Nghiên cứu khoa học: Nghiên cứu tình trạng rối loạn đồng bộ thất trái bằng xạ hình spect ở bệnh nhân sau nhồi máu cơ tim

I. ĐẶT VẤN ĐỀ

 Tình trạng rối loạn đồng bộ thất trái là một trong những hậu quả của bệnh động mạch vành, đặc biệt sau nhồi máu cơ tim (NMCT). Arnold (2010) và cộng sự nghiên rối loạn đồng bộ thất trái ở bệnh nhân sau NMCT sớm cho thấy có tới 56 % và 61% bệnh nhân có rối loạn đồng bộ thất trái dựa trên đánh giá bằng siêu âm Doppler mô [3]. Rối loạn đồng bộ thất trái có liên quan tới tình trạng suy tim và làm tăng biến cố tim mạch cũng như tỷ lệ chết ở bệnh nhân sau NMCT. Nghiên cứu của Pazhenkottil (2011) theo dõi trên 197 bệnh nhân sau NMCT cho thấy tỷ lệ biến cố tim mạch ở nhóm rối loạn đồng bộ thất trái cao hơn rõ rệt so với nhóm BN không rối loạn đồng bộ thất trái (62,9 % so với 24,7%) và cho rằng rối loạn đồng bộ thất trái là 1 trong 3 yếu tố độc lập dự đoán các biến cố tim mạch ở bệnh nhân saua NMCT [5]

pdf 9 trang phuongnguyen 140
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu khoa học: Nghiên cứu tình trạng rối loạn đồng bộ thất trái bằng xạ hình spect ở bệnh nhân sau nhồi máu cơ tim", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu khoa học: Nghiên cứu tình trạng rối loạn đồng bộ thất trái bằng xạ hình spect ở bệnh nhân sau nhồi máu cơ tim

Nghiên cứu khoa học: Nghiên cứu tình trạng rối loạn đồng bộ thất trái bằng xạ hình spect ở bệnh nhân sau nhồi máu cơ tim
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 35 - 08/201968
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
SCIENTIFIC RESEARCH
NGHIÊN CỨU TÌNH TRẠNG RỐI LOẠN 
ĐỒNG BỘ THẤT TRÁI BẰNG XẠ HÌNH 
SPECT Ở BỆNH NHÂN SAU NHỒI MÁU 
CƠ TIM 
Assessment of left ventricular dyssynchrony by 
SPECT myocardial perfusion imaging in post 
myocardial infartion patients
Nguyễn Thị Thanh Trung*, Lê Ngọc Hà**, Phạm Thái Giang**
* Bệnh viện đa khoa 
tỉnh Thái Bình
** Bệnh viện TƯQĐ 108
SUMMARY Objective: to evaluate left ventricular synchrony parameters using 
gated myocardial perfusion single photon emission computed tomography 
(GSPECT) in post myocardial infarction (MI) patients. 
Subject and methods: a cross - sectional study was conducted on 34 
subjects without cardiovascular disease and 104 post-MI patients.
 Results: left ventricular dyssynchrony parameters including PSD and 
HBW were 48.7 ± 19.49 and 154.95 ± 71.97 in post-MI group compared to 
17.5 ± 7.24 and 53.9 ± 15.14 respectively in control group (p<0.01). 77% and 
81% of post-MI patients had increased PSD and HBW with left ventricular 
dyssynchrony. PSD and HBW has increased significantly in post-MI patients 
with NYHA III-V, low EF compared to NYHA I-II patient group without left 
ventricular dysfunction.
Conclusion: left ventricular dyssynchrony parameters were commonly 
detected by gated SPECT in post-MI patients. PSD and HBW increased 
significantly in post-MI patients and had relationships to NYHA and left 
ventricular dysfunction.
Keyword: myocardial perfusion imaging, left ventricular dyssynchrony, 
myocardial infarction.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 35 - 08/2019 69
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tình trạng rối loạn đồng bộ thất trái là một trong 
những hậu quả của bệnh động mạch vành, đặc biệt 
sau nhồi máu cơ tim (NMCT). Arnold (2010) và cộng 
sự nghiên rối loạn đồng bộ thất trái ở bệnh nhân sau 
NMCT sớm cho thấy có tới 56 % và 61% bệnh nhân 
có rối loạn đồng bộ thất trái dựa trên đánh giá bằng 
siêu âm Doppler mô [3]. Rối loạn đồng bộ thất trái có 
liên quan tới tình trạng suy tim và làm tăng biến cố tim 
mạch cũng như tỷ lệ chết ở bệnh nhân sau NMCT. 
Nghiên cứu của Pazhenkottil (2011) theo dõi trên 197 
bệnh nhân sau NMCT cho thấy tỷ lệ biến cố tim mạch 
ở nhóm rối loạn đồng bộ thất trái cao hơn rõ rệt so với 
nhóm BN không rối loạn đồng bộ thất trái (62,9 % so với 
24,7%) và cho rằng rối loạn đồng bộ thất trái là 1 trong 
3 yếu tố độc lập dự đoán các biến cố tim mạch ở bệnh 
nhân saua NMCT [5].
Hiện nay, có nhiều phương pháp đánh giá rối loạn 
đồng bộ thất trái như điện tâm đồ, siêu âm Doppler mô 
cơ tim, siêu âm 3D  Xạ hình SPECT tưới máu cơ tim 
đã được ứng dụng từ nhiều thập kỷ qua trong phát hiện 
thiếu máu cơ tim tồn dư, phân biệt cơ tim đông miên 
và sẹo cơ tim sau NMCT. Gần đây, nhờ những tiến bộ 
trong thu nhận hình ảnh và phát triển phần mềm, một số 
nghiên cứu trên thế giới đã sử dụng SPECT tưới máu cơ 
tim như một công cụ đánh giá tình trạng rối loạn đồng bộ 
cơ học thất trái và cho đây là phương pháp khá chính xác 
và khách quan so với siêu âm và điện tim  trong chẩn 
đoán tình trạng rối loạn đồng bộ thất trái. Ở Việt nam, 
mặc dù đã có một số nghiên cứu về đánh giá rối loạn về 
đồng bộ thất trái bằng siêu âm cũng như các nghiên cứu 
về xạ hình SPECT tưới máu cơ tim trong chẩn đoán và 
tiên lượng bệnh nhân sau NMCT. Tuy nhiên, việc nghiên 
cứu đánh giá rối loạn đồng bộ thất trái bằng xạ hình 
SPECT tưới máu cơ tim còn khá mới mẻ và chưa được 
nghiên cứu nhiều ở Việt Nam. Vì vậy, chúng tôi tiến hành 
đề tài Nghiên cứu tình trạng rối loạn đồng bộ thất trái 
bằng xạ hình SPECT ở bệnh nhân sau nhồi máu cơ tim 
nhằm bước đầu đối chiếu một số thông số rối loạn đồng 
bộ ở bệnh nhân sau NMCT với người khoẻ mạnh, không 
mắc bệnh tim mạch và nghiên cứu tỷ lệ thay đổi các chỉ 
số rối loạn đồng bộ thất trái với tình trạng suy tim và rối 
loạn chức năng thất trái ở BN sau NMCT.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng: 140 đối tượng nghiên cứu bao 
gồm 106 BN sau NMCT (nhóm bệnh) và 34 đối tượng 
là người bình thường, không mắc các bệnh tim mạch 
(nhóm chứng) có sự phân bố lứa tuổi, giới tính tương 
tự như nhóm BN sau NMCT. 
Tiêu chuẩn lựa chọn:
Nhóm bệnh nhân sau NMCT
+ Các BN sau NMCT cấp (theo tiêu chuẩn của Tổ 
chức Y tế thế giới) đã qua giai đoạn cấp ít nhất 14 ngày, 
BN đang trong giai đoạn hồi phục.
+ BN được chụp xạ hình SPECT theo hướng dẫn 
của Hội tim mạch hạt nhân Hoa Kỳ năm 2010.
Nhóm chứng
+ Không có tiền sử bệnh tim mạch. Không có biểu 
hiện bệnh tim mạch qua khám lâm sàng, điện tâm đồ, 
siêu âm tim.
+ Không có bằng chứng thiếu máu cơ tim trên 
hình ảnh xạ hình tưới máu cơ tim: điểm khuyết xạ ở 
mỗi vùng < 2; SRS <4; SSS< 4; tổng diện khuyết xạ 
(total perfusion deficit) <5%.
2. Phương pháp
- Nhóm chứng: các đối tượng nhóm chứng được 
khám xét, xét nghiệm thường quy, ECG và siêu âm tim 
 để loại trừ bệnh tim mạch. Chụp xạ hình SPECT 
đánh giá tưới máu cơ tim (loại trừ bệnh thiếu máu cơ 
tim thầm lặng) và tính toán các chỉ số đồng bộ thất trái 
(PSD, HBW, Peak, HK, HS). Các giá trị trong giới hạn ≤ 
2 SD được coi là bình thường sử dụng để đối chiếu với 
các chỉ số đo được tương ứng ở nhóm BN sau NMCT.
- Nhóm bệnh nhân sau NMCT: đánh giá các đặc 
điểm lâm sàng, phân độ suy tim theo NYHA, chụp xạ 
hình SPECT tưới máu cơ tim đánh giá các chỉ số rối 
loạn đồng bộ thất trái. Chúng tôi lấy ngưỡng > + 2SD 
của nhóm chứng là ngưỡng rối loạn đồng bộ thất trái. 
BN sau NMCT được chẩn đoán rối loạn đồng bộ khi 
chỉ số PSD hoặc HBW vượt ngưỡng +2SD của nhóm 
chứng.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 35 - 08/201970
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
- Chụp xạ hình tưới máu cơ tim
+ Phương tiện: hệ thống SPECT gamma camera 
2 đầu (dual head), Infinia của Hãng GE, Hoa kỳ có các 
phần mềm xử lý hình ảnh và đánh giá đồng bộ thất trái 
kèm theo tại khoa Y học hạt nhân, bệnh viện TƯQĐ 108. 
+ Xạ hình tưới máu cơ tim với Tc99m-sestamibi 
được chụp bằng phương pháp Gated SPECT theo qui 
trình và hướng dẫn của Hiệp hội tim mạch hạt nhân 
Hoa Kỳ 2010 [6]. Số liệu được máy xử lý bằng phần 
mềm ECTtoolbox tự động cho ra các thông số cơ bản 
về tình trạng rối loạn đồng bộ thất trái gồm PSD, HBW, 
Peak, HK, HS.
Hệ thống xử lý xạ hình tưới máu cơ tim để đánh 
giá rối loạn đồng bộ thất trái là phân tích pha [7]. Số 
đếm phóng xạ cao nhất trên hình ảnh tưới máu của 
mỗi vùng cơ tim theo từng pha. Chỉ số số đếm phóng 
xạ sẽ thay đổi tỷ lệ thuận với độ dày cơ tim ở vùng 
tương ứng tức là thay đổi theo sự co và giãn của cơ 
tim. Máy sử dụng hàm Fourier để ước tính sự biến 
đổi độ dày hay sự co giãn của từng vùng đó theo chu 
kỳ tim, biểu diễn dưới dạng đồ thị hình sin và tìm ra 
thời điểm cơ tim bắt đầu co bóp, gọi là OMC (onset of 
mechanical contraction) (hình 1). Thành thất trái được 
chia thành hơn 600 vùng cơ tim, tương ứng có 600 
thời điểm OMC, được biểu diễn thành dạng hình tròn 
mã hóa màu gọi là biểu đồ cực (Phase polar map) với 
tâm là mỏm tim, phần ngoại vi là đáy tim (hình 1) [7]. 
Hệ thống phần mềm tự động tính ra thông số PSD là 
thông số về độ lệch chuẩn thời gian bắt đầu co bóp của 
hơn 600 vùng cơ tim. Bình thường các vùng cơ tim co 
bóp đồng bộ nên OMC của chúng gần nhau và có phân 
bố chuẩn với độ lệch chuẩn PSD thấp. PSD càng lớn 
chứng tỏ OMC của các vùng cơ tim càng khác xa nhau, 
tập hợp các OMC phân bố không chuẩn, đồng nghĩa 
với cơ tim co bóp không đồng bộ. 
Hình 1. Phân tích pha với biểu đồ Phase polar và biểu đồ Histogram trong xạ hình tưới máu cơ tim 
có gắn cổng điện tim đánh giá rối loạn đồng bộ thất trái trên hệ thống SPECT.
Các thông số OMC của hơn 600 vùng cơ tim 
cũng được biểu diễn dưới dạng biểu đồ Histogram theo 
thời gian. Để đo mức độ dao động của OMC giữa hơn 
600 vùng, người ta sử dụng thông số HBW (Histogram 
bandwidth) là khoảng thời gian mà 95% số vùng cơ tim 
bắt đầu co bóp hay khoảng thời gian chứa 95% số điểm 
OMC [8].
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 35 - 08/2019 71
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
3. Xử lý số liệu: các số liệu được phân tích bằng các thuật toán thống kê y học trên phần mềm STATA 14.2. 
Giá trị p <0,05 được coi là sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Bảng 1. Đặc điểm tuổi và giới của đối tượng nghiên cứu
Các đặc điêmr
Nhóm chứng 
(n = 34)
Nhóm BN sau NMCT (n = 106) p
Giới Nam 26 (76,5%) 89 (83,9%) > 0,05
Nữ 8 (23,5%) 17 (16,1%)
Tuổi trung bình 62,68 ± 6,42 65,41 ± 10,31 > 0,05
Nghiên cứu của chúng tôi gồm 106 bệnh nhân nhóm bệnh và 34 bệnh nhân nhóm chứng có tuổi trung bình là 
65,4 ±10,3 tuổi và 62,7 ± 6,4 tuổi với tỷ lệ nam/nữ của hai nhóm không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). 
Bảng 2. Một số đặc điểm ở bệnh nhân sau nhồi máu cơ tim
Một số đặc điểm lâm sàng
Nhóm BN sau NMCT
Số lượng (n = 106) Tỷ lệ (%)
Vị trí NMCT
NMCT thành trước 41 38,7 %
NMCT thành dưới 44 41,5 %
NMCT thành bên 11 10,4 %
NMCT kết hợp 10 9,4 %
Chức năng thất trái 
(EF%)
> 45% 76 76 %
< 45% 30 28,3 %
Phân độ NYHA
I 18 17%
II 56 53%
III 27 25%
IV 5 5%
Tỷ lệ BN sau NMCT có chức năng thất trái giảm chiếm 28,3%. Bệnh nhân sau NMCT có NYHA từ 2 trở lên 
chiếm 83 %. Tỷ lệ suy tim nặng với NYHA III - IV là 30,3%. Chỉ có 18 BN không có biểu hiện suy tim (NYHA 1) chiếm 
16,9 %. 
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 35 - 08/201972
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Bảng 3. Các thông số đánh giá rối loạn đồng bộ thất trái trên xạ hình tưới máu cơ tim
Thông số
Bệnh nhận sau NMCT
(n=106)
Nhóm chứng
(n=34)
p
PSD 48,69 ± 19,49 17,51 ± 7,24 <0,01
HBW 154,95 ± 71,97 53,97 ± 15,14 <0,01
Peak 140,31 ± 33.14 135,56 ± 17.36 0,93
HK 28,74 ± 20,88 23,06 ± 11,91 0,26
HS 4,21 ± 1,46 4,13 ± 0,95 0,82
Chỉ số PSD và HBW của nhóm bệnh cao hơn rõ rệt so với nhóm chứng (p < 0,01). Các chỉ số HK, HS, Peak 
của nhóm bệnh cũng cao hơn nhóm chứng nhưng khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).
Bảng 3. Các thông số rối loạn đồng bộ thất trái trên xạ hình tưới máu cơ tim
+2SD nhóm chứng Nhóm bệnh
PSD 31,99 PSD ≥ 31,99 77
HBW 84,25 HBW ≥ 84,25 81
Peak 170,28 Peak ≥ 170,28 12
HK 46,88 HK ≥ 46,88 15
HS 6,03 HS ≥ 6,03 7
Nếu lấy ngưỡng các thông số +2SD của nhóm chứng được coi là ngưỡng bất thường, nhóm bệnh nhân sau 
NMCT có tỷ lệ 77% tăng PSD và 81% BN sau NMCT tăng HBW. 
Biểu đồ 1. Liên quan giữa PSD với HBW phát hiện trên gated SPECT
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 35 - 08/2019 73
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Có sự tương quan tuyến tính thuận và chặt giữa 
thông số về độ lệch chuẩn thời gian bắt đầu co bóp của 
hơn 600 vùng cơ tim (PSD) với khoảng thời gian mà 
95% số vùng cơ tim bắt đầu co bóp hay khoảng thời 
gian chứa 95% số điểm OMC (HBW) trên xạ hình tưới 
máu cơ tim (r = 0,94; p < 0,01).
Biểu đồ 2. Mối liên quan giữa chỉ số đánh giá rối loạn đồng bộ thất trái và phân độ NYHA. Chỉ số PSD 
(biểu đồ trái) và HBW (biểu đồ phải) tăng với phân độ NYHA. Chỉ số PSD và HBW tăng cao rõ rệt ở BN suy tim có 
NYHA độ 3, 4 so với nhóm BN sau NMCT suy tim NYHA 1-2 (p<0,01).
Bảng 4. Rối loạn đồng bộ và chức năng tâm thu thất trái
Thông số
EF
thấp
EF
bình thường
p*
PSD 63,4 ± 17,44 40,5 ± 15,39 < 0,01
HBW 205 ± 64,85 126,9 ± 59,82 < 0,01
*ranksum test
Nhóm có mức EF thấp theo tiêu chuẩn của hội tim 
mạch Hoa Kỳ có mức PSD, HBW trung bình là 63,4 ± 
17,44 và 205 ± 64,85 cao hơn có ý nghĩa thống kê so 
với các giá trị tương ứng ở nhóm BN EF% bình thường 
là 40,48 ± 15,39 và 126,9 ± 59,82 (p < 0,01). 
4. BÀN LUẬN
Nghiên cứu của chúng tôi gồm 106 bệnh nhân 
nhóm bệnh có tuổi trung bình là 65,4 ± 10,3 với 83,96% 
nam giới và 34 bệnh nhân nhóm chứng có tuổi trung 
bình là 62,7 ± 6,4 và 76,47% nam giới. Như vậy, nhóm 
bệnh và nhóm chứng không có khác biệt về tuổi và giới 
(p>0,05). Tỷ lệ này cũng phù hợp với các nghiên cứu 
của Zafrir (2014) và Pazhenkottil (2011) với tỷ lệ nam 
giới cũng tương ứng 81% và 79,2%[5],[11]. Suy tim 
cũng là một biểu hiện thường gặp trong cơn nhồi máu 
cấp và có thể kéo dài sau đó do quá trình tái cấu trúc 
thất trái, rối loạn đồng bộ thất trái. Trong nghiên cứu 
của chúng tôi đa số các bệnh nhân có điểm NYHA từ 
2 trở lên, trong đó khoảng một nửa bệnh nhân có điểm 
NYHA 2; ¼ số bệnh nhân có điểm NYHA 3; 5 bệnh 
nhân có NYHA 4 ở thời điểm nhập viện. 
Một số chỉ số được sử dụng để đánh giá rối loạn 
đồng bộ trên gated SPECT xạ hình tưới máu cơ tim 
(XHTMCT) là PSD, HBW, HK, HS, Peak. Trong đó hai 
chỉ số hay được sử dụng nhất là PSD và HBW [12]. 
Bảng 2 và 3 cho thấy PSD và HBW của nhóm nhồi máu 
cơ tim là 48, 69 ± 19,49 và 154,95 ± 71,97 cao hơn rõ 
rệt so với nhóm chứng là 17,51 ± 7,4 và 53,97 ± 15,14 
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 35 - 08/201974
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
(p<0,01). Trên thế giới, một số nghiên cứu ở người 
khỏe mạnh đã tiến hành nhằm tìm ra giới hạn bình 
thường của các chỉ số đánh giá rối loạn đồng bộ bằng 
XHTMCT. Chúng tôi chủ định sử dụng nhóm chứng là 
các đối tượng có tuổi và tỷ lệ nam giới cao để phù hợp 
tương đương với nhóm bệnh. Từ kết quả của nhóm 
chứng, chúng tôi lấy ngưỡng > 2SD của PSD, HBW ở 
nhóm đối tượng không mắc bệnh tim mạch nhằm tìm 
hiểu tỷ lệ và mức độ thay đổi các chỉ số bất thường 
của nhóm bệnh nhân sau NMCT. Trong nghiên cứu của 
chúng tôi, tất cả đối tượng nhóm chứng đều không có 
tiền sử bệnh tim mạch, điện tâm đồ và siêu âm tim bình 
thường, chụp XHTMCT không có bằng chứng thiếu 
máu cơ tim (tổng diện tích khuyết xạ dưới 5%, điểm 
SRS và SSS đều dưới 4, EF > 55%).
Từ kết quả của nhóm chứng, chúng tôi lấy giới hạn 
+2SD là ngưỡng bất thường cho nhóm bệnh. Như vậy 
PSD > 31,99 hoặc HBW> 84,25 là bất thường tương 
ứng với tình trạng rối loạn đồng bộ thất trái trên xạ hình 
SPECT. Khi sử dụng ngưỡng chẩn đoán như trên, chúng 
tôi nhận thấy có 77 % số bệnh nhân có PSD > 31,99º và 
81 % số bệnh nhân có HBW > 84,25. Như vậy tỷ lệ rối 
loạn đồng bộ thất trái sau nhồi máu cơ tim chiếm 77% ở 
nhóm BN sau NMCT trong nghiên cứu của chúng tôi. Kết 
quả nghiên cứu cũng cho thấy có sự tương quan chặt 
chẽ giữa thông số về độ lệch chuẩn thời gian bắt đầu co 
bóp của hơn 600 vùng cơ tim (PSD) với khoảng thời gian 
mà 95% số vùng cơ tim bắt đầu co bóp hay khoảng thời 
gian chứa 95% số điểm OMC (HBW) trên xạ hình tưới 
máu cơ tim (r = 0,94; p < 0,01).
Rối loạn đồng bộ thất trái làm giảm hiệu quả co 
cơ tim, giảm khả năng tống máu của cơ tim và do vậy 
làm nặng thêm tình trạng suy tim. Đã có nhiều nghiên 
cứu chứng minh rối loạn đồng bộ nặng hơn ở bệnh 
nhân suy tim và tình trạng suy tim sẽ cải thiện sau điều 
trị CRT. Santos (2014) nghiên cứu trên 130 bệnh nhân 
suy tim cho thấy chỉ số rối loạn đồng bộ ở nhóm suy tim 
cao hơn hẳn nhóm chứng và mức độ rối loạn đồng bộ 
có liên quan tới độ rộng QRS, mức độ phì đại thất trái 
và cả rối loạn tâm trương thất trái [3]. Điều trị tái đồng 
bộ thất trái làm giảm tình trạng rối loạn đồng bộ thất trái 
và lập tức làm cải thiện tình trạng suy tim trên lâm sàng 
cũng như siêu âm với điểm NYHA giảm đi ít nhất 1 điểm 
sau 6 tháng [11]. Trong nghiên cứu của chúng tôi các 
bệnh nhân NYHA 3,4 có PSD là 64,41 ± 13,37 và 87,60 
± 14,33, cao hơn vượt trội so với các bệnh nhân NYHA 
1,2 có PSD là 29,76 ± 10,23 và 43,71 ± 13,87; tương 
tự HBW của bệnh nhân NYHA 3,4 là 221,37 ± 57,07 
và 235,60 ± 79,21 cũng cao hơn hẳn mức HBW của 
các bệnh nhân NYHA 1,2 là 89,74 ± 36,06 và 136,69 
± 54,80. Biểu đồ 3.5 và 3.6 cho thấy NYHA càng cao 
thì PSD và HBW càng tăng. Như vậy mức độ rối loạn 
đồng bộ có liên quan mật thiết tới tình trạng suy tim trên 
lâm sàng.
Phân suất tống máu thể hiện hiệu quả làm việc 
của cơ tim, thể hiện gián tiếp mức độ suy tim. Kết quả 
nghiên cứu của chúng tôi cho thấy PSD và HBW của 
nhóm EF≤ 40% cao hơn hẳn nhóm EF > 40% (p< 0,01). 
Phân tích tương quan tuyến tính cho thấy EF có tương 
quan nghịch với cả PSD và HBW và mức độ tương 
quan tương đối chặt chẽ với r lần lượt là -0,71 và -0,67. 
Kết quả này tương tự với kết quả của những nghiên 
cứu trước và cũng phù hợp với sinh lý bệnh của tình 
trạng rối loạn đồng bộ thất trái. Murrow (2011) nghiên 
cứu rối loạn đồng bộ ở bệnh nhân sau nhồi máu cơ tim 
có ST chênh cũng cho thấy HBW có liên quan tuyến 
tính với phân suất tống máu thất trái với R = -0,74, p < 
0,01 [8]. 
V. KẾT LUẬN
Rối loạn đồng bộ thất trái hay gặp ở bệnh nhân 
sau NMCT và có thể phát hiện bằng SPECT xạ hình 
tưới máu cơ tim. Bệnh nhân có PSD > 31,99 hoặc HBW 
> 84,25 được đề xuất là ngưỡng có rối loạn đồng bộ 
thất trái. Hai chỉ số rối loạn đồng bộ thất trái là PSD và 
HBW có mối liên quan tới phân độ suy tim NYHA và 
chức năng tâm thu thất trái.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 35 - 08/2019 75
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Quyền Đăng Tuyên (2010), Nghiên cứu rối loạn đồng bộ tâm thất ở bệnh nhân suy tim bằng siêu âm Doppler 
và Dopller mô cơ tim, Luận án tiến sĩ y học, Viện Nghiên cứu khoa học y dược lâm sàng 108.
2. Vũ Thị Phương Lan (2012), Nghiên cứu đặc điểm và giá trị tiên lượng của xạ hình tưới máu cơ tim ở bệnh nhân 
sau nhồi máu cơ tim, Luận án tiến sĩ Y học, Viện nghiên cứu y dược học lâm sàng 108.
3. Ng A.C.T, Tran D.T., Allman C., et al. (2010), Prognostic implications of left ventricular dyssynchrony early after 
non-ST elevation myocardial infarction without congestive heart failure, Eur Heart J, 31(3), pp. 298-308.
4. Ko J.S., Jeong M.H., Lee M.G., et al. (2009), Left Ventricular Dyssynchrony After Acute Myocardial Infarction 
is a Powerful Indicator of Left Ventricular Remodeling, Korean Circ J, 39(6), pp. 236-42.
5. Pazhenkottil, Aju P, Buechel, Ronny R, and Husmann, Lars (2011), “Long-term prognostic value of left ventricular 
dyssynchrony assessment by phase analysis from myocardial perfusion imaging”, Heart. 97, pp. 33-37.
6. Holly, Thomas A., Abbott, Brian G., and Al-Mallah, Mouaz (2010), “ASNC IMAGING GUIDELINES FOR 
NUCLEAR CARDIOLOGY PROCEDURES: Single photon-emission computed tomography”, Journal of 
Nuclear Cardiology. 17(5), pp. 941-973.
7. Chen, Ji, Garcia, Ernest V., and Bax, Jeroen J. (2011), “SPECT myocardial perfusion imaging for the assessment 
of left ventricular mechanical dyssynchrony”, Journal of Nuclear Cardiology. 18(4), pp. 685-694.
8. Chen, Ji, Garcia, Ernest V., and Folks, Russell D. (2005), “Onset of left ventricular mechanical contraction as 
determined by phase analysis of ECG-gated myocardial perfusion SPECT imaging: Development of a diagnostic 
tool for assessment of cardiac mechanical dyssynchrony”, Journal of Nuclear Cardiology. 12(6), pp. 687-695.
9. Alam I., Haque T., Badiuzzaman M., et al. (2016), Left Ventricular Dyssynchrony in Acute ST Elevated 
Myocardial Infarction in Patients with Normal QRS duration, Bangladesh Heart Journal, 30(1), pp. 13-21.
10. Henneman M.M., Chen J., Dibbets-Schneider P., et al. (2007), Can LV dyssynchrony as assessed with phase 
analysis on gated myocardial perfusion SPECT predict response to CRT?, J Nucl Med, 48(7), pp. 1104-11.
11. Zafrir N., Nevzorov R., Bental T., et al. (2014), Prognostic value of left ventricular dyssynchrony by myocardial perfusion-
gated SPECT in patients with normal and abnormal left ventricular functions, J Nucl Cardiol, 21(3), pp. 532-40.
12. Fudim M., Fathallah M., Shaw L.K., et al. (2018), The Prognostic Value of Diastolic and Systolic Mechanical 
Left Ventricular Dyssynchrony Among Patients With Coronary Heart Disease, JACC Cardiovasc Imaging.
TÓM TẮT
Mục tiêu: Nghiên cứu tình trạng rối loạn đồng bộ thất trái bằng xạ hình gated SPECT ở bệnh nhân sau nhồi máu cơ tim. 
Đối tượng và phương pháp: nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 140 đối tượng gồm 106 bệnh nhân sau NMCT và 34 người 
không mắc bệnh tim mạch có độ tuổi và tỷ lệ nam/nữ tương đương. Các đối tượng nghiên cứu được tiến hành chụp gated SPECT 
xạ hình tưới máu cơ tim và so sánh các chỉ số rối loạn đồng bộ thất trái. 
Kết quả: Chỉ số PSD trung bình 48,7 ± 19,49 và HBW trung bình ở nhóm bệnh nhân sau NMCT là 154,9 ± 71,97 cao hơn 
rõ rệt so với nhóm chứng (17,5 ± 7,24 và 53,9 ± 15,14; p<0,01). 77% bệnh nhân sau nhồi máu cơ tim tăng PSD và 81% tăng 
HBW. Có sự tương quan tuyến tính thuận và chặt giữa chỉ số PSD với HBW trên xạ hình tưới máu cơ tim (r = 0,94; p < 0,01). 
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 35 - 08/201976
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
PSD và HBW tăng cao rõ rệt ở BN suy tim có NYHA độ 3, 4, rối loạn tâm thu thất trái so với nhóm BN sau NMCT suy tim 
NYHA 1-2, không có rối loạn chức năng tâm thu thất trái (p<0,01). 
Kết luận: Rối loạn đồng bộ thất trái hay gặp ở bệnh nhân sau NMCT và có thể phát hiện bằng gated SPECT xạ hình tưới 
máu cơ tim. PSD và HBW có mối liên quan tới phân độ suy tim NYHA và chức năng tâm thu thất trái.
Từ khóa: xạ hình tưới máu cơ tim, rối loạn đồng bộ thất trái, nhồi máu cơ tim
Ngày nhận bài: 30.5.2019. Ngày chấp nhận đăng: 20.6.2019
Người liên hệ: Lê Ngọc Hà. Khoa YHHN bệnh viện trung ương quân đội 108;Email: [email protected]

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_khoa_hoc_nghien_cuu_tinh_trang_roi_loan_dong_bo_t.pdf