Nghiên cứu khái quát về nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụng hoặc người tham gia tố tụng trong tố tụng hình sự

Tóm tắt: Nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của người tiến hành hoặc người tham gia tố hình sự mang

tính nền tảng của quá trình giải quyết vụ án, ảnh hưởng đến tính khách quan, công bằng khi tiến

hành tố tụng, đồng thời tác động mạnh mẽ đến việc bảo đảm quyền con người, bảo đảm công lý

trong nhà nước pháp quyền. Bài viết tập trung làm sáng tỏ những nội dung cơ bản sau: Các quan

điểm về nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của người tiến hành và người tham gia tố tụng; Nội dung, vị

trí, vai trò của nguyên tắc này; Mối liên hệ giữa nguyên tắc này với những vấn đề có liên quan.

pdf 15 trang phuongnguyen 10800
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu khái quát về nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụng hoặc người tham gia tố tụng trong tố tụng hình sự", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu khái quát về nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụng hoặc người tham gia tố tụng trong tố tụng hình sự

Nghiên cứu khái quát về nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụng hoặc người tham gia tố tụng trong tố tụng hình sự
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học, Tập 29, Số 1 (2013) 27-41 
 27 
Nghiên cứu khái quát về nguyên tắc bảo đảm sự vô tư 
của những người tiến hành tố tụng hoặc người tham gia 
tố tụng trong tố tụng hình sự 
Trần Thu Hạnh* 
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam 
Nhận ngày 26 tháng 1 năm 2013 
Chỉnh sửa ngày 25 tháng 2 năm 2013; chấp nhận đăng ngày 15 tháng 3 năm 2013 
Tóm tắt: Nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của người tiến hành hoặc người tham gia tố hình sự mang 
tính nền tảng của quá trình giải quyết vụ án, ảnh hưởng đến tính khách quan, công bằng khi tiến 
hành tố tụng, đồng thời tác động mạnh mẽ đến việc bảo đảm quyền con người, bảo đảm công lý 
trong nhà nước pháp quyền. Bài viết tập trung làm sáng tỏ những nội dung cơ bản sau: Các quan 
điểm về nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của người tiến hành và người tham gia tố tụng; Nội dung, vị 
trí, vai trò của nguyên tắc này; Mối liên hệ giữa nguyên tắc này với những vấn đề có liên quan. 
Nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của người tiến 
hành tố tụng hoặc người tham gia tố tụng là 
nguyên tắc có tính chất nền tảng không chỉ của 
luật tố tụng hình sự mà còn của toàn bộ nền tư 
pháp trong nhà nước pháp quyền. Vì thế, 
nguyên tắc này chiếm vị trí đặc biệt quan trọng 
trong số các nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng 
hình sự mà ảnh hưởng của nó có tác động tích 
cực hoặc tiêu cực đến quá trình giải quyết vụ 
án, đến việc bảo đảm quyền con người. Bài viết 
này tập trung khảo cứu các quan điểm, cũng 
như làm rõ những nội dung, vị trí, vai trò và 
mối liên hệ của nguyên tắc này với các vấn đề 
khác có liên quan. 
1. Các quan điểm về nguyên tắc bảo đảm sự 
vô tư của người tiến hành tố tụng hoặc người 
tham gia tố tụng∗ 
Nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của người tiến 
hành tố tụng và người tham gia tố tụng, đến nay 
_______ 
∗
 ĐT: 84-4-37547512. 
 E-mail: tranthuhanh72@yahoo.com 
đã được thừa nhận trong tuyệt đại đa số pháp 
luật các quốc gia, được ghi nhận trong hầu hết 
các văn kiện pháp lý quốc tế về quyền con 
người. Tuy nhiên, trong quy định pháp luật, 
trong học thuyết, cũng như trong án lệ các nước 
hoặc quốc tế không phải luôn luôn có cách tiếp 
cận, giải thích và áp dụng giống nhau về 
nguyên tắc này. Từ nhận thức, quan niệm khác 
biệt, các nước có thể có những cách tiếp cận và 
đưa ra biện pháp khác nhau nhằm bảo đảm yêu 
cầu của nguyên tắc này trong lĩnh vực tố tụng 
hình sự. 
Trong Luật La Mã, Luật của người Do thái 
cổ, đã có những quy định thẩm phán - người 
đóng vai trò xét xử không được là một bên, hay 
có những lợi ích vật chất trong vụ tranh chấp 
[1]. Sự vô tư của thẩm phán được ghi nhận qua 
một ngạn ngữ La-tinh: Nemo iudex in causa sua 
hay Nemo iudex in propria causa (không ai có 
thể là quan toà cho vụ việc của chính mình). Từ 
thời kỳ Trung cổ, nguyên tắc này được thừa 
nhận trong thông luật của Vương quốc Anh [2]. 
T.T. Hạnh / Tạp chí Khoa hoc ĐHQGHN, Luật học, Tập 29, Số 1 (2013) 27-41 
28 
Tuy nhiên, cho đến thế kỷ 18, nguyên tắc bảo 
đảm sự vô tư của thẩm phán chỉ được giới hạn 
ở yêu cầu thẩm phán, người xét xử không được 
là một bên hoặc có lợi ích vật chất trong vụ 
tranh chấp. Trong một vụ việc được giải quyết 
năm 1852, Tòa án Anh cho rằng: 
“Điều tối quan trọng là ngạn ngữ theo đó 
không ai có thể là thẩm phán cho chính vụ việc 
của mình phải được tôn trọng một cách nghiêm 
cẩn. Điều này không chỉ áp dụng cho vụ việc 
mà thẩm phán tham gia với tư cách là một bên, 
mà còn áp dụng cho cả những vụ việc mà trong 
đó thẩm phán có những lợi ích liên quan.” [3] 
Sau này thông qua án lệ, yêu cầu về sự vô 
tư của thẩm phán đã được áp dụng mở rộng 
hơn. Thẩm phán sẽ bị coi là thiếu vô tư không 
chỉ với những vụ việc mà thẩm phán tham gia 
với tư cách là một bên, hay có lợi ích vật chất 
liên quan, mà còn cả đối với những vụ việc có 
những biểu hiện khách quan bên ngoài có thể 
dẫn đến sự nghi ngờ chính đáng về sự vô tư đó. 
Đây chính là thuyết về “Biểu hiện của sự vô tư” 
(appearance of impartiality), hay còn gọi là sự 
vô tư khách quan, được vận dụng phổ biến hiện 
nay ở nhiều nước khác. Trong một vụ việc xét 
xử vào năm 1969, Tòa án Anh cho rằng: 
“Khi đánh giá xem liệu có tồn tại một khả 
năng thực sự của sự thiên vị hay không , tòa 
án không chỉ tìm kiếm xem có tồn tại một khả 
năng thực sự chứng tỏ thẩm phán có thể sẽ hay 
trên thực tế đã thiên vị một bên mà gây bất lợi 
cho một bên khác. Tòa án phải nhìn vào ấn 
tượng có thể phát sinh ở một người bình thường 
khácỞ đây chỉ cần tính đến tính có căn cứ. 
Công lý phải bắt nguồn từ sự tin tưởng và sự tin 
tưởng sẽ bị hủy hoại khi một người có tư duy 
bình thường rời đi mà nghĩ rằng: thẩm phán đã 
thiên vị” [4]. 
Tại Hoa Kỳ, nguyên tắc bảo đảm sự vô tư 
của tư pháp bắt nguồn từ thông luật của Anh, 
nhưng sau đó có những phát triển và hoàn thiện 
đáng kể thông qua việc ban hành những đạo 
luật về vấn đề thay đổi thẩm phán, cũng như 
thực tiễn án lệ [5]. Vào năm 1792, Lập pháp 
Hoa Kỳ thông qua đạo luật đầu tiên về vấn đề 
thay thế thẩm phán [6]. Đạo luật này hầu như 
chỉ dừng lại ở việc pháp điển hóa các quy định 
của thông luật của Anh, theo đó, yêu cầu phải 
thay thế những thẩm phán có “lợi ích liên quan” 
hoặc “đã từng là cố vấn cho một trong các bên 
tranh chấp”. Hiện tại, vấn đề bảo đảm sự vô tư 
và thay thế các thẩm phán của Hoa Kỳ được 
quy định trong cả các đạo luật liên bang, các 
quy định cụ thể của từng bang và cả trong các 
quy chế của Liên đoàn thẩm phán Hoa Kỳ. 
Liên quan đến các thẩm phán liên bang, các 
quy định áp dụng là Luật liên bang số 28, Mục 
455 [7]; Luật liên bang số 28, Mục 144 và Luật 
liên bang số 28, Mục 47. Mục 455 Luật liên 
bang số 28 bao gồm hai phần: Mục 455(a) và 
455(b). Mục 455 (a) quy định việc thẩm phán 
phải tự rút lui khỏi vụ việc trong trường hợp 
“có căn cứ hợp lý nghi ngờ về sự vô tư” của 
thẩm phán. Mục 455(b), trái lại, liệt kê những 
trường hợp cụ thể mà trong đó sự vô tư của 
thẩm phán đương nhiên bị coi là không được 
đáp ứng và do vậy, thẩm phán phải tự rút lui 
khỏi vụ việc. Sự khác biệt cơ bản giữa các quy 
định của Mục 455 với Mục 144 thể hiện ở ba 
điểm: Thứ nhất, Mục 455 áp dụng cho cả 
trường hợp thẩm phán đã hành động thiếu vô 
tư, lẫn trường hợp có những dấu hiệu cho phép 
nghi ngờ một cách có căn cứ về sự vô tư của 
thẩm phán, trong khi Mục 144 chỉ áp dụng cho 
trường hợp có sự thiếu vô tư thực tế của thẩm 
phán. Thứ hai, để áp dụng Mục 144, đòi hỏi 
phải có yêu cầu bằng văn bản của đương sự 
trong vụ việc, trong khi theo Mục 455, việc 
thay thế thẩm phán nhằm bảo đảm sự vô tư 
không những được thực hiện theo yêu cầu của 
đương sự mà còn có thể theo nhận định của bản 
T.T. Hạnh / Tạp chí Khoa hoc ĐHQGHN, Luật học, Tập 29, Số 1 (2013) 27-41 29 
thân thẩm phán. Thứ ba, Mục 144 chỉ áp dụng 
cho các thẩm phán quận (district judges), trong 
khi Mục 455 áp dụng cho mọi thẩm phán liên 
bang. So với các quy định ở Mục 455 và Mục 
144, quy định tại Luật liên bang số 28, Mục 47 
ít được đề cập và áp dụng hơn. Mục 47 chỉ áp 
dụng cho các thẩm phán ở cấp phúc thẩm, theo 
đó, “không một thẩm phán nào được xem xét, 
giải quyết một yêu cầu phúc thẩm đối với một 
bản án từ một vụ việc do chính thẩm phán đó 
đã xét xử sơ thẩm” [8]. 
Bên cạnh các quy định áp dụng cho các 
thẩm phán liên bang, hầu như tất cả các bang 
của Hoa Kỳ đều chấp nhận và áp dụng Bộ quy 
tắc về ứng xử tư pháp của Liên đoàn Luật sư 
Hoa Kỳ cho các thẩm phán của bang mình. Quy 
tắc số 2.11 của Bộ quy tắc này quy định: “Một 
thẩm phán phải tự rút lui khỏi bất kỳ vụ việc 
nào nếu sự vô tư của thẩm phán có thể bị nghi 
ngờ một cách có căn cứ”. Ở đây, sự vô tư được 
định nghĩa là “không có sự thiên vị hay định 
kiến làm lợi hay gây bất lợi cho một bên hoặc 
một số bên trong vụ việc, cũng như việc có một 
thái độ cởi mở khi xem xét những vấn đề được 
đưa ra” [9]. Bộ quy tắc liệt kê những trường 
hợp điển hình mà khi đó sự vô tư của thẩm 
phán bị coi là không được đáp ứng. Về cơ bản, 
việc áp dụng các quy tắc của Bộ quy tắc tương 
tự như việc áp dụng các trường hợp tại Luật 
liên bang số 28, Mục 455. 
Nội dung của nguyên tắc đảm bảo sự vô tư 
của thẩm phán, việc áp dụng trong các trường 
hợp cụ thể được làm sáng tỏ một phần quan 
trọng bởi án lệ Hoa Kỳ. Trong một vụ việc nổi 
tiếng, Tòa án tối cao liên bang Hoa Kỳ đã diễn 
giải ba nội dung của nguyên tắc đảm bảo sự vô 
tư [10]: Thứ nhất, sự vô tư được hiểu là không 
có sự thiên vị, làm lợi hoặc làm bất lợi cho một 
bên trong vụ tranh chấp (“lack of bias for or 
against a party to a dispute”). Sự vô tư trong 
trường hợp này bảo đảm cho mỗi bên trong vụ 
việc rằng thẩm phán sẽ áp dụng các quy định 
pháp luật đối với họ giống như thẩm phán áp 
dụng cho phía còn lại của vụ việc. Thứ hai, sự 
vô tư cũng được hiểu là thẩm phán, người có 
trách nhiệm giải quyết vụ việc không có thiên 
kiến, hay định kiến ủng hộ hay chống lại một 
quan điểm, một vấn đề pháp lý trong vụ việc từ 
trước khi giải quyết vụ việc đó (“lack of a bias 
for or against particular issues”, hay “lack of 
preconception in favor of or against a particular 
legal view”). Thứ ba, tuy nhiên, Tòa án cũng 
cho rằng yêu cầu một thẩm phán không được có 
chính kiến, quan điểm từ trước về bất cứ vấn đề 
pháp lý nào đặt ra trong vụ việc là một điều rất 
khó khả thi. Do vậy, theo Tòa án, điều quan 
trọng để nguyên tắc đảm bảo sự vô tư có thể 
được đáp ứng là thẩm phán phải có một thái độ 
cởi mở ("open-mindedness"). Theo Tòa án, 
phẩm chất này không cấm đoán thẩm phán có 
quan điểm từ trước về một vấn đề pháp lý đặt ra 
trong vụ việc cụ thể, mà đòi hỏi thẩm phán phải 
sẵn sàng xem xét đến những quan điểm đối lập 
hay khác biệt, sẵn sàng chấp nhận có thể thay 
đổi những định kiến đó [11]. 
Nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của hoạt động 
tư pháp đặc biệt được giải thích, làm sáng tỏ 
bởi Tòa án nhân quyền châu Âu [12]. Với chức 
năng chủ yếu là giải quyết khiếu kiện của các cá 
nhân về các vi phạm nhân quyền của các nước 
thành viên đối với những quyền, tự do cơ bản 
được ghi nhận trong Công ước châu Âu về 
quyền con người, Tòa án đã thụ lý và giải quyết 
một số lượng lớn các khiếu kiện liên quan đến 
vi phạm của các quốc gia trong việc bảo đảm 
quyền của mỗi cá nhân được xét xử công bằng. 
Án lệ của Tòa án có giá trị, tầm ảnh hưởng lớn 
bởi chúng không chỉ có hiệu lực bắt buộc đối 
với chính phủ, mà còn được vận dụng phổ biến 
bởi Tòa án quốc gia của các nước thành viên, 
được vận dụng bởi các thiết chế tư pháp, các tổ 
chức quốc tế về bảo vệ quyền con người, cũng 
T.T. Hạnh / Tạp chí Khoa hoc ĐHQGHN, Luật học, Tập 29, Số 1 (2013) 27-41 
30 
như được viện dẫn rộng rãi trong học thuyết. 
Nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của hoạt động tư 
pháp được phát triển trong án lệ của Tòa án liên 
quan đến cả các thiết chế tư pháp từ hiến pháp, 
đến dân sự, hành chính hay các cơ quan tư pháp 
đặc biệt (như các Tòa án quân sự). Đặc biệt, các 
án lệ của Tòa án về nguyên tắc này liên quan 
phổ biến đến các thiết chế tư pháp về hình sự. 
Theo Tòa án, nguyên tắc bảo đảm sự vô tư 
của hoạt động tư pháp là một đòi hỏi cơ bản của 
quyền của mỗi cá nhân được xét xử một cách 
công bằng, được ghi nhận tại Điều 6.1 của 
Công ước châu Âu về quyền con người. 
Nguyên tắc bảo đảm sự vô tư đòi hỏi sự loại trừ 
mọi định kiến cũng như thiên vị trong hành xử 
của cơ quan, người thực hiện chức năng tư pháp 
xét xử. Để đánh giá sự vô tư này, cần tiếp cận 
cả từ phương diện chủ quan và phương diện 
khách quan: 
Từ phương diện chủ quan, cần bảo đảm 
rằng bản thân cá nhân người thẩm phán không 
được có thiên kiến, định kiến hay sự thiên vị 
trong giải quyết một vụ việc cụ thể. Để đánh giá 
sự vô tư từ phương diện này là một nhiệm vụ 
đặc biệt khó khăn. Tòa án cho rằng, sự vô tư 
của thẩm phán được mặc nhiên thừa nhận, trừ 
khi có bằng chứng thuyết phục chứng minh 
điều ngược lại. 
Từ phương diện khách quan, Tòa án cho 
rằng sự vô tư của tư pháp nói chung, cũng như 
của thẩm phán nói riêng thể hiện ở việc liệu có 
đủ những bảo đảm cần thiết để có thể loại trừ 
mọi nghi ngờ có căn cứ về sự vô tư đó. Theo 
Tòa án, sự vô tư trong hoạt động tư pháp trong 
một vụ việc cụ thể chính là việc phải thể hiện ra 
bên ngoài những dấu hiệu chứng tỏ sự vô tư đó. 
Trong một vụ việc hình sự, sự nghi ngờ hay cáo 
buộc của đương sự là quan trọng, nhưng không 
phải là điều quyết định để đánh giá sự không vô 
tư của tòa án. Theo Tòa án, điểm quyết định 
chính là những nghi ngờ, cáo buộc đó có tính 
căn cứ hay không, dựa vào những biểu hiện bên 
ngoài, khách quan của tình huống. Sự thiếu vô 
tư chỉ được coi là tồn tại khi không chỉ đương 
sự trong vụ án, mà bất cứ một chủ thể nào, từ 
những dấu hiệu khách quan của tình huống, 
cũng có thể đi đến sự nghi ngờ chính đáng về 
sự vô tư đó. 
Trong vụ Findlay kiện chính phủ Anh, Tòa 
án nhân quyền châu Âu cho rằng: “Để xác 
định xem Tòa án có “độc lập” hay không thì 
bên cạnh những vấn đề khác, cần phải xem xét 
đến vấn đề bổ nhiệm và nhiệm kỳ của các thành 
viên của Tòa án, sự tồn tại của các đảm bảo 
chống lại các áp lực từ bên ngoài và vấn đề cơ 
quan tòa án có thể hiện những dấu hiệu cho 
thấy sự độc lập hay không. Liên quan đến sự 
“vô tư”, có hai khía cạnh của yêu cầu này. Thứ 
nhất, một cách chủ quan, tự bản thân Tòa án 
phải không có những định kiến hay thiên vị cá 
nhân. Thứ hai, sự vô tư cũng phải được chứng 
tỏ từ một sự nhìn nhận khách quan, rằng phải 
có những đảm bảo hợp lý để loại trừ bất cứ một 
sự nghi ngờ chính đáng nào về sự vô tư của Tòa 
án” [13]. 
Cách hiểu trên đây về nguyên tắc bảo đảm 
sự vô tư của tư pháp được chấp nhận rộng rãi cả 
ở tầm quốc gia và quốc tế. Chẳng hạn, Ủy ban 
Nhân quyền của Liên Hợp Quốc, khi đề cập đến 
yêu cầu vô tư trong Điều 14.1 của Công ước 
quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 
1966 đã cho rằng khái niệm vô tư “đòi hỏi rằng 
thẩm phán không được phép có định kiến trước 
về vụ việc được chuyển đến cho họ, và rằng họ 
không được phép hành động theo cách có lợi 
cho một trong các bên trong vụ việc.” [14]. 
Điều 5 của Hiến chương thế giới của thẩm phán 
nêu rõ: “trong khi thực hiện các chức năng tư 
pháp của mình, thẩm phán phải vô tư và chứng 
tỏ được sự vô tư” [15]. 
T.T. Hạnh / Tạp chí Khoa hoc ĐHQGHN, Luật học, Tập 29, Số 1 (2013) 27-41 31 
Tại Việt Nam, nguyên tắc đảm bảo sự vô tư 
của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố 
tụng được ghi nhận là một trong những nguyên 
tắc cơ bản của Luật tố tụng hình sự. Điều 14 Bộ 
luật Tố tụng hình sự năm 2003 (Bộ luật TTHS) 
quy định rõ nguyên tắc này: 
“Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều 
tra, Điều tra viên,Viện trưởng, Phó Viện trưởng 
Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Chánh án, Phó 
Chánh án Toà án, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư 
ký Tòa án không được tiến hành tố tụng hoặc 
người phiên dịch, người giám định không được 
tham gia tố tụng, nếu có lý do xác đáng để cho 
rằng họ có thể không vô tư trong khi thực hiện 
nhiệm vụ của mình”. 
Để thực hiện nguyên tắc này, Điều 42 Bộ 
luật ... t thời hạn hợp lý bởi một tòa án 
độc lập, vô tư và được thành lập từ trước bởi 
pháp luật”. 
Điều 8.1 của Công ước châu Mỹ về nhân 
quyền, Điều 7.1 Hiến chương châu Phi về 
quyền con người và quyền của các dân tộc cũng 
có những quy định tương tự. Điều 8.1 Công ước 
châu Mỹ về nhân quyền quy định: 
“Mỗi cá nhân đều có quyền có một phiên 
xét xử, với những đảm bảo công bằng, trong 
một thời gian hợp lý, bởi một tòa án có thẩm 
quyền, độc lập và vô tư được thành lập từ trước 
bởi pháp luật”. 
Điều 7 Hiến chương châu Phi về quyền của 
cá nhân và các dân tộc quy định: 
“Mọi cá nhân đều có quyền được lắng 
nghe. Quyền này bao gồm:d) Quyền được xét 
xử trong một khoảng thời gian hợp lý bởi một 
tòa án vô tư”. 
Trong vụ Farundzija, Tòa phúc thẩm Toà án 
hình sự dành cho Liên bang Nam Tư cũ tuyên 
bố: 
“Quyền con người cơ bản của một bị cáo 
được xét xử bởi một toà án độc lập và vô tư 
được ghi nhận rộng rãi như là một nội dung 
không thể tách rời của đòi hỏi mà theo đó một 
bị cáo phải được xét xử bởi một phiên toà công 
bằng.” [25]. 
Tại Việt Nam, giới các học giả, nghiên cứu 
cũng thống nhất thừa nhận việc quy định 
nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của người tiến 
hành tố tụng, người tham gia tố tụng là người 
phiên dịch, người giám định là một trong những 
biểu hiện của việc bảo vệ quyền con người 
trong lĩnh vực tư pháp hình sự [26]. 
4.3. Sự vô tư của người tiến hành tố tụng, người 
tham gia tố tụng: điều kiện để tạo dựng niềm tin 
của cộng đồng vào hoạt động tư pháp 
Sự vô tư của người tiến hành tố tụng, người 
giám định, người phiên dịch không chỉ nhằm 
bảo đảm cho hoạt động tố tụng được thực hiện 
một cách khách quan, công bằng, xử lý đúng 
người, đúng tội và tuân theo pháp luật. Xa hơn, 
yêu cầu này còn đảm bảo rằng hoạt động tố 
tụng hình sự nói chung, đặc biệt là hoạt động 
xét xử của Tòa án nói riêng sẽ nhận được sự tin 
tưởng, niềm tin của những người tham gia tố 
tụng là bị can, bị cáo, nguyên đơn, bị đơn dân 
sự, người có quyền lợi liên quan trong vụ án 
hay đại diện hợp pháp của họ, cũng như của cả 
cộng đồng xã hội nói chung. 
Hiệu quả của một nền tư pháp không chỉ là 
kết quả của việc công lý được thực thi. Quan 
trọng không kém là việc cộng đồng xã hội phải 
có niềm tin rằng công lý đã hoặc sẽ phải được 
thực thi. Niềm tin này chỉ có được khi những 
người thực thi công lý phải hành động một cách 
vô tư, chỉ dựa trên pháp luật và sự việc khách 
T.T. Hạnh / Tạp chí Khoa hoc ĐHQGHN, Luật học, Tập 29, Số 1 (2013) 27-41 
38 
quan. Chính vì điều này, trong nhiều trường 
hợp, yêu cầu đảm bảo sự vô tư không chỉ nhằm 
hướng tới một sự vô tư thực tế của hoạt động tư 
pháp, mà còn hướng tới sự tin tưởng của cộng 
đồng, nhằm loại bỏ mọi nghi ngờ có thể về sự 
vô tư đó. Chẳng hạn, Điều 5 của Hiến chương 
thế giới của thẩm phán quy định: 
“Thẩm phán phải vô tư và phải biểu hiện sự 
vô tư trong thực thi các hoạt động tư pháp của 
mình.” [27]. 
Hiến chương châu Âu về quy chế của thẩm 
phán tại Điều 4.3 cho thấy một ví dụ rõ ràng 
hơn: 
 “Các thẩm phán phải tránh mọi hành xử, 
hoạt động hay biểu hiện có thể làm ảnh hưởng 
đến niềm tin vào sự vô tư và độc lập của họ”. 
[28]. 
Ý nghĩa trên đây của nguyên tắc bảo đảm 
sự vô tư của tư pháp được đặc biệt nhấn mạnh 
tại Hoa Kỳ, đất nước rất coi trọng và tự hào về 
nền tư pháp của họ: 
 “Niềm tin vào sự vô tư của hệ thống tòa án 
- được xem là nhánh “phi chính trị” của chính 
quyền - là nguồn sức mạnh và tính chính danh 
chủ yếu của hệ thống đó” [29]. 
Liên quan đến ý nghĩa của việc đảm bảo sự 
vô tư của các thiết chế tư pháp hình sự quốc tế, 
thẩm phán Theodor Meron, là Thẩm phán phúc 
thẩm, Chánh án Tòa án hình sự quốc tế dành 
cho Liên bang Nam tư cũ khẳng định rất rõ ràng 
như sau: 
 “Một sự thiên vị khác có thể gây tổn hại 
đến sự đánh giá của công chúng đối với sự vô 
tư của cơ quan tư pháp là việc tồn tại một thiên 
kiến về phương án giải quyết vụ việc. Thẩm 
phán được trông đợi là sẽ có thái độ cởi mở khi 
tiếp cận giải quyết bất kỳ một vụ việc nào được 
chuyển đến, với nhận thức thường trực về 
nguyên tắc suy đoán vô tội áp dụng cho bị cáo, 
đồng thời với phương châm là chỉ đi đến quyết 
định sau khi đã lắng nghe tất cả các bên, đã 
kiểm tra đánh giá tất cả những tình tiết vụ việc 
và các quy định pháp luật có liên quan. Thái độ 
cởi mở này của thẩm phán là nhân tố tối quan 
trọng trong việc củng cố niềm tin và sự tôn 
trọng của các chính phủ cũng như của cộng 
đồng xã hội đối với tòa án. Nó cho các bên có 
liên quan thấy rằng họ sẽ có một phiên tòa 
công bằng bởi vì tòa án thực sự muốn lắng 
nghe các ý kiến của họ và trong trường hợp 
chúng có cơ sở, chúng sẽ được chấp nhận” 
[30]. 
4.4. Sự vô tư của người tiến hành tố tụng, người 
tham gia tố tụng: Yêu cầu tất yếu của nhà nước 
pháp quyền 
Quan niệm về nguyên tắc vô tư và độc lập 
của quyền lực tư pháp trong mô hình nhà nước 
hiện đại xuất phát từ học thuyết phân chia 
quyền lực mà Montesquieu là người nhiệt thành 
ủng hộ. Trong tác phẩm Tinh thần pháp luật của 
mình năm 1748, Montesquieu đã viết: 
“Sẽ không thể có tự do nếu quyền tư pháp 
không tách rời khỏi quyền lập pháp và quyền 
hành pháp. Nếu quyền tư pháp nhập với quyền 
lập pháp, cuộc sống và tự do của công dân sẽ 
đối mặt với sự kiểm soát bất công. Quan tòa sẽ 
là người đặt ra luật. Nếu quyền tư pháp nhập 
với quyền hành pháp, quan tòa sẽ có thể hành 
động với cả bạo lực và sự đàn áp” [31]. 
Việc bảo đảm một nền tư pháp độc lập, vô 
tư như vậy không những đảm bảo sự phân chia, 
kiểm soát quyền lực giữa quyền tư pháp với 
quyền lập pháp và hành pháp mà còn đảm bảo 
có được một nền tư pháp công minh, không 
phân biệt đối xử, tuân thủ tính thượng tôn của 
pháp luật, bảo vệ được các quyền và tự do 
chính đáng của con người. Những nội dung trên 
đây chính là những yêu cầu cơ bản của một nhà 
nước pháp quyền. 
T.T. Hạnh / Tạp chí Khoa hoc ĐHQGHN, Luật học, Tập 29, Số 1 (2013) 27-41 39 
 Nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của người 
tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng (hay 
sự vô tư của hoạt động tư pháp) đòi hỏi mọi 
thẩm phán và những người có liên quan phải 
hành xử một cách khách quan, đưa ra các quyết 
định của mình dựa trên những sự kiện có thật 
và các quy định pháp luật mà không có bất kỳ 
một định kiến cá nhân, hay một sự thiên vị nào 
về các vấn đề cũng như các bên có liên quan 
trong vụ việc, cũng như không thúc đẩy lợi ích 
của chỉ một hoặc một số bên trong các bên của 
vụ việc [32]. 
Sự vô tư của tư pháp, hay cụ thể hơn là của 
những người tiến hành tố tụng (đặc biệt là thẩm 
phán) và những người tham gia tố tụng là người 
phiên dịch, người giám định không chỉ thể hiện 
ở việc thực tế họ phải không có định kiến, thiên 
kiến hay thiên vị gây lợi hay bất lợi cho bên này 
hay bên kia của vụ việc. Quan trọng không kém 
là trong việc thực hiện chức năng của mình, họ 
phải có những đảm bảo khách quan, có những 
biểu hiện khách quan để chứng tỏ sự vô tư đó, 
loại bỏ tất cả những nghi ngờ có căn cứ về sự 
vô tư của họ. 
Sự vô tư của tư pháp là điều kiện cơ bản, 
tiên quyết để có một quy trình tố tụng công 
minh, chính xác, đúng người đúng tội, đúng 
pháp luật. Hơn nữa, sự vô tư và những biểu 
hiện vô tư của tư pháp cũng là một yếu tố nền 
tảng để tạo dựng, củng cố niềm tin của những 
người tham gia tố tụng là bị can, bị cáo, người 
bị hại, người có quyền và nghĩa vụ có liên 
quan,cũng như của cả cộng đồng xã hội nói 
chung vào hoạt động của hệ thống các cơ quan 
tư pháp nói riêng và của bộ máy công quyền nói 
chung. Đảm bảo sự vô tư của tư pháp chính là 
một yêu cầu quan trọng của quyền của mỗi cá 
nhân có quyền được xét xử một cách công 
bằng. 
Từ những nội dung trên, có thể thấy yêu cầu 
đảm bảo sự vô tư của hoạt động tư pháp, kết 
hợp với những yêu cầu khác, như đảm bảo sự 
độc lập, khách quan của tư pháp là những yêu 
cầu không thể tách rời, mang tính thiết yếu của 
một nhà nước pháp quyền. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Dmitry Bam, Making Appearances Matter: 
Recusal and the Appearance of Bias, Brigham 
Young University Law Review, 2011, p. 951-
953. 
[2] Hai án lệ quan trọng khởi đầu cho việc áp dụng 
nguyên tắc này tại Anh là vụ Sir Nicholas 
Bacon's Case, (1563) 73 Eng. Rep. 487 năm 
1563, và vụ Earl of Derby's Case, (1614) 77 
Eng. Rep. 1390 năm 1614. 
[3] Vụ Dimes v. Proprietors of the Grand Junction 
Canal (1852) 3 HL Casae 759. 
[4] Vụ Metropolitan Properties Co (FGC) Lmt v. 
Lonnon (1969) 1 QB 577. 
[5] Dmitry Bam, Making Appearances Matter: 
Recusal and the Appearance of Bias, Brigham 
Young University Law Review, 2011, p. 951-
953. 
[6] Act of May 8, 1792, ch. 36, § 11, 1 Stat. 278-
79, Luật này được sửa đổi nhiều lần để cuối 
cùng trở thành Mục 20 của Bộ luật tư pháp năm 
1911 (Act of Mar. 3, 1911, ch. 23, § 20, 36 Stat. 
1090.) 
[7] Luật 28 U.S.C.§455, được thông qua năm 1948. 
[8] 28 U.S.C § 47 (1948) 
[9] Quy tắc số 2.11 Bộ quy tắc ứng xử tư pháp 
mẫu, phiên bản 2007. 
[10] Xem vụ Republican Party of Minnesota v. 
White, 536 U.S. 765, 788 (2002). 
[11] Nguyên văn trong tiếng Anh lập luận này của 
Tòa án là: "This quality in a judge demands, not 
that he have no preconceptions on legal issues, 
but that he be willing to consider views that 
oppose his preconceptions, and remain open to 
persuasion, when the issues arise in a pending 
case". Xem thêm: Ofer Raban, Judicial 
Impartiality and the Regulation of Judicial 
Election Campaigns, University of Florida 
Journal of Law & Public Policy, Vol. 15, 2004, 
p. 210-212. 
T.T. Hạnh / Tạp chí Khoa hoc ĐHQGHN, Luật học, Tập 29, Số 1 (2013) 27-41 
40 
[12] Xem thông tin về Tòa án tại:  
coe.int/echr/homepage_en 
[13] Vụ Findlay v. UK 1997 24 EHRR 221, par. 73. 
[14] Communication No 387/1989, Arvo O. 
Karttunen v.Finland (View adopted on 23 
october 1992), in UN doc. GAOR, A/48/40 
(Vol. II), p. 120. Xem thêm bình luận tại: Office 
of the High Commissionner for human rights 
and Internation Bar Association, Professionnal 
training series No 9: Human rights in the 
administration of justice – A manuel human 
rights for Judges, Prosecutors and Lawyers, 
United Nations, 2003, p. 118-119. 
[15] Hiến chương thế giới của thẩm phán (Universal 
Charter of the Judge) được thông qua theo 
nguyên tắc nhất trí tuyệt đối bởi Hội đồng của 
Liên minh thế giới các thẩm phán tại phiên họp 
ở Đài Loan ngày 17/11/1999. 
[16] Hiến chương thế giới của thẩm phán, được 
thông qua theo nguyên tắc nhất trí tuyệt đối bởi 
Hội đồng của Liên minh thế giới các thẩm phán 
tại phiên họp ở Đài Loan ngày 17/11/1999. 
[17] Tại Hội nghị lần thứ 7 của LHQ về phòng 
chống tội phạm délinquant tại Milan ngày 26 
tháng 8 đến ngày 6 tháng 9 1985 đã thông qua 
“Các nguyên tắc nền tảng về sự độc lập của 
thẩm phán”, sau đó đã được thông qua bởi Nghị 
quyết số 40/32 ngày 29/11/1985 và nghị quyết 
40/146 ngày 13/12/1985 
[18] Xem: William Kelly (Thẩm phán tòa án Tối cao 
bang Nova Scotia, Canada), An independent 
judiciary: the core of the rule of law, p.6. Tài 
liệu tại: www.icclr.law.ubc.ca/Publications/... 
/An_Independant_Judiciary.pdf 
[19] Hiến chương thế giới của thẩm phán, được 
thông qua theo nguyên tắc nhất trí tuyệt đối bởi 
Hội đồng của Liên minh thế giới các thẩm phán 
tại phiên họp ở Đài Loan ngày 17/11/1999. 
[20] Khoa Luật, ĐHKHXH&NV, Giáo trình Luật tố 
tụng hình sự Việt Nam, Nxb. ĐHQGHN, Hà 
Nội 1997, tr. 29. 
[21] Communication No 387/1989, Avro O. 
Karttunen V. Finland. Tài liệu UN Doc. GAOR, 
A/48/40 (Vol. 2), tr. 120, đoạn 7.2. 
[22] Trích theo Đào Trí Úc, Những vấn đề lý luận cơ 
bản về Nhà nước và Pháp luật, Nxb. Chính trị 
quốc gia, 1994, tr. 98-99. 
[23] Xem thêm Nguyễn Ngọc Chí (Chủ biên), Giáo 
trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam , Nxb. 
ĐHQGHN, Hà Nội, 2001, tr. 50-73. 
[24] Communication No 263/1987, M. Gonzalez del 
Rio v. Peru (View adopted on 28 october 
1992), in UN doc. GAOR, A/48/40 (Vol. II), p. 
20. Xem bình luận tại: Office of the High 
Commissionner for human rights and 
Internation Bar Association, Professionnal 
training series No 9: Human rights in the 
administration of justice – A manuel human 
rights for Judges, Prosecutors and Lawyers, 
United Nations, 2003, p. 117. 
[25] Vụ việc số IT-95-71/1-A99, Đoạn 43. 
[26] Chẳng hạn xem: Lê Văn Cảm, Hệ thống tư pháp 
hình sự trong giai đoạn xây dựng nhà nước 
pháp quyền, Nxb. ĐHQGHN, Hà Nội, 2009, tr. 
769; Nguyễn Đăng Dung, Vũ Công Giao, Lã 
Khánh Tùng (Đồng chủ biên), Giáo trình lý 
luận và pháp luật về quyền con người, Nxb. 
ĐHQGHN, Hà Nội 2011, tr. 168-173; Nguyễn 
Ngọc Chí, Bảo vệ quyền con người bằng pháp 
luật tố tụng hình sự, Tạp chí Khoa học 
ĐHQGHN, Kinh tế - Luật học, số 23 (2007), tr. 
64-80. 
[27] Hiến chương thế giới của thẩm phán, được 
thông qua theo nguyên tắc nhất trí tuyệt đối bởi 
Hội đồng của Liên minh thế giới các thẩm phán 
tại phiên họp ở Đài Loan ngày 17/11/1999. 
[28] Hiến chương châu Âu về quy chế của thẩm 
phán, được thông qua bởi Hội đồng châu Âu tại 
Strabourg tháng 7 năm 1998. Xem tài liệu: 
DAJ/DOC(98)23. 
[29] Information Resource Center Public Affairs 
Section Embassy of United States, Principles of 
the Rule of Law. Trích theo Nguyễn Đăng 
Dung (Chủ biên), Tòa án Việt Nam trong bối 
cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền, Nxb. 
ĐHQGHN, Hà Nội, 2012, tr. 190. 
[30] Theodor Meron, Judicial Independence and 
Impartiality in International Criminal Tribunals, 
American Journal of International Law, Vol. 99, 
2005, p. 365. 
[31] Tác giả dịch theo bản tiếng Anh, Montesquieu, 
C de S. 1748, De l’esprit de lois, Book XI, 
Chapter 6, Kissinger Publishing. Có thể tham 
khảo bản dịch sang tiếng Việt của tác giả Hoàng 
Thanh Đạm, in Montesquieu, Tinh thần pháp 
luật, Nxb. Giáo dục, Khoa Luật – 
ĐHKHXH&NV, Hà Nội, 1996, tr. 101. 
[32] Xem thêm Office of the High Commissionner 
for human rights and Internation Bar 
Association, Professionnal training series No 9: 
Human rights in the administration of justice – 
A manuel human rights for Judges, Prosecutors 
and Lawyers, United Nations, 2003, p.139. 
T.T. Hạnh / Tạp chí Khoa hoc ĐHQGHN, Luật học, Tập 29, Số 1 (2013) 27-41 41 
An overall study on the principle of guarantee of the 
impartiality of persons conducting or participating in the 
criminal procedure 
Trần Thu Hạnh* 
VNU School of Law, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hanoi, Vietnam 
Abstract: The principle of guarantee of the impartiality of persons conducting or participating in 
the criminal procedure plays an fundamental role in the process to resolving the cases, affects the 
objectiveness and fairness in conducting the procedure, as well as impacts greatly on ensuring human 
rights and justice in the state governed by the rule of law. This article focus on clarifying some basis 
contents : the different views on the principle of guarantee of the impartiality of persons conducting or 
participating in the procedure; its content, position, role; the relationship between this principle and 
related issues. 

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_khai_quat_ve_nguyen_tac_bao_dam_su_vo_tu_cua_nhun.pdf