Nghiên cứu khả năng xử lý khí độc hại bằng hệ quang xúc tác TiO2. Phần II: Xử lý formaldehyde

TÓM TẮT

Tình hình phát thải các khí hữu cơ độc hại ở các khu công nghiệp nước ta hiện nay

đang ngày càng phức tạp, một trong những khí độc hại cần quan tâm là formaldehyde.

Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã thiết kế mô hình thí nghiệm bằng phương pháp quang

xúc tác TiO2/UV, từ đó đánh giá khả năng xử lý hơi formaldehyde của vật liệu xúc tác TiO2

dưới tác dụng của tia UV. Khả năng chuyển hóa HCHO trên hệ liên tục với xúc tác cố định

(continuous fixed bed reactor) cho hiệu suất thấp do hạn chế về yếu tố thời gian lưu của

formaldehyde trên bề mặt xúc tác. Khả năng chuyển hóa formaldehyde trên hệ gián đoạn

với xúc tác cố định (continuous fixed bed reactor) cho hiệu suất rất cao và đạt đến hơn

90% sau 3 giờ xử lý, cho thấy tiềm năng ứng dụng của loại vật liệu này trong tương lai.

Các khảo sát ảnh hưởng của hàm lượng xúc tác, nồng độ chất ô nhiễm, độ ẩm, lưu lượng

dòng khí, lên hiệu suất của quá trình cũng đã được thực hiện trong nghiên cứu này.

pdf 8 trang phuongnguyen 7740
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu khả năng xử lý khí độc hại bằng hệ quang xúc tác TiO2. Phần II: Xử lý formaldehyde", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu khả năng xử lý khí độc hại bằng hệ quang xúc tác TiO2. Phần II: Xử lý formaldehyde

Nghiên cứu khả năng xử lý khí độc hại bằng hệ quang xúc tác TiO2. Phần II: Xử lý formaldehyde
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 25 - Thaùng 12/2014 
28 
NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG XỬ LÝ KHÍ ĐỘC HẠI 
BẰNG HỆ QUANG XÚC TÁC TiO2. 
PHẦN II: XỬ LÝ FORMALDEHYDE 
 PHẠM NGUYỄN KIM TUYẾN(*) 
TÓM TẮT 
Tình hình phát thải các khí hữu cơ độc hại ở các khu công nghiệp nước ta hiện nay 
đang ngày càng phức tạp, một trong những khí độc hại cần quan tâm là formaldehyde. 
Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã thiết kế mô hình thí nghiệm bằng phương pháp quang 
xúc tác TiO2/UV, từ đó đánh giá khả năng xử lý hơi formaldehyde của vật liệu xúc tác TiO2 
dưới tác dụng của tia UV. Khả năng chuyển hóa HCHO trên hệ liên tục với xúc tác cố định 
(continuous fixed bed reactor) cho hiệu suất thấp do hạn chế về yếu tố thời gian lưu của 
formaldehyde trên bề mặt xúc tác. Khả năng chuyển hóa formaldehyde trên hệ gián đoạn 
với xúc tác cố định (continuous fixed bed reactor) cho hiệu suất rất cao và đạt đến hơn 
90% sau 3 giờ xử lý, cho thấy tiềm năng ứng dụng của loại vật liệu này trong tương lai. 
Các khảo sát ảnh hưởng của hàm lượng xúc tác, nồng độ chất ô nhiễm, độ ẩm, lưu lượng 
dòng khí, lên hiệu suất của quá trình cũng đã được thực hiện trong nghiên cứu này. 
Từ khóa: TiO2, formaldehyde, xúc tác quang hóa, hệ liên tục với xúc tác cố định, hệ 
gián đoạn với xúc tác cố định 
ABSTRACT 
The emission of toxic organic vapor pollutants from industrial parks in our country is 
increasingly becoming a complicated issue, one of concerned component is formaldehyde. 
By photocatalytic oxidation system based on lab-scale model, this study aimed to estimate 
ability of formaldehyde vapor treatment by using titanium dioxide in the presence of 
ultraviolet light. The formaldehyde conversion of the continuous fixed bed reactor gave a 
low efficiency due to the limitation of the contact time of formaldehyde on the catalyst 
surface. The formaldehyde conversion of the discontinuous fixed bed reactor obtained a 
very high efficiency, which could reach 90% after 3 hours of treatment that showed the 
very promising application. The study of the influence of catalyst weight, concentration of 
pollution, humidity and air flow rate to the performance of the process have also been 
studied. 
Keywords: TiO2, formaldehyde, Photocatalytic, continuous fixed bed reactor, 
discontinuous fixed bed reactor 
1. PHẦN MỞ ĐẦU (*) 
Formaldehyde là một hóa chất quan 
trọng cho nền kinh tế toàn cầu, được sử 
dụng rộng rãi trong các ngành công nghiệp 
(*)TS, Trường Đại học Sài Gòn 
dệt, nhựa, chất dẻo (chiếm tới một nửa 
tổng số formaldehyde tiêu thụ), giấy, sơn, 
xây dựng, mỹ phẩm, thuốc nhuộm tóc, keo 
dán, thuốc nổ, các sản phẩm làm sạch, 
trong thuốc và sản phẩm nha, giấy than, 
mực máy photocopy, làm chất khử trùng 
29 
trong nông nghiệp và thủy sản [1,2]. Tổ 
chức Y tế thế giới đã đưa formaldehyde 
vào danh sách nhóm các hợp chất có khả 
năng gây ung thư và cấm sử dụng [8-6]. Do 
đó, việc xử lý formaldehyde trong môi 
trường không khí luôn là một nhiệm vụ 
quan trọng trong việc bảo vệ môi trường 
sống. Có nhiều phương pháp xử lý hơi 
fomaldehyde như phương pháp đốt, ngưng 
tụ, hấp thụ và hấp phụ [1,7]. Tuy nhiên, xử 
lý hơi fomaldehyde bằng phương pháp 
quang xúc tác TiO2/UV thu hút được nhiều 
sự quan tâm của các nhà khoa học vì sản 
phẩm của quá trình oxy hóa nâng cao là khí 
CO2 và hơi H2O rất thân thiện với môi 
trường cũng như tính đơn giản, rẻ tiền của 
phương pháp quang xúc tác [4,9]. Trong 
nghiên cứu này, khả năng xử lý hơi HCHO 
bằng hệ quang xúc tác TiO2 được khảo sát 
trên hai mô hình là hệ liên tục và hệ gián 
đoạn với xúc tác cố định. 
2. THỰC NGHIỆM 
2.1. Hóa chất- thiết bị 
Xúc tác titanium dioxide (TiO2) dạng 
bột và dung dịch HCHO 37% sử dụng 
trong quá trình nghiên cứu được mua loại 
PA từ hãng Merck - Đức. 
Dung dịch chuẩn HCHO 1000 mg/L 
được chuẩn bị bằng cách dùng pipet lấy 
chính xác 3 mL dung dịch HCHO 37% cho 
vào bình định mức 1000 mL, định mức 
bằng nước cất. Sau đó, pha loãng 1mL 
dung dịch HCHO 1000 mg/L đến 100 mL 
bằng nước cất thì được dung dịch HCHO 
chuẩn 10 mg/L cho nghiên cứu. 
Impinger thu mẫu khí, cột hút ẩm silica 
gel và máy đo quang Jasco V-650 được sử 
dụng trong quá trình rút mẫu khí HCHO 
đem phân tích để xác định hiệu suất xử lý 
của hệ quang xúc tác TiO2. 
2.2. Thí nghiệm xử lý hơi HCHO trên 
mô hình hệ liên tục 
Tác chất HCHO được đưa liên tục vào 
mô hình còn xúc tác TiO2 ở tầng cố định 
(fixed bed reactor) và cho ra sản phẩm liên 
tục. Mô hình xử lý HCHO bằng hệ quang 
xúc tác TiO2 trên hệ liên tục với xúc tác cố 
định được trình bày ở hình 1. Trong đó: (1) 
Erlen dung dịch HCHO bảo hòa; (2,3) Đèn 
UV; (4) Reactor chứa xúc tác; (5) Erlen 
đựng nước cất để hấp thu HCHO chưa 
chuyển hóa. 
Hình 1. Mô hình xử lý HCHO trên hệ liên tục
 Không khí 
30 
Thí nghiệm tiến hành ở nhiệt độ 
phòng, nồng độ HCHO dao động từ 4,03–
33,9 mg/m
3, vận tốc dòng khí là 
0,4Lít/phút, ống phản ứng chứa 2g TiO2 
được làm bằng thạch anh. Dùng đèn tạo 
UV-A Dulux S blue UVA 9W/78 (công 
suất 9W) để tạo điều kiện bức xạ cho phản 
ứng. Hơi HCHO sau khi đi qua ống phản 
ứng lấy bằng dụng cụ hấp thụ impringer và 
được xác định bằng phương pháp trắc 
quang sử dụng acid choromotropic 
((HO)₂C₁₀H₄(SO3H)₂), từ đó xác định 
được hiệu suất chuyển hóa HCHO. Thí 
nghiệm được thực hiện trong điều kiện 
không chiếu đèn UV và có chiếu đèn UV. 
2.3. Thí nghiệm xử lý hơi HCHO trên 
mô hình hệ gián đoạn 
Tác chất và xúc tác được đưa vào hệ 
thống, tác chất được giữ cố định trong hệ 
để tăng thời gian tiếp xúc cho quá trình xử 
lý. Mô hình xử lý HCHO bằng hệ quang 
xúc tác TiO2 trên hệ gián đoạn với xúc tác 
cố định được trình bày ở hình 2. Trong đó: 
(1) Bơm thổi; (2) Erlen; (3) Đèn UV; (4) 
Mặt phẳng tráng TiO2; (5) Impinger (6); 
Bộ hút ẩm silica gel; (7) Bơm hút. 
Hình 2. Mô hình xử lý HCHO trên hệ gián đoạn 
Thí nghiệm tiến hành ở nhiệt độ 
phòng, nồng độ HCHO dao động từ 4,01 – 
67,5mg/m
3, vận tốc dòng khí là 
0,4Lít/phút, ống phản ứng chứa 2g TiO2 
được làm bằng thạch anh. Dùng đèn tạo 
UV-A Dulux S blue UVA 9W/78 (công 
suất 9W) để tạo điều kiện bức xạ cho phản 
ứng. Sau mỗi giờ lại rút mẫu một lần đem 
đi phân tích, thời gian rút mẫu diễn ra trong 
vòng 15 phút (~ 4,5 Lít khí). Mẫu được lấy 
bằng dụng cụ hấp thụ impinger sau khi qua 
một bộ hút ẩm silica gel và được xác định 
bằng phương pháp trắc quang sử dụng acid 
choromotropic, từ đó xác định được hiệu 
suất chuyển hóa HCHO. Thí nghiệm được 
thực hiện trong điều kiện không chiếu đèn 
UV và có chiếu đèn UV. 
Để so sánh hiệu quả xử lý hơi HCHO 
trong hai mô hình trên, thí nghiệm được 
thực hiện theo kiểu đơn biến, nghĩa là chỉ 
có 1 điều kiện thí nghiệm thay đổi còn các 
điều kiện khác giữ nguyên theo điều kiện 
tối ưu đã làm 1 vòng trước đó. Các yếu tố 
có ảnh hưởng đến hiệu suất xử lý HCHO 
như: có UV; không UV; hàm lượng chất 
xúc tác; lưu lượng khí đầu vào; độ ẩm 
không khí 
(1
) 
(2) 
(3) 
(4) 
(5) 
(6) 
(7) 
31 
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 
3.1. Khả năng xử lý hơi HCHO trên 
mô hình liên tục với xúc tác cố định 
3.1.1. Ảnh hưởng của bức xạ đến khả 
năng chuyển hóa HCHO 
 Để đánh giá ảnh hưởng của bức xạ 
lên độ chuyển hóa HCHO, thí nghiệm được 
thực hiện trong điều kiện không xúc tác, 
với nồng độ HCHO dao động từ 4,03 – 
33,9 mg/m
3, vận tốc dòng khí là 
0,4Lít/phút. Các kết quả thu được trên các 
hệ không xúc tác trong điều kiện: (i) không 
đèn UV và (ii) bức xạ đèn UV được trình 
bày trong bảng 1. 
Bảng 1. Ảnh hưởng của bức xạ lên độ chuyển hóa HCHO trên hệ liên tục 
 Không đèn UV Đèn UV 
Độ giảm nồng độ 
HCHO 
2% 3% 
Kết quả trong bảng 1 cho thấy ảnh 
hưởng của bức xạ đến nồng độ của HCHO 
là rất thấp, thời gian chiếu bức xạ không 
ảnh hưởng đến nồng độ HCHO. Trong điều 
kiện không chiếu đèn UV, nồng độ HCHO 
cũng giảm đi một lượng nhỏ, điều này có 
thể giải thích là do HCHO rất dễ bị oxy 
hóa thành HCOOH khi tiếp xúc với không 
khí. Tuy nhiên lượng giảm do bị oxy hóa 
và do ảnh hưởng của bức xạ đều rất thấp, 
do đó có thể xem như đây là điểm 0 để tính 
hiệu suất của các hệ sau. Như vậy, trong 
những khảo sát tiếp theo trên hệ có xúc tác 
và bức xạ UV thì hiệu suất chuyển hóa 
HCHO chính là do hoạt tính quang xúc tác. 
3.1.2. Ảnh hưởng của khối lượng xúc tác 
Để đánh giá ảnh hưởng của hàm lượng 
chất xúc tác TiO2 đến khả năng chuyển hóa 
HCHO, khối lượng chất xúc tác TiO2 được 
tăng dần từ 2g đến 8g (khối lượng xúc tác 
không tăng cao hơn nữa do khó khăn về trở 
lực). Kết quả phần trăm chuyển hóa HCHO 
trên mô hình liên tục, với lưu lượng khí 
HCHO 0,4 Lít/phút được trình bày trong 
bảng 2. 
Kết quả từ bảng 2 cho thấy hiệu suất 
xử lý HCHO của hệ liên tục khá thấp trong 
điều kiện có chiếu UV và không chiếu UV. 
Với khối lượng xúc tác TiO2 sử dụng là 2g 
thì hiệu suất của hệ thống chỉ đạt 17%. Khi 
tăng dần khối lượng TiO2 lên 8g thì hiệu 
suất xử lý HCHO đạt 19%. Do vậy, khối 
lượng xúc tác chưa phải là nguyên nhân 
dẫn đến hiệu suất xử lý HCHO thấp của hệ 
liên tục nên ta chọn 2g TiO2 cho mô hình 
liên tục. 
Bảng 2. Phần trăm chuyển hóa HCHO trên mô hình liên tục 
Khối lượng TiO2 (g) Không đèn UV Đèn UV 
2 10,4% 17,0% 
4 12,3% 18,5% 
6 13,1% 19,2% 
8 13,7% 19,0% 
 32 
3.1.3. Ảnh hưởng của lưu lượng dòng khí 
Thí nghiệm với 3 mức lưu lượng khí là 
0,1; 0,2 và 0,4 Lít/phút. Ứng với mỗi lần 
giảm của lưu lượng, thời gian tiến hành 
một thí nghiệm được tăng lên tương ứng để 
đảm bảo các kết quả được tương quan với 
nhau một cách tốt nhất. Nồng độ HCHO 
đầu vào dao động trong khoảng 4,03 – 33,9 
mg/m
3. Kết quả khảo sát ảnh hưởng của 
lưu lượng dòng khí HCHO đến khả năng 
chuyển hóa HCHO của hệ liên tục với 2g 
xúc tác TiO2 trong điều kiện (i) không đèn 
UV và (ii) bức xạ đèn UV được trình bày 
trong bảng 3. 
Bảng 3. Phần trăm chuyển hóa HCHO với các lưu lượng khác nhau 
Lưu lượng (L/ph) không đèn UV Đèn UV 
0,1 5% 11% 
0,2 7% 11% 
0,4 8% 15% 
Kết quả ở bảng 3 cho thấy hiệu suất 
chuyển hóa của hệ liên tục không được cải 
thiện khi giảm lưu lượng dòng khí. Hạn 
chế về thời gian lưu đối với quang xúc tác 
TiO2 trên liên tục đã cản trở khả năng xử lý 
HCHO. Do đó, lưu lượng dòng khí thích 
hợp để xử lý HCHO là 0,4L/ph. 
3.2. Khả năng xử lý hơi HCHO trên 
hệ gián đoạn với quy trình lấy mẫu theo 
thời gian 
3.2.1. Ảnh hưởng của bức xạ đến khả 
năng chuyển hóa HCHO 
Tương tự như hệ liên tục, trong hệ gián 
đoạn này các khảo sát hoạt tính của xúc tác 
cũng lấy điểm 0 theo kết quả của hệ không 
xúc tác (i) khi không có sự hiện diện của 
bức xạ và (ii) dưới sự hiện diện của bức xạ 
UV để đánh giá ảnh hưởng riêng của bức 
xạ lên độ chuyển hóa HCHO. Các kết quả 
được trình bày trong bảng 4. 
Bảng 4. Ảnh hưởng của bức xạ đèn UV đối với nồng độ HCHO trên hệ gián đoạn 
 Không đèn UV Đèn UV 
Độ giảm nồng độ 
HCHO 
1% 2% 
 Kết quả trong bảng 4 cho thấy thời 
gian chiếu bức xạ không ảnh hưởng đến 
nồng độ HCHO, do đó coi đây như là điểm 
0 để tính được hiệu suất của các hệ sau. Và 
như vậy trong những khảo sát tiếp theo trên 
hệ có xúc tác và bức xạ UV thì hiệu suất 
chuyển hóa HCHO chính là do hoạt tính 
quang xúc tác của TiO2. 
3.2.2. Khả năng xử lý HCHO của hệ gián 
đoạn khi có xúc tác TiO2 
Thí nghiệm với nồng độ đầu vào 
HCHO trong khoảng 4,01 – 67,5 mg/m3 
(nồng độ được tính từ thực nghiệm) và 2g 
TiO2. Mỗi thí nghiệm được tiến hành trong 
vòng 5 giờ, mỗi giờ tiến hành rút mẫu 1 
lần, thời gian mỗi lần rút mẫu là 15 phút 
(lưu lượng 0,3L/ph). Kết quả xử lý HCHO 
của hệ gián đoạn khi có xúc tác TiO2 được 
thể hiện trong hình 3. 
33 
Hình 3. Khả năng chuyển hóa HCHO trong điều kiện có xúc tác và bức xạ UV 
Từ đồ thị ta thấy trong điều kiện có 
xúc tác và chiếu bức xạ UV hiệu quả xử lý 
của hệ gián đoạn khá cao, hiệu suất xử lý 
này giảm dần khi ta tăng nồng độ HCHO 
đầu vào, nồng độ HCHO 4,01 mg/m3, sau 
5h xử lý hiệu suất đạt gần 100%, khi tăng 
dần nồng độ HCHO tới 67,5 mg/m3 thì 
hiệu suất giảm còn 84,7%. 
3.2.3. Khảo sát ảnh hưởng của khối 
lượng chất xúc tác đến quá trình chuyển 
hóa HCHO 
Thí nghiệm với 3 lượng TiO2 là 2g, 4g 
và 6g, mỗi hàm lượng tiến hành 2 thí 
nghiệm chiếu đèn UV và không chiếu đèn. 
Nồng độ HCHO đầu vào dao động trong 
khoảng 32,7 – 32,9 mg/m3 (nồng độ được 
tính từ thực nghiệm). Kết quả thí nghiệm 
được biểu diễn trong hình 4. 
Hình 4. Ảnh hưởng của hàm lượng xúc tác đến khả năng chuyển hóa HCHO 
Dựa vào đồ thị trên ta thấy, khi tiến 
hành xử lý cùng một giá trị nồng độ HCHO 
với những hàm lượng TiO2 khác nhau thì 
hiệu suất xử lý tăng khi ta tăng lượng TiO2 
từ 2g lên 4g, tuy nhiên khi tăng hàm lượng 
TiO2 lên 6g thì lại không có sự biến đổi 
đáng kể về hiệu suất chuyển hóa HCHO. 
Điều này chứng tỏ hiệu suất xử lý chỉ phụ 
thuộc vào hàm lượng xúc tác ở một giá trị 
giới hạn nào đó, khi vượt qua giới hạn này, 
các hạt xúc tác dư thừa sẽ làm cản trở quá 
trình tiếp nhận ánh sáng của các hạt xúc tác 
khác, làm giảm hiệu quả xử lý của hệ 
thống. Mặt khác, để dễ so sánh hiệu quả xử 
 34 
lý trong hai mô hình liên tục và gián đoạn 
thì lượng xúc tác thích hợp và giống nhau 
là 2g TiO2. 
3.2.4. Khảo sát ảnh hưởng của độ ẩm 
không khí đến quá trình chuyển hóa HCHO 
Thí nghiệm thay đổi độ ẩm không khí 
bằng cách đặt một chén nước nhỏ vào 
trong buồng xử lý. Ở cùng một khoảng 
nồng độ HCHO đầu vào ta khảo sát sự thay 
đổi hiệu suất chuyển hóa khi bổ sung độ 
ẩm. Thí nghiệm được thực hiện trong vòng 
5 giờ, mỗi giờ tiến hành rút mẫu một lần, 
thời gian một lần rút mẫu là 15 phút với 
lưu lượng 0,3 Lít/phút. Nồng độ HCHO 
đầu vào dao động trong khoảng 33,2 – 33,5 
mg/m
3. Kết quả thí nghiệm được thể hiện 
trong hình 5. 
 Hình 5. Ảnh hưởng của độ ẩm đến khả năng chuyển hóa HCHO 
Với hệ phản ứng không cung cấp thêm 
nước, hiệu suất chuyển hóa HCHO theo 
thời gian không khác biệt nhiều so với hệ 
khi thêm nước. Nồng độ HCHO giảm vẫn 
đạt giá trị rất cao do đó có thể kết luận 
bước đầu rằng sự bổ sung hơi nước này là 
không cần thiết, với mô hình cung cấp khí 
HCHO qua phương pháp sục đuổi khí từ 
dung dịch formaldehyde thì lượng hơi 
nước cuốn theo vào trong reactor đã đủ để 
cung cấp độ ẩm cho quá trình phản ứng. 
4. KẾT LUẬN 
Hệ gián đoạn xử lý hơi HCHO cao hơn 
hệ liên tục. Điều này có thể giải thích là (i) 
hệ gián đoạn thì HCHO và xúc tác được 
đưa vào hệ thống và được giữ cố định 
trong hệ để tăng thời gian tiếp xúc cho quá 
trình xử lý; (ii) hệ liên tục do thể tích 
reacter nhỏ, thời gian lưu của dòng khí 
chưa đủ để quá trình chuyển hóa HCHO 
diễn ra tốt nên dẫn đến hiệu suất xử lý 
thấp, cao nhất chỉ đạt 19%. Đây cũng là 
hạn chế chính của hệ liên tục với xúc tác 
cố định. 
Nồng độ HCHO đầu vào trong mô 
hình gián đoạn từ 4,01 – 67,5 mg/m3 và 
trong mô hình liên tục từ 4,03 – 33,9 
mg/m
3
 là giá trị đo được từ thực nghiệm. 
Khoảng nồng độ HCHO xử lý trong mô 
hình gián đoạn rộng hơn trong mô hình liên 
tục là vì trong mô hình gián đoạn hiệu suất 
xử lý HCHO tốt nên thí nghiệm tăng nồng 
độ HCHO lên 67,5 mg/m3 mà hiệu suất xử 
lý vẫn đạt 84,7% trong khi ở mô hình liên 
tục hiệu suất xử lý cao nhất chỉ đạt 19%. 
Độ ẩm cung cấp thêm cho mô hình xử lý 
là không cần thiết vì trong mô hình thí 
nghiệm cung cấp khí HCHO qua phương 
pháp sục đuổi khí từ dung dịch formaldehyde 
thì lượng hơi nước cuốn theo vào trong 
35 
reactor đã đủ để cung cấp độ ẩm cho quá 
trình phản ứng. 
Bằng thực nghiệm đã tìm được mô hình 
xử lý tốt hơi HCHO là hệ gián đoạn với các 
điều kiện thích hợp: nồng độ HCHO đầu 
vào từ 4,01 – 67,5 mg/m3, khối lượng xúc 
tác TiO2 là 2g, lưu lượng khí đầu vào 
0,4L/ph, thời gian xử lý 3 giờ, mỗi giờ rút 
mẫu 1 lần, thời gian mỗi lần rút mẫu là 15 
phút (lưu lượng 0,3L/ph), hiệu suất xử lý 
của hệ đạt khoảng 85%. Nồng độ HCHO 
sau khi qua hệ gián đoạn đều thấp hơn 20 
mg/m
3, đạt QCVN 20:2009/BTNMT (Quy 
chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải công 
nghiệp đối với một số chất hữu cơ). 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. C. Chang and S. Chou, P. Wu (2002), Determination of Formaldehyde in Cosmetics 
by HPLC Method and Acetylacetone Method, Journal of Food and Drug Analysis, 
11(1), 8-15. 
2. J. G. Calvert (1981), Formaldehyde and other aldehydes, National Academy Press, 6. 
3. M. Wang, G. Cheng, S. Balbo (2009), Clear differences in levels of a formaldehyde-
DNA adduct in leukocytes of smokers and nonsmokers, Cancer Research, 69, 7170–
7174. 
4. R.L. Organic Chemical Manufacturing Standifer (1987), Adsorption, Condensation, 
and Absorption Devices, Report 3, Gas Absorption, U. S. Environmental Protection 
Agency. Research Triangle Park, N.C. Publication No. EPA-45013-80-027., 5. 
5. S. M. T. Salthammer, R. Marutzky (2010), Formaldehyde in the Indoor Environment, 
Chemical Review, 110, 2536–2572. 
6. S. Z. Y. Youa, L. Wanb, D. Xua (2011), Preparation of continuous TiO2 fibers by sol–
gel method and its photocatalytic degradation on formaldehyde, Applied Surface 
Science. 
7. T. S. K. Takayanagi, M. Shiraishi, Y. Hisashi (1999), Acute toxicity of formaldehyde 
to the pearl oyster pinctada fucata martensii, Elsevier Science, 1. 
8. T. Vaughan, P. Stewart, K. Teschke, C. Lynch, G Swanson, J. Lyon, and M. Berwick 
(2000), Occupational exposure to formaldehyde and wood dust and nasopharyngeal 
carcinoma, Journal of Occupational and Environmental Medicine, 57, 376–384. 
9. Zhang L, Tang X, Rothman Net al.(2010), Occupational exposure to formaldehyde, 
hepatotoxicity, and leukemia-specific chromosome changes in cultured myeloid 
progenitor cells, Cancer Epidemiol Biomarkers Prev, 19, 80–88. 
*Ngày nhận bài: 12/8/2014. Biên tập xong: 1/12/2014. Duyệt đăng: 6/12/2014 

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_kha_nang_xu_ly_khi_doc_hai_bang_he_quang_xuc_tac.pdf