Nghiên cứu khảo sát ảnh hưởng của chất giặt tẩy đến tính chất cơ lý của vải dệt kim single dệt từ sợi CVC

Vải dệt kim single được sử dụng rộng rãi nhờ sự mềm mại, thoáng khí và khả

năng đàn hồi. Tuy nhiên vải thường kém ổn định kích thước, đặc biệt khi vải được

dệt từ sợi len và sợi có thành phần cotton. Chất giặt tẩy có ảnh hưởng đến tính chất

cơ lý của vải. Việc sử dụng chất giặt tẩy có nguồn gốc tự nhiên giúp giảm thiểu ảnh

hưởng tới môi trường. Trong nghiên cứu này, chúng tôi khảo sát ảnh hưởng của

chất giặt tẩy đến độ ổn định kích thước và độ xiên lệch hàng vòng của vải dệt kim

single. Ba loại chất giặt tẩy được khảo sát là nước giặt Suft thông dụng, nước giặt

trung tính chuyên cho sản phẩm len pH = 7,0 và nước giặt chiết xuất từ quả bồ hòn.

Vải single được sử dụng trong nghiên cứu được dệt từ sợi CVC (60% cotton, 40%

Polyester). Các mẫu vải được giặt 3 lần. Kết quả cho thấy các loại vải đều có độ biến

động kích thước theo hướng ngang và hướng dọc và không có sự khác biệt rõ rệt về

ảnh hưởng của các loại chất giặt tẩy đến sự thay đổi kích thước của vải. Nước chiết

xuất từ bồ hòn cho kết quả lớn nhất về sự xiên lệch hàng vòng của vải nhưng lại ít

gây biến động nhất về giá trị này so với vải hoàn tất trước khi giặt

pdf 4 trang phuongnguyen 240
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu khảo sát ảnh hưởng của chất giặt tẩy đến tính chất cơ lý của vải dệt kim single dệt từ sợi CVC", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu khảo sát ảnh hưởng của chất giặt tẩy đến tính chất cơ lý của vải dệt kim single dệt từ sợi CVC

Nghiên cứu khảo sát ảnh hưởng của chất giặt tẩy đến tính chất cơ lý của vải dệt kim single dệt từ sợi CVC
P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9619 SCIENCE - TECHNOLOGY 
Website: https://tapchikhcn.haui.edu.vn Vol. 56 - No. 4 (Aug 2020) ● Journal of SCIENCE & TECHNOLOGY 101
NGHIÊN CỨU KHẢO SÁT ẢNH HƯỞNG CỦA CHẤT GIẶT TẨY ĐẾN 
TÍNH CHẤT CƠ LÝ CỦA VẢI DỆT KIM SINGLE DỆT TỪ SỢI CVC 
STUDY INFLUENCE OF DETERGENTS ON MECHANICAL PROPERTIES OF CVC KNITTED FABRICS 
Chu Diệu Hương1,*, 
Đào Thị Chinh Thùy1, Lưu Thị Tho2 
TÓM TẮT 
Vải dệt kim single được sử dụng rộng rãi nhờ sự mềm mại, thoáng khí và khả
năng đàn hồi. Tuy nhiên vải thường kém ổn định kích thước, đặc biệt khi vải được 
dệt từ sợi len và sợi có thành phần cotton. Chất giặt tẩy có ảnh hưởng đến tính chất 
cơ lý của vải. Việc sử dụng chất giặt tẩy có nguồn gốc tự nhiên giúp giảm thiểu ảnh 
hưởng tới môi trường. Trong nghiên cứu này, chúng tôi khảo sát ảnh hưởng của 
chất giặt tẩy đến độ ổn định kích thước và độ xiên lệch hàng vòng của vải dệt kim 
single. Ba loại chất giặt tẩy được khảo sát là nước giặt Suft thông dụng, nước giặt 
trung tính chuyên cho sản phẩm len pH = 7,0 và nước giặt chiết xuất từ quả bồ hòn. 
Vải single được sử dụng trong nghiên cứu được dệt từ sợi CVC (60% cotton, 40% 
Polyester). Các mẫu vải được giặt 3 lần. Kết quả cho thấy các loại vải đều có độ biến 
động kích thước theo hướng ngang và hướng dọc và không có sự khác biệt rõ rệt về
ảnh hưởng của các loại chất giặt tẩy đến sự thay đổi kích thước của vải. Nước chiết 
xuất từ bồ hòn cho kết quả lớn nhất về sự xiên lệch hàng vòng của vải nhưng lại ít 
gây biến động nhất về giá trị này so với vải hoàn tất trước khi giặt. 
Từ khóa: Vải dệt kim single, vải CVC, chất tẩy lỏng được chiết xuất từ xà phòng-
berry, ổn định kích thước, sự xiên lệch của vải. 
ABSTRACT 
Single jersey fabrics have been used commonly because of their flexibility, air 
permeability and elasticity. But they are unstable in dimension, specially in fabrics 
knitted from wool and cotton yarn. Detergents affect mechanical properties of 
knitted fabrics. Using the natural detergents minimizes the environment impact. In 
this research we investigated the influence of detergents on dimension stability and 
on skew in single jersey fabrics. Three detergents were used, which were Suft liquid 
detergent, liquid detergent for wool garment with pH = 7.0 and liquid detergent 
extracted from soap-berry. Two kind of investigated single jersey fabrics knitted 
from CVC yarn (60% cotton, 40% Polyester). The fabrics have been washed and 
dried 3 cycles. The results showed that all fabrics took the dimensional change in 
course and wale direction. There was no clear difference from the detergents on the 
fabric dimensional change. Liquid detergent extracted from soap-berry most 
affected on skew in knitted fabrics but this value was less changed in comparision 
to the initial value of the fabric before testing. 
Keywords: Single jersey fabric, CVC fabric, liquid detergent extracted from soap-
berry, dimensional stability, skew in knitted fabrics. 
1Trường Đại học Bách khoa Hà Nội 
2Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội 
*Email: huong.chudieu@hust.edu.vn 
Ngày nhận bài: 10/01/2020 
Ngày nhận bài sửa sau phản biện: 10/6/2020 
Ngày chấp nhận đăng: 18/8/2020 
1. GIỚI THIỆU 
Vải dệt kim single thường được sử dụng rộng rãi trong 
may mặc, tuy nhiên vải có đặc điểm kém ổn định kích 
thước, ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm [1]. Sợi tự 
nhiên như bông hoặc len có nhiều ưu điểm như có tính vệ 
sinh tốt, có độ xốp, giữ ấm tốt Tuy nhiên các loại sợi này 
cũng là loại sợi dễ gây nên biến động về kích thước sản 
phẩm trong quá trình gia công và sử dụng [2]. Sợi pha 
CVC (60% cotton/ 40% Polyester) sẽ tận dụng được tính 
vệ sinh của sợi bông cũng như độ bền, ổn định của sợi 
polyester. Việc sử dụng chất giặt tẩy có nguồn gốc tự 
nhiên sẽ góp phần giảm thiểu ảnh hưởng tới môi trường. 
Tuy nhiên ảnh hưởng của các loại chất giặt tẩy tới biến 
động tính chất cơ lý của vải dệt kim cần được khảo sát. 
Các tính chất cơ lý của vải single phụ thuộc vào thông số 
của vải [3, 4]. Edin Fatkić [3] đã nghiên cứu ảnh hưởng của 
thông số vải dệt kim đến một số tính chất cơ lý của vải 
single jersey như độ thoáng khí, độ co của vải Vải dệt 
kim single jersey dệt trên các máy dệt kim tròn luôn có xu 
hướng bị xiên lệch hàng vòng do cấu trúc xoắn ốc trong 
quá trình dệt. Điều này ảnh hưởng tới chất lượng sản 
phẩm may mặc trong quá trình sử dụng. Mihriban 
Kalkanci [5] đã nghiên cứu ảnh hưởng của hiện tượng 
hàng vòng xiên đến quá trình gia công sản phẩm may. 
Trong thực tế công đoạn gia công hoàn tất vải dệt kim 
cũng có thể ảnh hưởng tới các tính chất cơ lý của vải. 
Züleyha Değirmenci và cộng sự [6] đã nghiên cứu ảnh 
hưởng của quá trình nhuộm, khối lượng vải và độ săn của 
sợi đến sự xiên lệch hàng vòng của vải dệt kim. 
Tuy nhiên chưa có công bố nào khảo sát sự thay đổi tính 
chất cơ lý của vải single jersey dệt từ sợi CVC do ảnh hưởng 
của các loại chất giặt tẩy, bao gồm cả chất giặt tẩy có nguồn 
gốc tự nhiên. 
Trong nghiên cứu này chúng tôi khảo sát ảnh hưởng 
của loại chất giặt tẩy đến sự thay đổi tính chất cơ lý của 
vải dệt kim single jersey dệt từ sợi CVC. Ba loại chất giặt 
được sử dụng là chất giặt tẩy thương mại Surf, chất giặt 
tẩy trung tính và nước giặt chiết xuất từ bồ hòn, nhằm 
đánh giá ảnh hưởng của các loại chất giặt tẩy khác nhau, 
đặc biệt là chất giặt tẩy có nguồn gốc tự nhiên như nước 
bồ hòn tới sự thay đổi tính chất cơ lý của vải. Sự thay đổi 
tính chất cơ lý của vải được khảo sát trên những biến 
 CÔNG NGHỆ 
 Tạp chí KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ● Tập 56 - Số 4 (8/2020) Website: https://tapchikhcn.haui.edu.vn 102
KHOA HỌC P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9619
động kích thước theo hướng ngang, hướng dọc và sự xiên 
lệch hàng vòng. 
2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Các mẫu vải dệt kim dệt từ sợi CVC (60% cotton/ 40% 
Polyester), kiểu dệt single jersey. Khối lượng 112,5g/m2. 
Chín mẫu vải được chuẩn bị, kích thước 30x30cm. Đánh 
dấu 20x20cm (hình 1) để xác định sự thay đổi kích thước 
theo hướng ngang và theo hướng dọc (TCVN 8041-2009. 
Xác định sự thay đổi kích thước của vải dệt kim sau quá 
trình giặt và làm khô). 
Giữ mẫu trong tủ điều mẫu ít nhất 24 giờ theo tiêu 
chuẩn ASTM 2494. 
Hình 1. Kích thước mẫu vải 
Các mẫu vải được giặt bằng ba loại chất giặt tẩy là chất 
giặt tẩy thương mại Surf, chất giặt tẩy trung tính pH = 7,0 
và nước giặt chiết xuất từ bồ hòn với nồng độ saponin là 
5% (tỷ lệ khối lượng m/m) là sản phẩm của Bộ môn Vật liệu 
Viện Dệt may - Da giày và Thời trang (Đại học Bách khoa Hà 
Nội). Ba loại chất giặt tẩy được sử dụng như khi được cung 
cấp, không có điều chề gì thêm. Chúng được được sử dụng 
khi giặt với cùng mức 20ml cho mỗi mẻ giặt (dung tỷ 0,2% 
m/m) và được giặt 3 lần theo chế độ giặt nhẹ, thời gian giặt 
là 45 phút, ở nhiệt độ 25oC, tốc độ quay của máy 900 vòng/ 
phút. Mỗi loại chất giặt sử dụng 3 mẫu, lấy kết quả là trung 
bình cộng của ba mẫu này. 
Độ xiên lệch hàng vòng của các mẫu vải được đo sau 
mỗi lần giặt theo tiêu chuẩn ASTM 3882 - 99 Standard Test 
Method for Bow and Skew in Woven and Knitted Fabrics. 
3. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN 
3.1. Ảnh hưởng của chất giặt tẩy tới độ ổn định kích thước 
Kết quả đo kích thước của ba mẫu vải theo hướng 
ngang và hướng dọc giặt bởi ba loại chất giặt tẩy sau lần 
giặt thứ nhất được ghi lại trong bảng 1. 
Kích thước ngang và dọc trung bình của các mẫu giặt 
bởi ba loại chất giặt tẩy sau ba lần giặt được thể hiện trên 
hình 2. 
Bảng 1. Kích thước mẫu vải theo hướng ngang và hướng dọc giặt bởi ba loại 
chất giặt tẩy sau lần giặt thứ nhất 
Loại 
chất 
giặt 
Hướng 
đo 
Mẫu Kích 
thước 1 
Kích 
thước 2 
Kích 
thước 3 
Tb 
mẫu 
Trung 
bình 
Surf 
Theo 
chiều dọc 
Mẫu 1 19,5 19,45 19,65 19,5 19,5 
Mẫu 2 19,45 19,3 19,35 19,4 
Mẫu 3 19,65 19,35 19,4 19,5 
Theo 
chiều 
ngang 
Mẫu 1 19,7 19,5 20 19,7 19,9 
Mẫu 2 20 19,85 20 20 
Mãu 3 20,2 19,75 20 20 
Nước 
giặt 
len 
Theo 
chiều dọc 
Mẫu 1 19,5 19,8 19,5 19,6 19,7 
Mẫu 2 19,85 19,6 19,65 19,7 
Mẫu 3 19,5 19,7 19,8 19,7 
Theo 
chiều 
ngang 
Mẫu 1 20 19,8 20 19,9 20 
Mẫu 2 19,9 19,85 20,1 20 
Mãu 3 20 20 19,9 20 
Bồ 
hòn 
Theo 
chiều dọc 
Mẫu 1 19,4 19,75 19,8 19,7 19,5 
Mẫu 2 19,6 19,2 19,5 19,4 
Mẫu 3 19,35 19,4 19,5 19,4 
Theo 
chiều 
ngang 
Mẫu 1 19,7 19,8 19,7 19,7 19,8 
Mẫu 2 19,95 19,8 19,8 19,9 
Mãu 3 19,9 19,6 19,8 19,8 
Đồ thị 2a cho thấy kích thước dọc của các mẫu vải CVC 
thay đổi qua ba lần giặt. Vải có xu hướng co dọc mạnh sau 
lần giặt thứ nhất và thứ hai: sau lần giặt thứ nhất kích thước 
dọc của các mẫu lần lượt là 19,5; 19,7 và 19,5cm tương ứng 
với chất giặt Surf, trung tính và nước bồ hòn, như vậy chất 
giặt trung tính ít gây biến động kích thước nhất (-0,3cm); 
sau lần giặt thứ hai các mẫu vải tiếp tục co, vải giặt bởi 
nước bồ hòn co dọc lớn nhất, đạt kích thước 19,2cm, trong 
khi vải giặt bởi các nước giặt Surf và nước giặt len có tăng 
độ co đạt 19,3 và 19,4cm. Sau đó trong lần giặt thứ ba các 
mẫu vải giặt bằng nước giặt trung tính và nước bồ hòn có 
xu hướng phục hổi kích thước, trở về kích thước 19,6 và 
19,4cm, vải giặt bằng nước Surf vẫn giữ độ co 19,3cm. Như 
vậy trong giới hạn 3 lần giặt khảo sát, nước giặt trung tính 
và nước giặt bồ hòn ít gây biến động kích thước dọc của vải 
hơn so với nước giặt thương mại Surf. Điều này có thể hiểu 
rằng chất hoạt động bề mặt saponin trong nước giặt bồ 
hòn có tác dụng tương tự như chất giặt trung tính và hiệu 
quả hơn nước giặt Surf trong ảnh hưởng tới sự thay đổi 
kích thước của vải dệt kim single. Điều này có nghĩa là sử 
dụng chất giặt tẩy từ bồ hòn không ảnh hưởng khác biệt 
đến sự biến động kích thước của vải dệt kim single trong 
nghiên cứu này. 
P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9619 SCIENCE - TECHNOLOGY 
Website: https://tapchikhcn.haui.edu.vn Vol. 56 - No. 4 (Aug 2020) ● Journal of SCIENCE & TECHNOLOGY 103
a) 
b) 
Hình 2. Kích thước mẫu vải theo hướng dọc (hình 2a) và hướng ngang (hình 
2b) giặt bởi ba loại chất giặt tẩy sau 3 lần giặt 
Sự biến động kích thước ngang của các mẫu vải được 
thể hiện trên đồ thị của hình 2b. Tất cả các mẫu vải ít biến 
động kích thước ngang sau lần giặt thứ nhất: vải giặt bằng 
chất giặt trung tính không thay đổi kích thước, vải giặt 
bằng nước Surf và nước bồ hòn co ngang với kích thước lần 
lượt là 19,9 và 19,8cm. Sau lần giặt thứ hai các mẫu vải đều 
tiếp tục co ngang với các kích thước 19,8; 19,8 và 19,7 
tương ứng với nước giặt Surf, trung tính và nước bồ hòn. Xu 
thế co ngang của vải vẫn tiếp tục ở lần giặt thứ ba với các 
kích thước ngang đo được là 19,6; 19,7 và 19,6 tương ứng 
với nước giặt Surf, trung tính và nước bồ hòn. Như vậy sau 
ba lần giặt các mẫu vải đều có xu hướng liên tục co ngang, 
vải giặt bởi nước bồ hòn co ngang nhiều nhất, vải giặt bởi 
nước giặt trung tính và nước giặt thương mại Surf có độ co 
ngang tương đương nhau. Tuy nhiên sự khác biệt về độ co 
ngang của các mẫu vải không lớn, chênh lệch 0,1cm. Kết 
quả cho thấy nếu sử dụng nước giặt từ bồ hòn vho thấy 
không ảnh hưởng khác biệt so với các loại chất giặt tẩy 
thương mại thông dụng. 
3.2. Ảnh hưởng của chất giặt tẩy tới độ xiên hàng vòng 
Độ xiên lệch hàng vòng của các mẫu vải (xác định bằng 
tanα, của hướng hàng vòng so với cột vòng, theo tiêu 
chuẩn ASTM 3882 - 99) qua ba lần giặt được trình bày trong 
hình 3. 
Độ xiên hàng vòng của ba mẫu vải dệt kim single dệt 
từ sợi CVC đều tăng ngay sau lần giặt đầu tiên: vải giặt 
bằng nước giặt len trung tính có độ co lớp nhất là 0,150; 
sau đó là vải giặt bởi nước bồ hòn có tan α là 0,138; ít biến 
động về độ xiên hàng vòng nhất là vải giặt bảng nước 
giặt Surf với giá trị tang α bằng 0,133. Sau lần giặt thứ hai, 
vải giặt bằng nước giặt len trung tính và nước giặt Surf có 
xu hướng giảm độ xiên hàng vòng với các giá trị tan α lần 
lượt là 0,131 và 0,107 trong khi vải giặt nước giặt bồ hòn 
lại tăng độ xiên hàng vòng lên 0,148. Sau lần giặt thứ ba, 
các mẫu vải đều có độ xiên hàng vòng xấp xỉ với lúc trước 
khi giặt (0,14) với các giá trị tanα góc xiên hàng vòng lần 
lượt là 0,127; 0,131 và 0,146 tương ứng với các loại nước 
giặt Surf, trung tính và nước giặt bồ hòn. Như vậy nước 
giặt Surf và nước giặt trung tính có xu hướng làm giảm độ 
xiên lệch hàng vòng của vải sau ba lần giặt, trong khi 
nước giặt bồ hòn cho giá trị độ xiên hàng vòng tăng nhẹ 
so với mức xiên lệch ban đầu. Vì vậy, theo kết quả của 
khảo sát này, nếu thiết kế sản phẩm theo kích thước vải 
hoàn tất ban đầu thì việc sử dụng nước giặt chiết suất bồ 
hòn sẽ ít làm sai lệch kích thước thiết kế nhất trong 3 loại 
chất giặt tẩy sử dụng trong nghiên cứu này. 
Hình 3. Độ xiên lệch hàng vòng của các mẫu vải single sau ba lần giặt 
4. KẾT LUẬN 
Kết quả khảo sát từ nghiên cứu này cho thấy vải dệt kim 
single dệt từ sợi CVC có biến động kích thước sau khi giặt. 
 CÔNG NGHỆ 
 Tạp chí KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ● Tập 56 - Số 4 (8/2020) Website: https://tapchikhcn.haui.edu.vn 104
KHOA HỌC P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9619
Mức độ biến động kích thước ngang và dọc sau ba lần giặt 
và sau mỗi lần giặt không lớn, dưới 3% kích thước ban đầu, 
theo cả hướng ngang và hướng dọc. Sự khác biệt về độ co 
của vải giặt bởi ba loại chất giặt tẩy không lớn, tuy nhiên 
nước giặt trung tính có xu hướng ít gây biến động kích 
thước nhất theo cả hai hướng. Nước bồ hòn và nước giặt 
Surf làm vải co ngang và dọc gần như tương đương nhau. 
Sau ba lần giặt thì vải có xu hướng giảm độ xiên lệch hàng 
vòng khi sử dụng nước giặt Surf và nước giặt trung tính 
trong khi nước giặt bồ hòn vẫn giữ nguyên độ xiên hàng 
vòng so với ban đầu. Với những khác biệt không đáng kể 
khi ảnh hưởng đến tính chất cơ lý của vải CVC, việc sử dụng 
chất giặt tẩy có nguồn gốc tự nhiên sẽ góp phần bảo về 
môi trường so với các loại chất giặt tẩy thương mại truyền 
thống. Các thông tin này có thể giúp cho người tiêu dùng 
cũng như các nhà sản xuất lựa chọn loại chất giặt tẩy trong 
quá trình gia công và sử dụng, cũng như góp phần thông 
tin cho việc phát triển chất giặt truyền thống, có nguồn gốc 
thiên nhiên từ quả bồ hòn Việt Nam. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. David J Spencer. 2001. Knitting technology, a comprehensive handbook 
and practical guide. Woodhead Publishing. 
 [2]. Matte Ramsgaard Thomsen, Yuliya Sinke Baranovskaya, Filip 
Monteiroa, Julian Lienhardb, Riccardo LA Magnab, Martin Tamke, 2019. Systems 
for transformative textile structures in CNC knitted fabric - Isoropia. Softening the 
habitats, pp.95-110. 
[3]. Edin Fatkić, Jelka Geršak, Darko Ujević, 2011. Influence of Knitting 
Parameters on the Mechanical Properties of Plain Jersey Weft Knitted Fabrics. 
FIBRES & TEXTILES in Eastern Europe, Vol. 19, No. 5 (88) pp. 87-91.. 
[4]. Chu Dieu Huong. Nguyen Thi Hang, 2012. Effect of loop length on the 
extension properties of knitted fabric. Journal of Science &Technology Technical 
University. ISSN 0868-3980, vol 88, pp 131-134. 
[5]. Mihriban Kalkanci, 2019. Investigation into Fabric Spirality in Various 
Knitted Fabrics and Its Effect on Efficiency in Apparel Manufacturing. FIBRES & 
TEXTILES in Eastern Europe, pp. 59-66, 2019. 
 [6]. Züleyha Değirmenci, Mehmet Topalbekiroğlu, 2010. Effects of Weight, 
Dyeing and the Twist Direction on the Spirality of Single Jersey Fabrics. FIBRES & 
TEXTILES in Eastern Europe, Vol. 18, No. 3 (80) pp. 81-85. 
AUTHORS INFORMATION 
Chu Dieu Huong1, Dao Thi Chinh Thuy1, Luu Thi Tho2 
1Hanoi University of Science and Technology 
2Hanoi University of Industry 

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_khao_sat_anh_huong_cua_chat_giat_tay_den_tinh_cha.pdf