 thai kỳ là 87,36%, tỷ lệ này cao hơn nghiên cứu của tác giả Huỳnh Minh Phúc ở Long An (80,6%), của Trần Thị Khuyên ở Lai Châu (62,7%) [5],[4]. 193 Tỷ lệ chọn nơi khám thai là cơ sở y tế đạt 99,86%; trong đó chọn phòng khám tư nhân đạt tỷ lệ cao nhất 37,45%, kế đến là ở trạm y tế 35,48%, bệnh viện huyện và tỉnh gần tương đương nhau (11,50% ; 10,94%), bệnh viện tại thành phố Hồ Chí Minh là 4,49%. Kết quả nghiên cứu cho thấy, tỷ lệ bà mẹ chọn lựa nơi sinh là trạm y tế thấp, nhưng ngược lại đa số các bà mẹ vẫn chọn trạm y tế để khám thai, điều đó cho thấy, nơi đây vẫn là tuyến CSSKSS ban đầu cần thiết. Để làm tốt nhiệm vụ nầy các trạm y tế phải làm tốt công tác chuyên môn nghiệp vụ, năng lực quản lý, kỹ năng truyền thông, tư vấn. 4.2.2. Kiến thức về tiêm phòng uốn ván Tỷ lệ bà mẹ hiểu biết về lợi ích của tiêm phòng uốn ván là 73,61%, hiểu biết phải tiêm phòng uốn ván 2 lần trong thai kỳ đạt 77,64%, tỷ lệ nầy thấp hơn nghiên cứu của tác giả Huỳnh Minh Phúc (95,6%) và cao hơn của Trần Thị Khuyên tại Lai Châu năm 2009 (75,8%) [7],[6]. 4.2.3. Kiến thức về uống viên sắt Tỷ lệ bà mẹ hiểu biết về lợi ích của việc uống viên sắt đạt 69,17%, tỷ lệ bà mẹ hiểu biết về thời gian uống viên sắt trong thai kỳ đạt 41,39%.%, tỷ lệ này thấp hơn nghiên cứu của tác giả Huỳnh Minh Phúc tại Long An năm 2009 (87,7%) [7]. 4.2.4. Kiến thức về dinh dưỡng, lao động Tỷ lệ hiểu biết về dinh dưỡng và lao động đạt 63,89%, tỷ lệ này thấp hơn của tác giả Trần Thị Khuyên tại Lai Châu năm 2009 (85,8%) [6]. Tỷ lệ biết nội dung không làm việc nặng nhọc khi mang thai đạt 88,19% cao hơn 2 nội dung nghỉ ngơi hoàn toàn 4 tuần trước khi sinh và ngủ ít nhất 8 tiếng trong ngày đạt thấp (48,61%; 36,81%). Tỷ lệ bà mẹ hiểu cả 3 nội dung trên, đạt thấp 16,81%. Có thể do điều kiện kinh tế gia đình, các bà mẹ phải cố gắng làm việc cho đến khi gần sinh mới nghỉ, thời gian dành cho ngủ đủ trong ngày lại càng hiếm. Tỷ lệ bà mẹ biết thực hành dinh dưỡng đúng khi mang thai đạt 74,03%. Tỷ lệ bà mẹ có thực hành đúng về lao động trong quá trình mang thai đạt 83,06%. Số bà mẹ vẫn phải lao động bình thường như khi không mang thai là 16,39%. 4.2.5. Kiến thức về lựa chọn nơi sinh Gần như tất cả các bà mẹ hiện nay đều biết chọn nơi sinh là các cơ sở y tế (99,31%). Có 32,08% chọn trạm y tế; 66,39% chọn bệnh viện huyện; 92,92% chọn bệnh viện tỉnh và 39,31% chọn nơi sinh là bệnh viện ở thành phố Hồ Chí Minh. Kết quả này cao hơn nghiên cứu của Trần Thị Khuyên tại Lai Châu, năm 2009 (97,7%) [6]. Kết quả nghiên cứu phù hợp với thực tế của tỉnh hiện nay, do 194 kinh tế phát triển, giao thông thuận lợi và các bà mẹ cũng đẻ ý con nên các gia đình có điều kiện thường chọn tuyến trên để sinh nở, ít chọn trạm y tế. Kết quả nghiên cứu có 99,72% bà mẹ sinh tại các cơ sở y tế. Trong đó tỷ lệ chọn nơi sinh cao nhất là bệnh viện tỉnh 65,69%; kế đến là bệnh viện huyện 23,75%; cơ sở y tế tư nhân 4,17%, trạm y tế 3,61%, bệnh viện ở thành phố Hồ Chí Minh 2,5%. Tỷ lệ sinh con tại nhà trong nghiên cứu này thấp hơn nghiên cứu của tác giả Vũ Xuân Diện tại Quảng Ninh năm 2011 (13,9%) [3]. 4.2.6. Kiến thức về dấu hiệu nguy hiểm trước, trong và sau khi sinh Dấu hiệu khi mang thai: Tỷ lệ bà mẹ hiểu biết dấu hiệu đau bụng đạt 65%; ra máu âm đạo (63,19%); phù mặt, tay, chân (55,83%), vỡ ối sớm trước khi chuyển dạ (36,39%); xanh xao, mệt mỏi và thai không đạp sau tháng thứ tư (19,47%). Tỷ lệ hiểu biết từ 4 đến 6 những dấu hiệu trên đạt thấp 17,92%. Tỷ lệ hiểu biết các dấu hiểu nguy hiểm trong chuyển dạ gồm: đau bụng 48,47%; chảy máu âm đạo 39,03%; sốt cao 76,11 và co giật 59,03%. Tỷ lệ hiểu biết từ 3 đến 4 dấu hiệu trên, đạt thấp 35,97%. Tỷ lệ hiểu biết về dấu hiệu nguy hiểm sau khi sinh gồm: dấu hiệu chảy máu nhiều 61,11%; dịch âm đạo có mùi hôi 55,33%; đau bụng âm ỉ kéo dài 53,61% và sốt cao kéo dài đạt 71,81%. Tỷ lệ bà mẹ hiểu biết từ 3 đến 4 dấu hiệu trên, đạt thấp 46,94%. Tỷ lệ bà mẹ biết cách xử trí khi gặp những dấu hiểu nguy hiểm trước, trong và sau khi sinh đạt tốt 95,14%. 4.2.7. Nuôi con bằng sữa mẹ Tỷ lệ bà mẹ hiểu biết sữa mẹ có đủ chất dinh dưỡng đạt 98,06%; sữa mẹ có nhiều chất kháng khuẩn và chống dị ứng 66,11% và sữa mẹ thuận tiện, đỡ tốn kém tiền bạc 36,39%. Tỷ lệ hiểu biết cả 3 nội dung trên, đạt thấp 26,25%. Kết quả này thấp so với ngiên cứu của Tôn Thị Anh Tú năm 2010 tại Bệnh viện Nhi Đồng I là 43,34%. Tỷ lệ bà mẹ hiểu biết đúng từng nội dung về lợi ích của sữa non gồm: sữa non có nhiều dinh dưỡng là 93,61%; dễ tiêu hoá cho trẻ 73,73%; nhiều kháng thể 62,50%. Tỷ lệ bà mẹ hiểu đúng cả 3 nội dung trên chỉ đạt 44,31%, thấp hơn nghiên cứu của tác giả Huỳnh Minh Phúc (68,8%) [7]. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ nuôi con bằng sữa mẹ là 94,03% các loại sữa khác là 5,97%. Tỷ lệ thực hành đúng trong việc cho con bú sữa non đạt 78,61%. Tỷ lệ này cao hơn nghiên cứu của Tôn Thị Anh Tú (37,34%) tại bệnh viện Nhi Đồng I năm 2010. Theo nghiên cứu của Đặng Cẩm Tú về thực trạng cai sữa của trẻ em dưới 36 tháng tuổi tại ba tỉnh Lào Cai, Hà Nam và Quảng Bình thì tỷ lệ bà mẹ cho con bú kéo dài đến 24 tháng tuổi chỉ đạt mức độ thấp là 16% [8]. 195 4.2.8. Kiến thức về kế hoạch hóa gia đình Tỷ lệ bà mẹ hiểu biết lợi ích của việc thực hiện KHHGĐ sẽ có điều kiện chăm sóc, nuôi dạy con cái tốt hơn đạt cao 95,14%; có điều kiện chăm sóc sức khỏe cho bản thân đạt 60,42% và ngăn ngừa sự nghèo đói chỉ đạt 29,86%. Tỷ lệ hiểu biết cả ba nội dung trên, đạt thấp 17,78%. Tỷ lệ hiểu biết các BPTT hiện đại bao gồm: đặt vòng 90%; bao cao su 81,25%; thuốc viên tránh thai 83,61%; thuốc tiêm tránh thai 38,33% và triệt sản nam, nữ là 14,58%. Kết quả hiểu biết biện pháp đặt vòng và bao cao su gần bằng với kết quả nghiên cứu của Nguyễn Đức Thanh năm 2013 tại Nghệ An (85,5%; 88,5%), nhưng biện pháp thuốc uống và thuốc tiêm thì cao hơn của tác giả Nguyễn Đức Thanh (16,8%; 49,2%) [9]. Tỷ lệ biết từ 4 đến 5 BPTT đạt 34,58%. Kết quả này thấp so với nghiên cứu của Nguyễn Đức Thanh và Trần An Vương ở Bến Tre và ở Kon Tum (82,97%; 53,7%) [10]. Theo kết quả nghiên cứu của tác giả Đoàn Thanh Điền năm 2012 ở Cần Thơ thì tỷ lệ phá thai lập lại là 89,37%, tai biến trong phá thai là 28,22% [4]. Bảng 1: Hiểu biết đúng từng nội dung về LMAT (n=720) Kiến thức về làm mẹ an toàn Tần số Tỷ lệ (%) 1. Lợi ích của sữa mẹ 2. Lao động, nghỉ ngơi khi mang thai 3. Lợi ích của KHHGĐ 4. Dấu hiệu nguy hiểm khi mang thai 5. Các biện pháp tránh thai hiện đại 6. Dấu hiệu nguy hiểm khi chuyển dạ 7. Lợi ích của sữa non 8. Thời gian uống viên sắt 9. Dấu hiệu nguy hiểm sau khi sinh 10. Dinh dưỡng khi mang thai 11. Lợi ích việc uống viên sắt 12. Lợi ích tiêm phòng uốn ván 13. Lợi ích của khám thai 14. Số lần tiêm phòng uốn ván 15. Thời điểm khám thai 16. Chọn nơi sinh 189 121 128 129 249 259 319 298 338 460 498 530 545 559 591 715 26,25 16,81 17,78 17,92 34,58 35,97 44,31 41,39 46,94 63,89 69,17 73,61 75,69 77,64 82,08 99,31 196 Trong 16 nội dung kiến thức về LMAT chỉ có 7 nội dung đạt từ 60% trở lên, còn lại 9 nội dung đạt dưới 60%. Có kiến thức đầy đủ về việc chăm sóc đúng cách suốt 3 giai đoạn trước, trong và sau khi sinh đối với phụ nữ mang thai là rất quan trọng. Lượng thông tin cung cấp cho bà mẹ ở đây cũng khá nhiều, do đó cần phải có kế hoạch, phương pháp truyền thông cho phù hợp để bà mẹ dễ tiếp thu, nhằm nâng tỷ lệ kiến thức cho bà mẹ. Tỷ lệ bà mẹ có kiến thức chung đúng về LMAT, nghĩa là số bà mẹ hiểu biết đúng từ 13 đến 16 nội dung, trong đó phải hiểu biết đúng 02 nội dung lợi ích của sữa mẹ và sữa non đạt thấp 17,78%. 4.3. Thực hành chung của bà mẹ về LMAT Bảng 2: Thực hành đúng từng nội dung về LMAT (n=720) Thực hành về làm mẹ an toàn Tần số Tỷ lệ (%) 1. Tiêm phòng uốn ván 2 lần 2. Ăn uống dinh dưỡng tốt 3. Cho con bú sữa non 4. Lao động, nghỉ ngơi phù hợp 5. Uống viên sắt trên 90 ngày 6. Khám thai 3 lần 7. Có thực hiện KHHGĐ 8. Nuôi con bằng sữa mẹ 9. Tiêm phòng uốn ván 10. Khám thai tại cơ sở y tế 11. Uống viên sắt 12. Khám thai 13. Sinh con tại cơ sở y tế 434 533 566 598 614 629 653 677 709 712 712 713 718 60,28 74,03 78,61 83,06 85,28 87,36 90,69 94,03 98,47 98,89 98,89 99,03 99,72 Trong 13 nội dung về thực hành LMAT, có 07 nội dung đạt từ 90% trở lên và 06 nôi dung đạt dưới 90%. Tỷ lệ bà mẹ có thực hành LMAT đúng đạt 68,19%, nghĩa là số bà mẹ thực hành đúng từ 11 đến 13 nội dung trong đó phải có 2 nội dung nuôi con bằng sữa mẹ và cho con bú sữa non. 197 4.4. Các yêu tố liên quan đến kiến thức Có mối liên quan các yếu tố tuổi, trình độ học vấn, thu nhập gia đình với kiến thức đúng về khám thai. Sự khác biệt này có ý nghĩa về mặt thống kê với p<0,05. Tỷ lệ hiểu biết của bà mẹ trong nhóm tuổi 25-29 là 72,73%, nhóm trình độ học vấn cao là 69,02% và nhóm thu nhập gia đình ổn định là 69,12%. Đây là nhóm bà mẹ ở độ tuổi kết hôn, thành chồng thành vợ, có trình độ, ổn định việc làm, mong muốn có con nên quan tâm đến những vấn đề có liên quan đến thai nghén nhiều hơn các nhóm tuổi còn lại. Có mối liên quan các yếu tố nghề nghiệp, trình độ học vấn, thu nhập gia đình và số con của bà mẹ với việc hiểu biết đúng về việc tiêm phòng uốn ván. Tỷ lệ hiểu biết của bà mẹ là CBCCVC là 74,51%, trình độ học vấn cao 60,02%, thu nhập gia đình ổn định là 59,31% và có dưới 3 con là 58,37%. Bà mẹ là CBCCVC có môi trường làm việc thuận lợi, có điều kiện tiếp cận thông tin. Bên cạnh đó khi có trình độ học vấn hiểu biết tốt và kinh tế gia đình ổn định, thì việc tiếp cận trao dồi kiến thức cũng sẽ tốt hơn. Có mối liên quan các yếu tố tuổi và nghề nghiệp của bà mẹ với các biện pháp tránh thai hiện đại. Tỷ lệ hiểu biết của bà mẹ trong nhóm tuổi 25-29 là 41,13%, là CBCCVC là 60,78%. Ở độ tuổi đã trưởng thành, có nhận thức về việc làm của mình, sống trong môi trường làm việc có tổ chức, những quy định mà người CBCCVC phải thực hiện về KHHGĐ, đã tác động đến hiểu biết của nhóm bà mẹ này. Bảng 3: Các yếu tố liên quan đến kiến thức chung về LMAT Đặc tính n=720 Đạt Không đạt χ 2 , p n=128 % n=592 % Tuổi - < 20 (n= 38) - 20 – 24 (n= 210) - 25 – 29 (n= 231) - 30 – 34 (n= 165) - 35 – ≥ 40 (n= 76) 07 23 51 32 15 18,42 10,95 22,08 19,39 19,74 31 187 180 133 61 81,58 89,05 77,92 80,61 80,26 χ 2= 10,120 p < 0,05 Nghề nghiệp - Làm ruộng(n= 130) - Buôn bán (n= 108) - CBCCVC (n= 51) - Nội trợ (n= 261) - Công nhân(n= 170) 25 15 18 43 27 19,23 13,89 35,29 16,48 15,88 105 93 33 218 143 80,77 86,11 64,71 83,52 84,12 χ2= 12,731 p < 0,05 Học vấn -Thấp (n=210) - Cao (n= 510) 26 102 12,38 20,00 184 408 87,62 80,00 χ 2 = 5,907 p < 0,05 198 Có mối liên quan các yếu tố tuổi, nghề nghiệp và trình độ học vấn của bà mẹ với kiến thức chung đúng về LMAT. Tỷ lệ hiểu biết của bà mẹ trong nhóm tuổi từ 25-29 là 22,08%, là CBCCVC 35,29% và có trình độ học vấn cao là 20%. Đây là nhóm bà mẹ có nhiều yếu tố và điều kiện thuận lợi, nên có nhận thức và kiến thức tốt hơn so với bà mẹ của nhóm khác. 4.5. Các yếu tố liên quan đến thực hành Bảng 4: Các yếu tố liên quan đến thực hành chung về LMAT Đặc tính n=720 Đạt Không đạt χ 2 , p n=491 % n=229 % Tuổi - < 20 (n= 38) - 20 – 24 (n= 210) - 25 – 29 (n= 231) - 30 – 34 (n= 165) - 35 – ≥ 40 (n= 76) 20 139 173 104 55 52,63 66,19 74,89 63,03 72,37 18 71 58 61 20 47,37 33,81 25,11 36,97 26,32 χ2 = 12,048 p < 0,05 Nghề nghiệp - Làm ruộng(n= 130) - Buôn bán (n= 108) - CBCCVC (n= 51) - Nội trợ (n= 261) - Công nhân(n= 155) - Khác (n= 15) 96 79 39 162 108 07 73,85 73,15 76,47 62,07 69,68 46,67 34 29 12 99 47 08 26,15 26,85 23,53 37,93 30,32 53,33 χ 2 = 12,624 p < 0,05 Học vấn -Thấp (n=210) - Cao (n= 510) 129 362 61,43 63,92 81 148 38,57 29,02 χ 2 = 6,257 p < 0,05 Số con - ≤ 02 (n= 675) - >02 (n= 45) 470 21 69,63 46,67 205 24 30,37 53,33 χ2= 10,256 p < 0,05 Có mối liên quan các yếu tố tuổi, trình độ học vấn và số con của bà mẹ với thực hành khám thai đúng. Tỷ lệ thực hành đúng của bà mẹ trong nhóm tuổi từ 25-29 là 90,48%, có trình độ học vấn cao là 89,61%, có dưới 03 con là 88,59%. Nhận thấy kiến thức và thực hành về khám thai đúng đều có liên quan đến yếu tố tuổi và trình độ học vấn. Có mối liên quan các yếu tố tuổi, nghề nghiệp số con của bà mẹ với thực hành tiêm phòng uốn ván đúng. Tỷ lệ thực hành đúng của bà mẹ trong nhóm tuổi từ 25-29 là 70,13%, là CBCCVC là 74,5% và có dưới 03 con là 63,26%. Nhận thấy kiến thức và thực hành về tiêm phòng uốn ván đúng đều có liên quan đến yếu tố nghề nghiệp và số con. Có mối liên quan các yếu tố tuổi, trình độ học vấn, thu nhập gia đình và số con của bà mẹ với thực hành nuôi con bằng sữa mẹ. Tỷ lệ thực hành đúng của bà 199 mẹ trong nhóm tuổi từ 25-29 là 96,97%, trình độ học vấn cao là 95,69%, thu nhập ổn định 94,93% và dưới 03 con 94,52%. Có thể ở lứa tuổi 25-29 cơ thể bà mẹ đã phát triển hoàn chỉnh, sức khoẻ tốt, trình độ hiểu biết tốt về lợi ích của sữa mẹ, thu nhập gia đình ổn định, mới có con đã tác động đến việc thực hành tốt về nuôi con bằng sữa mẹ. Có mối liên quan các yếu tố tuổi và trình độ học vấn của bà mẹ với thực hành cho con bú sữa non. Tỷ lệ thực hành đúng của bà mẹ trong nhóm tuổi từ 25- 29 là 85,71% và trình độ học vấn cao là 80,59%. Khác với thực hành nuôi con bằng sữa mẹ, trong việc cho con bú sữa non, thì yếu tố nghề nghiệp, thu nhập gia đình và số con không ảnh hưởng đến việc thực hành cho con bú sữa non. Có mối liên quan các yếu tố tuổi, nghề nghiệp, trình độ học vấn và số con của bà mẹ với thực hành chung đúng về LMAT. Tỷ lệ thực hành chung đúng của bà mẹ trong nhóm tuổi 25-29 là 74,89%, là CBCCVC là 76,47%, học vấn cao là 63,92% và có dưới 3 con là 69,63%. Nhận thấy kiến thức và thực hành chung đúng đều có liên quan đến yếu tố tuổi, nghề nghiệp, trình độ học vấn và số con. Điều này cho thấy, khi có kiến thức đúng thì dễ có được thực hành đúng. 5. Kiến nghị - Đối với Chi cục Dân số- Kế hoạch hoá gia đình tỉnh: Chỉ đạo Trung tâm Dân số Kế hoạch hoá gia đình có kế hoạch tăng cường công tác truyền thông giáo dục sức khoẻ về dân số và KHHGĐ cho nhóm phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ về việc không sinh con thứ ba và nhóm tuổi sức khoẻ sinh sản vị thành niên, nhằm hạn chế việc kết hôn và sinh con khi còn trong lứa tuổi vị thành niên. - Đối với Trung tâm Truyền thông Giáo dục sức khoẻ tỉnh: Phối hợp cùng Trung tâm Chăm sóc sức khoẻ sinh sản tỉnh và Trung tâm Y tế huyện, thành phố xây dựng kế hoạch nói chuyện chuyên đề về làm mẹ an toàn cho các đối tượng trong độ tuổi sinh đẻ để tăng tỷ lệ bà mẹ có kiến thức và thực hành đúng về làm mẹ an toàn. Nội dung cần ngắn, gọn, dễ hiểu, dễ tiếp thu, dễ nhớ, phù hợp với từng đối tượng người nghe và tập trung vào những nội dung mà bà mẹ có tỷ lệ hiểu biết và thực hành còn thấp, nhất là nội dung nuôi con bằng sữa mẹ và cho con bú sữa non. - Đối với Trung tâm Y tế huyện thành phố: chỉ đạo Trạm y tế cơ sở quản lý tốt hệ thống cộng tác viên ấp, khóm, tăng cường công tác quản lý đối tượng phụ nữ có thai, tư vấn, hướng dẫn họ đến Trạm y tế để được quản lý thai sớm ngay từ khi biết mình có thai. Tăng cường công tác phối hợp, lồng ghép cùng ban, ngành đoàn thể trong công tác truyền thông chăm sóc sức khỏe sinh sản nói chung và làm mẹ an toàn nói riêng. 200 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Y tế, (2001), “Chiến lược quốc gia về chăm sóc sức khoẻ sinh sản giai đoạn 2001 - 2010”. 2. Bộ Y tế, (2010), Hướng dẫn quốc gia về các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản. 3. Bùi Thị Thu Hà (2011), “Kết quả thực hiện chiến lược chăm sóc sức khoẻ sinh sản 2001 – 2010”, Tạp chí Y học thực hành, số 7 (773), tr.73-75. 4. Đặng Cẩm Tú (2011), “Thực trạng cai sữa của trẻ em dưới 36 tháng tuổi tại ba tỉnh: Lào Cai, Hà Nam, Quảng Bình năm 2011”.Tạp chí Y học thực hành, số 3/2012 (810). 5. Đoàn Thanh Điền (2012), “Khảo sát hành vi và yếu tố liên quan đến phá thai lập lại của phụ nữ từ 18-49 tuổi đến phá thai tại Bệnh Viện Đa Khoa Trung Ương Cần Thơ”.Tạp chí Y học thực hành, số 12/2012 (854). 6. Huỳnh Minh Phúc (2009), “Nghiên cứu kiến thức,thực hành làm mẹ an toàn của bà mẹ có con dưới một tuổi tại huyện Đức Hoà, tỉnh Long An”, Luận án chuyên khoa cấp II, chuyên ngành Y tế công cộng, Trường Đại học Y Dược Huế. 7. Nguyễn Đức Thanh, Trần An Vương (2008), “Thực trạng kiến thức về kế hoạch hoá gia đình của phụ nữ đang nuôi con dưới 24 tháng tuổi tại hai tỉnh Kon Tum và Bến Tre”. Tạp chí Y học thực hành, số 6/2011 (768). 8. Trần Thị Khuyên, Vương Thị Hòa và cộng sự (2013), “kiến thức, thái độ và thực hành về làm mẹ an toàn của các bà mẹ tại thị xã Lai Châu, tỉnh Lai Châu năm 2009”. Tạp chí Y học thực hành, số 5 (869). 9. Vũ Thị Vân Yến (2011), “Trẻ suy dinh dưỡng bào thai”. Tạp chí Y học thực hành, số 5/2011 (763). 10. Vũ Xuân Diện (2011), “Thực trạng công tác chăm sóc sức khoẻ bà mẹ trẻ em và kế hoạch hoá gia đình của một số đảo thuộc huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh”.Tạp chí Y học thực hành, số 10/2012 (843).
File đính kèm:
nghien_cuu_kien_thuc_thuc_hanh_ve_lam_me_an_toan_cua_ba_me_c.pdf

