Nghiên cứu khả năng ra rễ của Sâm nam núi dành (Callerya spp.) bằng phương pháp giâm hom

TÓM TẮT

Nghiên cứu khả năng ra rễ của Sâm nam núi dành (Callerya spp.) bằng phương pháp giâm hom vào vụ Xuân,

với hom thu từ cây mẹ tuổi 4 cho thấy: 1) Sử dụng IBA nồng độ 750 ppm cho tỷ lệ ra rễ đạt 11,11%, số rễ

trung bình trên hom là 0,24 rễ, chiều dài rễ trung bình trên hom là 3,0 cm và chỉ số ra rễ đạt trị số 0,72; 2) Sử

dụng NAA nồng độ 500 ppm cho tỷ lệ hom ra rễ trung bình đạt 11,11%, số rễ trung bình trên hom là 0,20,

chiều dài rễ trung bình trên hom là 1,33 cm và chỉ số ra rễ đạt 0,27; 3) Sử dụng TTG cho giâm hom SNND cho

tỷ lệ hom ra rễ đạt 2,22%, số rễ trung bình trên hom là 0,02, chiều dài rễ trung bình trên hom là 1,50 cm và chỉ

số ra rễ đạt 0,03; Khả năng ra rễ chịu ảnh hưởng rõ rệt của nồng độ hormone, vì vậy trong giâm hom Sâm nam

núi dành cần được thử nghiệm trước với các dải nồng độ khác nhau. Kết quả của nghiên cứu này là cơ sở, tiền

đề cho các nghiên cứu tiếp theo để hoàn thiện việc nhân giống vô tính phục vụ gây trồng và phát triển loài cây

dược liệu có giá trị cao của nước ta.

Từ khóa: Giâm hom, NAA, nhân giống sâm nam, Sâm nam núi dành, TTG, tỷ lệ ra rễ

pdf 10 trang phuongnguyen 840
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu khả năng ra rễ của Sâm nam núi dành (Callerya spp.) bằng phương pháp giâm hom", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu khả năng ra rễ của Sâm nam núi dành (Callerya spp.) bằng phương pháp giâm hom

Nghiên cứu khả năng ra rễ của Sâm nam núi dành (Callerya spp.) bằng phương pháp giâm hom
Công nghệ sinh học & Giống cây trồng 
 29TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 4-2017 
NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG RA RỄ CỦA SÂM NAM NÚI DÀNH 
(CALLERYA SPP.) BẰNG PHƯƠNG PHÁP GIÂM HOM 
Hoàng Vũ Thơ 
Trường Đại học Lâm nghiệp 
TÓM TẮT 
Nghiên cứu khả năng ra rễ của Sâm nam núi dành (Callerya spp.) bằng phương pháp giâm hom vào vụ Xuân, 
với hom thu từ cây mẹ tuổi 4 cho thấy: 1) Sử dụng IBA nồng độ 750 ppm cho tỷ lệ ra rễ đạt 11,11%, số rễ 
trung bình trên hom là 0,24 rễ, chiều dài rễ trung bình trên hom là 3,0 cm và chỉ số ra rễ đạt trị số 0,72; 2) Sử 
dụng NAA nồng độ 500 ppm cho tỷ lệ hom ra rễ trung bình đạt 11,11%, số rễ trung bình trên hom là 0,20, 
chiều dài rễ trung bình trên hom là 1,33 cm và chỉ số ra rễ đạt 0,27; 3) Sử dụng TTG cho giâm hom SNND cho 
tỷ lệ hom ra rễ đạt 2,22%, số rễ trung bình trên hom là 0,02, chiều dài rễ trung bình trên hom là 1,50 cm và chỉ 
số ra rễ đạt 0,03; Khả năng ra rễ chịu ảnh hưởng rõ rệt của nồng độ hormone, vì vậy trong giâm hom Sâm nam 
núi dành cần được thử nghiệm trước với các dải nồng độ khác nhau. Kết quả của nghiên cứu này là cơ sở, tiền 
đề cho các nghiên cứu tiếp theo để hoàn thiện việc nhân giống vô tính phục vụ gây trồng và phát triển loài cây 
dược liệu có giá trị cao của nước ta. 
Từ khóa: Giâm hom, NAA, nhân giống sâm nam, Sâm nam núi dành, TTG, tỷ lệ ra rễ. 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Sâm là tên gọi chung chỉ nhóm các loài cây 
cho củ hoặc rễ sử dụng rất hiệu quả trong các 
bài thuốc y học cổ truyền và hiện đại, có thể 
dùng để bồi bổ cơ thể suy nhược, kém ăn, nâng 
cao thể trạng và tăng cường sức khỏe. Tuy 
nhiên, do sâm có giá trị nên thường bị khai 
thác sử dụng quá mức, dẫn đến nhiều loài, 
giống sâm quý có nguy cơ tuyệt chủng. Do đó 
chọn tìm được các loài hoặc giống sâm quý, để 
nhân giống bằng giâm hom hay nuôi cấy in 
vitro rất có ý nghĩa khoa học và giá trị thực 
tiễn. 
Sâm nam núi dành (Callerya spp.) thuộc Bộ 
đậu (Fabales), Phân họ đậu (Faboiedae), Chi 
thàn mát lưỡng thể (Callerya), là loài cây bản 
địa được biết đến với sản phẩm củ rất có giá trị 
y dược, tương truyền đã chữa lành bệnh mù lòa 
cho mẹ vua Tự Đức triều Nguyễn thời xưa, nên 
còn gọi là Sâm tiến vua. Đây là loài cây dây 
leo thân gỗ, có thể bò lan, lá kép lông chim lẻ, 
3 đến 7 lá chét mọc đối theo chiều dài lá kép, 
hoa mọc thành chùm màu trắng ngà, quả có 
hình dạng quả đậu dẹt, có lông mềm, củ sâm 
có kích thước nhỏ, hình dạng giống củ Sắn 
dây. Sâm nam núi dành có phân bố ở một số 
huyện niềm núi của tỉnh Bắc Giang như Sơn 
Động, Lạng Giang, song tập trung nhiều tại 
vùng núi Dành thuộc 2 xã Việt Lập và Liên 
Chung, huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang. 
Tuy nhiên, sau một thời gian dài Sâm nam 
núi dành tưởng chừng như đã bị tuyệt chủng, 
song may thay hiện nay, loài sâm này vẫn được 
một số ít hộ gia đình tại xã Liên Chung lưu giữ 
và gây trồng trong vườn nhà bằng cây con 
được nhân giống từ những củ sâm nhỏ qua mỗi 
mùa thu hoạch từ 3 đến 5 năm sau khi trồng, số 
lượng cây con rất hạn chế. Việc gây trồng và 
mở rộng phát triển Sâm nam núi dành tại địa 
phương hiện đang gặp nhiều khó khăn, do hạt 
giống đem gieo hầu như không nảy mầm. Các 
thử nghiệm nhân giống bằng phương pháp 
giâm hom chưa thu được kết quả, nhân giống 
bằng nuôi cấy in vitro mới đang trong giai 
đoạn thăm dò, thử nghiệm, chưa có đủ cây con 
cho mục tiêu phát triển. 
Do đó, nghiên cứu khả năng ra rễ của Sâm 
nam núi dành bằng phương pháp giâm hom từ 
các đoạn thân nhằm góp phần cung cấp thông 
tin, cơ sở và cây con cho gây trồng và phát 
triển là hết sức cần thiết, có ý nghĩa khoa học 
và thực tiễn cao. Bài viết này giới thiệu một số 
kết quả nghiên cứu đạt được về nhân giống Sâm 
nam núi dành bằng phương pháp giâm hom. 
Công nghệ sinh học & Giống cây trồng 
 30 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 4-2017 
II. VẬT LIỆU, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
2.1. Vật liệu 
Hom Sâm nam núi dành (SNND) sử dụng 
trong nghiên cứu này được cắt trực tiếp từ các 
đoạn thân của cây mẹ tuổi 4, trồng trong vườn 
của gia đình ông Dương Đức Viên, thôn Lãn 
Tranh I, xã Liên Chung, huyện Tân Yên, tỉnh 
Bắc Giang. Quá trình vận chuyển cành hom 
được bảo quản trong điều kiện tránh nắng và 
giữ mát. Các hom sau khi xử lý được tiến 
hành giâm kịp thời trong những ngày đầu 
Xuân năm 2017 tại vườn ươm của Trường Đại 
học Lâm nghiệp. 
2.2. Phương pháp nghiên cứu 
Các hormone được sử dụng là IBA, NAA 
với các nồng độ khác nhau và TTG (nồng độ 
1% IBA dạng bột, có bán sẵn trên thị trường) 
để thử nghiệm chủng loại và nồng độ thích hợp 
kích thích ra rễ trong quá trình giâm hom Sâm 
nam núi dành. Các hormone được sử dụng 
trong nghiên cứu này với các nồng độ khác 
nhau từ 250 đến 1000 ppm, xử lý bằng 
phương pháp nhúng nhanh đối với chất kích 
thích ra rễ dạng dung dịch và chấm phần gốc 
hom (chất kích thích ra rễ dạng bột) cho tổng 
số 10 công thức: 
CT1, CT2, CT3 và CT4 sử dụng IBA với 
nồng độ tương ứng: 250, 500, 750 và 1000 
ppm; CT5, CT6, CT7 và CT8 sử dụng NAA 
với nồng độ tương ứng: 250, 500, 750 và 
1000 ppm; CT9 sử dụng thuốc kích thích 
dạng bột, ký hiệu TTG (IBA nồng độ 1%) và 
CT10 là công thức đối chứng ĐC (không sử 
dụng thuốc). 
Các nghiệm thức và đối chứng được bố trí 
theo khối ngẫu nhiên đầy đủ, 3 lần lặp, số 
mẫu cho mỗi nghiệm thức và đối chứng là 90 
hom. Sau khi cấy hom được che nắng và giữ 
ẩm thường xuyên theo quy trình kỹ thuật 
thông thường. 
Các hom sử dụng trong thí nghiệm được lấy 
từ những đoạn thân, có chứa đốt, dài 8 - 12cm, 
với 1 - 2 lá kép đã cắt một phần phiến lá chét. 
Để ngừa mầm bệnh trong quá trình giâm hom, 
giá thể và hom giâm được khử trùng bằng 
thuốc Benlate theo phương pháp thông thường. 
Tỷ lệ ra rễ được tính theo công thức (1); Số 
lượng rễ trung bình trên mỗi hom và chiều dài 
trung bình rễ dài nhất trên mỗi hom được tính 
theo công thức (2); 
Hệ số biến động được tính theo công thức 
(3); Kiểm tra thống kê ảnh hưởng của nồng độ 
IBA,NAA đến tỷ lệ ra rễ theo tiêu chuẩn cn
2 
và được tính theo công thức (4); 
Tỷ lệ ra rễ = 
ố   ễ
ổ ố 
 × 100% (1) 

n
i
iX
n
X
1
1
 (2) 
V% 100x
X
S
(3) 
cn
2 = 

f
ff
l
lt
2
(4) 
Số lượng rễ là đại lượng không liên tục, 
dùng tiêu chuẩn U của phân bố chuẩn tiêu 
chuẩn để kiểm tra tổng thể hai số trung bình 
mẫu, tìm công thức có ảnh hưởng lớn nhất theo 
công thức (5) nếu giữa hai nghiệm thức có sự 
sai khác rõ rệt. 
Chiều dài rễ là đại lượng liên tục, dùng 
phương pháp phân tích phương sai 2 nhân tố 
để kiểm tra so sánh giữa hai công thức có số 
trung bình mẫu lớn nhất để tìm nghiệm thức tốt 
hơn theo tiêu chuẩn t của Student theo công 
thức (6) và (7) nếu giữa các công thức thí 
nghiệm có sự sai khác rõ rệt. 
S
XX
U
n
n
s
n
s
2
2
2
1
2
1 
 (5) 
s
t
n
nn
XX ji
21
11
 (6) 
 Trong đó, 
an
V nsn 
(7) 
Chỉ số ra rễ một chỉ tiêu tổng hợp phản ánh 
Công nghệ sinh học & Giống cây trồng 
 31TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 4-2017 
chất lượng bộ rễ của cây hom, và được tính 
bằng tích số giữa số rễ trung bình/hom và 
chiều dài rễ trung bình/hom theo công thức (8): 
Chỉ số ra rễ = Số rễ 
TB
hom× chiều dài rễ (
TB
hom
)
Số liệu thu thập được xử lý riêng từng 
nghiệm thức theo phương pháp thống kê dùng 
trong lâm nghiệp trên phần mềm ứng dụng 
Excel 5.0 và SPSS. 
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, THẢO LUẬN 
3.1. Ảnh hưởng của chủng loại hormone đến 
khả năng ra rễ của hom SNND 
Trong nghiên cứu này, các loại hormone 
được sử dụng (IBA và NAA) có cùng nồng độ 
như nhau, riêng TTG sử dụng như là đối chứng 
so sánh. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của 
loại hormone đến khả năng ra rễ trong quá 
trình giâm hom Sâm nam núi dành được tổng 
hợp trong bảng 3.1. 
Bảng 3.1. Ảnh hưởng của loại hormone đến tỷ lệ ra rễ của hom SNND 
CTTN 
Số mẫu 
TN 
Tỷ lệ ra rễ (%) 
Số rễ TB 
/hom (cái) 
Dài rễ TB/ hom 
(cm) 
Chỉ số 
ra rễ 
Ghi 
chú 
IBA 360 3,89 0,11 0,80 0,19 
NAA 360 4,44 0,07 1,86 0,11 
TTG 90 2,22 0,02 1,50 0,03 
ĐC 90 0 0 0 0 
 c
 = 10,87 
Số liệu bảng 3.1 và hình 3.1 cho thấy, sử 
dụng các hormone khác nhau trong giâm hom 
SNND cho kết quả rất khác nhau, trong đó sử 
dụng NAA cho kết quả với tỷ lệ hom ra rễ và 
chiều dài rễ trung bình/hom đạt trị số lần lượt 
là 4,44% và 1,86 cm, vượt so với sử dụng IBA 
và TTG là 1,14 và 2,0 lần; và 2,33 và 1,24 lần 
tương ứng về cùng chỉ tiêu so sánh. 
Tuy nhiên, chỉ số ra rễ khi sử dụng NAA 
đạt trị số là 0,11, thấp hơn so với sử dụng IBA 
(0,19) song vẫn cao hơn so với sử dụng TTG 
(0,03) trong cùng thời gian và cùng chỉ tiêu so 
sánh (hình 3.1). Như vậy, mặc dù sử dụng 
NAA cho tỷ lệ hom ra rễ cao hơn đôi chút so 
với sử dụng IBA, nhưng số lượng rễ trung 
bình/hom và chiều dài rễ trung bình/hom khi 
sử dụng IBA lại vượt trội hơn so với sử dụng 
NAA. Nói cách khác, các hom sử dụng IBA 
cho chất lượng bộ rễ tốt hơn, đồng nghĩa với 
cây hom có khả năng sống sót cao, sinh trưởng 
và phát triển thuận lợi hơn cây hom sử dụng 
NAA về cùng chỉ tiêu so sánh, trong cùng thời 
gian và điều kiện. 
Kết quả kiểm tra thống kê bằng tiêu chuẩn 
 cho thấy, (10,87) > (5,99; k = 
2), điều đó khẳng định sử dụng các hormone 
khác nhau có ảnh hưởng rõ rệt đến tỷ lệ hom ra 
rễ trong quá trình giâm hom SNND, trong đó 
IBA có ảnh hưởng rõ rệt hơn. 
Ngoài ra, số liệu và đường biểu diễn trên 
biểu đồ hình 3.1 cũng cho thấy, tỷ lệ ra rễ 
trong quá trình giâm hom SNND tăng dần từ 
TTG, IBA đến NAA, trong khi chỉ số ra rễ lại 
có xu hướng giảm dần theo sử dụng IBA đến 
NAA, TTG đến đối chứng (ĐC). 
Điều đáng chú ý trong nghiên cứu này, 
giâm hom SNND không sử dụng hormone 
(ĐC) không thu được kết quả. Nói cách khác, 
có thể đây là đối tượng thực vật rất khó nhân 
giống bằng giâm hom, ngoại trừ sử dụng hom 
giâm ở dạng rễ, hay củ nhỏ. Tất nhiên đây mới 
chỉ là kết quả bước đầu, rất cần có các nghiên 
cứu chuyên sâu hơn để có thể thu được kết quả 
chính xác hơn. 
c n
2 c n
2 2
)(05 kc
(8) 
Công nghệ sinh học & Giống cây trồng 
 32 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 4-2017 
Hình 3.1. Tỷ lệ ra rễ (trái) và chỉ số ra rễ (phải) của hom ở các công thức thí nghiệm 
3.2. Ảnh hưởng của loại hormone và nồng 
độ đến khả năng ra rễ 
Những thông tin, đặc điểm và kỹ thuật nhân 
giống đối với loài Sâm nam núi dành còn rất ít 
được biết đến. Việc lưu trồng chủ yếu bằng củ 
con với mục đích giữ giống trong một vài hộ 
gia đình tại xã Liên Chung, huyện Tân Yên, 
tỉnh Bắc Giang. 
Hơn nữa, lần đầu nghiên cứu nhân giống 
SNND bằng phương pháp giâm hom, nên việc 
dò tìm loại hormone và nồng độ thích hợp đi 
kèm là quan trọng, giúp nâng cao tỷ lệ hom ra 
rễ, chất lượng bộ rễ và tạo được cây hom hoàn 
chỉnh cho ra ngôi. 
Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của loại 
hormone và nồng độ của chúng đến khả năng 
ra rễ trong quá trình giâm hom Sâm nam núi 
dành được tổng hợp trong bảng 3.2. 
Số liệu bảng 3.2 cho thấy, cùng một loại 
hormone nhưng sử dụng nồng độ khác nhau 
cho kết quả giâm hom với tỷ lệ hom ra rễ, số rễ 
trung bình/hom, chiều dài rễ trung bình/hom và 
chỉ số ra rễ rất khác nhau. Theo đó, trong tổng 
số 9 công thức sử dụng hormone chỉ có 6/9 
công thức thu được kết quả, số còn lại đều 
không ra rễ. 
Bảng 3.2. Kết quả giâm hom SNND với loại hormone và nồng độ khác nhau 
CTTN 
Số mẫu 
TN 
Tỷ lệ ra rễ Số rễ TB/hom 
Dài rễ 
TB/hom 
Chỉ số ra rễ 
Ghi 
chú 
CT1 90 0 0 0 0 
CT2 90 0 0 0 0 
CT3 90 11,11 0,24 3,00 0,72 
CT4 90 4,44 0,18 0,20 0,04 
 c
 = 19,92  = 3,75  = 6,12 
CT5 90 4,44 0,04 3,00 0,12 
CT6 90 11,11 0,20 1,33 0,27 
CT7 90 0 0 0 0 
CT8 90 2,22 0,02 3,10 0,06 
CT9 90 2,22 0,02 1,50 0,03 
ĐC 90 0 0 0 0 
 c
 = 14,65  = 6,95  = 1,66 
0
2,22
3,89
4,44
-0,50
0,00
0,50
1,00
1,50
2,00
2,50
3,00
3,50
4,00
4,50
5,00
ĐC TTG IBA NAA
Tỷ lệ ra rễ (%)
0,19
0,11
0,03
0
-0,05
0,00
0,05
0,10
0,15
0,20
0,25
IBA NAA TTG ĐC
Chỉ số ra rễ
Công nghệ sinh học & Giống cây trồng 
 33TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 4-2017 
Như vậy, sử dụng IBA và NAA nồng độ 
không thích hợp, sẽ không thu được kết quả 
cho thấy, SNND là đối tượng thực vật rất khó 
để có thể nhân giống thành công bằng giâm 
hom. Đây là lý do giải thích vì sao mà nhiều hộ 
gia đình (đang lưu trồng và giữ giống SNND) 
muốn tạo cây con bằng giâm hom từ các đoạn 
thân thay cho các củ sâm nhỏ, tốn nhiều thời 
gian và nỗ lực song vẫn chưa mang lại kết quả 
thành công. 
Do đó, mặc dù kết quả nghiên cứu với trị số 
về tỷ lệ hom ra rễ chưa cao, song lại có ý nghĩa 
thực tiễn lớn, tạo cơ sở và tiền đề quan trọng 
cho các nghiên cứu nhân giống tiếp theo đạt 
kết quả, nhất là với đối tượng thực vật khó 
nhân giống thành công như Sâm nam núi dành. 
3.2.1. Ảnh hưởng của nồng độ IBA đến khả 
năng ra rễ trong giâm hom SNND 
Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của nồng độ 
IBA đến khả năng ra rễ trong quá trình giâm 
hom SNND được tổng hợp trong hình 3.2. 
Số liệu trên biểu đồ hình 3.2 cho thấy, sử 
dụng IBA nồng độ 750 ppm (CT3) cho tỷ lệ 
hom ra rễ đạt trị số cao nhất (11,11%), trong 
khi các công thức CT4, CT1 và CT2 có nồng 
độ cao (1000 ppm) và các nồng độ thấp hơn 
(250 và 500 ppm) tương ứng, đều không thu 
được kết quả trong cùng điều kiện và chỉ tiêu 
so sánh. 
Rõ ràng cùng một loại hormone (IBA) 
nhưng nếu sử dụng nồng độ thích hợp, chẳng 
hạn như công thức CT3 (750 pm) sẽ xúc tiến 
hom SNND ra rễ tốt hơn, trong khi sử dụng 
nồng độ không thích hợp (cao hay thấp) thì 
ngược lại, các hom chỉ xuất hiện mô sẹo 
(hình 3.3). 
Kết quả kiểm tra thống kê bằng tiêu chuẩn 
 cho thấy, (19,92) > (7,81). Điều 
đó khẳng định sử dụng IBA nồng độ 750ppm 
có ảnh hưởng rõ rệt hơn trong quá trình giâm 
hom Sâm nam núi dành. 
Hình 3.2. Tỷ lệ ra rễ (trái) và chỉ số ra rễ (phải) ở các công thức nồng độ IBA 
Ảnh chụp các công thức sử dụng IBA trong 
giâm hom SNND trên hình 3.3 cho thấy, tiền 
đề sử dụng nồng độ thấp (250 ppm) như CT1 
các hom chỉ xuất hiện mô sẹo, tăng nồng độ 
IBA lên gấp đôi (500 ppm) như CT2 các hom 
vẫn chỉ ra mô sẹo, tăng tiếp lên gấp 3 (750 
ppm) hom ra rễ với chất lượng bộ rễ rất tốt. 
Tuy nhiên, tăng tiếp nồng độ IBA lên (1000 
ppm), gấp 4 lần nồng độ khởi đầu, kết quả là 
các hom ra rễ với số lượng nhỏ bé, số lượng rễ 
trung bình/hom và chiều dài rễ trung bình/hom 
cũng không được cải thiện. 
Để làm rõ những gì đã phân tích trên, đề tài 
đã tổng hợp kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của 
nồng độ IBA đến số lượng rễ trung bình/hom 
và chiều dài rễ trung bình/hom trong hình 3.4. 
c n
2 c n
2 2
)(05 kc
0 0
11,11
4,44
0,00
2,00
4,00
6,00
8,00
10,00
12,00
250ppm 500ppm 750ppm 1000ppm
IBA
Tỷ lệ ra rễ (%)
0 0
0,72
0,04
0,00
0,10
0,20
0,30
0,40
0,50
0,60
0,70
0,80
250ppm 500ppm 750ppm 1000ppm
IBA
Chỉ số ra rễ (%)
Công nghệ sinh học & Giống cây trồng 
 34 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 4-2017 
Hình 3.3. Khả năng ra rễ của hom SNND ở các nồng độ IBA khác nhau 
Hình 3.4. Số rễ TB/hom (trái) và chiều dài rễ TB/hom (phải) ở các nồng độ IBA khác nhau 
Số liệu trên biểu đồ hình 3.4 cho thấy, sử 
dụng IBA nồng độ khác nhau cho kết quả với 
số lượng rễ trung bình/hom và chiều dài rễ 
trung bình/hom là khác nhau, trong đó nồng độ 
750 ppm đạt trị số cao nhất về cả hai chỉ tiêu 
so sánh. 
Ngoài ra, kết quả kiểm tra thống kê ảnh 
hưởng của nồng độ IBA đến số rễ trung 
bình/hom cho thấy, Ftính (= 3,75) > Ftra bảng (= 
3,47). Rõ ràng nồng độ IBA có ảnh hưởng rõ 
rệt tới số lượng rễ trung bình/hom. 
Mặc khác, kiểm tra thống kê ảnh hưởng của 
nồng độ IBA đến chỉ số ra rễ của hom giâm 
cho thấy, Ftính (= 6,12) > Ftra bảng (= 3,47). Như 
vậy, nồng độ IBA có ảnh hưởng rõ rệt đến chỉ 
số ra rễ - một chỉ tiêu tổng hợp phản ánh chất 
lượng bộ rễ của hom giâm trong quá trình thí 
nghiệm giâm hom SNND. 
Như vậy, kết quả giâm hom này rất khác so 
với giâm hom đối với nhiều đối tượng cây thân 
gỗ khác, theo đó ở nồng độ thấp hay cao 
thường có thể thu được một tỷ lệ hom ra rễ 
nhất định. Song trong nghiên cứu giâm hom 
với SNND, nếu lựa chọn nồng độ IBA không 
thích hợp, hom hoàn toàn không ra rễ. 
Rõ ràng, sử dụng IBA nồng độ thích hợp 
không những thu được tỷ lệ hom ra rễ khá, mà 
còn cho chất lượng bộ rễ tốt hơn, đồng nghĩa 
0 0
0,24
0,18
0,00
0,05
0,10
0,15
0,20
0,25
0,30
250ppm 500ppm 750ppm 1000ppm
IBA
Số rễ/hom
0 0
3,00
0,20
0,00
0,50
1,00
1,50
2,00
2,50
3,00
3,50
250ppm 500ppm 750ppm 1000ppm IBA
Dài rễ (cm)
Công nghệ sinh học & Giống cây trồng 
 35TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 4-2017 
cây hom có khả năng sống và sinh trưởng 
thuận lợi hơn so với sử dụng IBA ở các nồng 
độ khác trong cùng điều kiện và thời gian 
(hình 3.3). 
Ngoài ra, sử dụng IBA nồng độ thích hợp 
thu được cây hom đạt chất lượng tốt hơn cả 
hom giâm sử dụng loại TTG dạng bột như 
hình 3.5. 
Hình 3.5. Hom sử dụng TTG (trái) và sử dụng IBA nồng độ 750 ppm (phải) 
3.2.2. Ảnh hưởng của nồng độ NAA đến khả 
năng ra rễ trong giâm hom SNND 
Tương tự như trên, kết quả nghiên cứu ảnh 
hưởng của nồng độ NAA đến khả năng ra rễ 
trong quá trình giâm hom SNND được tổng 
hợp trong hình 3.6. 
Hình 3.6. Tỷ lệ ra rễ (trái) và chỉ số ra rễ (phải) ở các nồng độ NAA khác nhau 
Số liệu trên biểu đồ hình 3.6 cho thấy, sử 
dụng NAA nồng độ 250 ppm cho tỷ lệ hom ra 
rễ đạt 4,44%, tăng nồng độ lên 500 ppm tỷ lệ 
hom ra rễ tăng gấp 2,5 lần, tăng tiếp nồng độ 
gấp 3 lần (750 ppm) so với nồng độ khởi điểm, 
hom giâm không ra rễ, tiếp tục tăng nồng độ lên 
gấp 4 lần (1000 ppm) như công thức CT8, kết 
quả thu được tỷ lệ hom ra rễ rất thấp (0,06%). 
4,44
11,11
0
2,22
0,00
2,00
4,00
6,00
8,00
10,00
12,00
250ppm 500ppm 750ppm 1000ppm
NAA
Tỷ lệ ra rễ (%)
0,12
0,27
0
0,06
0
0,05
0,1
0,15
0,2
0,25
0,3
250ppm 500ppm 750ppm 1000ppm
NAA
Chỉ số ra rễ
Công nghệ sinh học & Giống cây trồng 
 36 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 4-2017 
Như vậy, khác với sử dụng IBA ở nồng độ 
750 ppm kích thích hom ra rễ với trị số cao 
(11,11%), ngược lại sử dụng NAA cùng nồng 
độ nêu trên lại không đem lại kết quả mong 
muốn. Rõ ràng để đạt được kết quả trong giâm 
hom SNND với các loại hormone khác nhau, 
cần lựa chọn nồng độ thích hợp đi kèm, nếu 
muốn thu được kết quả. 
Kết quả kiểm tra thống kê bằng tiêu chuẩn 
 cho thấy, (14,65) > (7,81). Rõ 
ràng sử dụng nồng độ NAA khác nhau có ảnh 
hưởng rõ rệt đến tỷ lệ hom ra rễ, trong đó nồng 
độ 500 ppm có ảnh hưởng rõ rệt hơn trong quá 
trình giâm hom SNND. 
Vấn đề đặt ra là nồng độ NAA ảnh hưởng 
đến tỷ lệ hom ra rễ, liệu chúng có ảnh hưởng 
đến số lượng rễ/hom hay không? Để trả lời câu 
hỏi này, đề tài đã tổng hợp kết quả nghiên cứu 
ảnh hưởng của nồng độ NAA đến số lượng rễ 
trung bình/hom và chiều dài rễ trung bình/hom 
trong hình 3.7. 
Hình 3.7. Số rễ TB/hom (trái) và chiều dài rễ TB/hom (phải) ở các nồng độ NAA khác nhau 
Số liệu trên biểu đồ hình 3.7 cho thấy, sử 
dụng NAA với nồng độ ban đầu là 250 ppm 
(CT5) cho số rễ trung bình/hom là 0,04 
rễ/hom, tăng nồng độ NAA lên 500 ppm (CT6) 
số rễ trung bình/hom là 0,2 rễ/hom, tăng nồng 
độ lên 750 ppm (CT7), các hom giâm không ra 
rễ, tiếp tục tăng nồng độ lên 1000 ppm (CT8), 
trị số trung bình chi đạt 0,02 rễ/hom. 
Rõ ràng, không phải cứ tăng nồng độ lên 
cao sẽ thu được kết quả tương ứng về cùng chỉ 
tiêu so sánh, nghĩa là nồng độ hormone sử 
dụng cần đặc biệt chú ý, mà IBA và NAA sử 
dụng trong nhân giống SNND như là một ví dụ 
minh họa cho những gì đã phân tích ở trên. 
Kết quả kiểm tra thống kê ảnh hưởng của 
nồng độ NAA đến số rễ trung bình/hom cho 
thấy, Ftính (= 6,95) > Ftra bảng (= 3,47). Rõ ràng 
nồng độ NAA có ảnh hưởng rõ rệt tới số lượng 
rễ trung bình/hom. 
Tuy nhiên, kết quả kiểm tra thống kê ảnh 
hưởng của nồng độ NAA đến chỉ số ra rễ của 
hom giâm cho thấy, Ftính(= 1,66) < Ftra bảng(= 
3,47). Như vậy, sử dụng NAA với các nồng độ 
khác nhau có ảnh hưởng chưa rõ rệt đến chỉ số 
ra rễ. Do đó, trong nhân giống SNND cần có 
các nghiên cứu tiếp theo với dung lượng mẫu 
lớn hơn, sử dụng NAA với dải nồng độ hẹp 
hơn để đạt được kết quả chính xác hơn. 
c n
2 c n
2 2
)(05 kc
0,04
0,2
0
0,02
0,00
0,05
0,10
0,15
0,20
0,25
250ppm 500ppm 750ppm 1000ppm
NAA
Số rễ (cái)
3,00
1,33
0
3,10
0,00
0,50
1,00
1,50
2,00
2,50
3,00
3,50
250ppm 500ppm 750ppm 1000ppm
NAA
Dài rễ (cm)
Công nghệ sinh học & Giống cây trồng 
 37TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 4-2017 
Hình 3.8. Khả năng ra rễ của hom SNND ở các nồng độ NAA khác nhau 
Ảnh chụp kết quả giâm hom với các công 
thức sử dụng NAA tại hình 3.8 minh chứng 
cho các phân tích ở trên. Tuy nhiên, đây mới 
chỉ là kết quả bước đầu, song rất quan trọng, 
tạo cơ sở và tiền đề cho các nghiên cứu tiếp 
theo thu được kết quả chính xác hơn. Trong lúc 
chưa có công trình nghiên cứu giâm hom nào 
cho đối tượng SNND công bố trên các ấn 
phẩm khoa học, thì kết quả nghiên cứu này có 
thể vận dụng trong điều kiện thích hợp nhằm 
thu được số lượng cây con vô tính cho gây 
trồng và phát triển. 
IV. KẾT LUẬN 
Từ kết quả thu được cho phép sơ bộ rút ra 
một số kết luận sau: 
- Giâm hom SNND vào vụ Xuân, hom thu 
từ đoạn thân của cây mẹ tuổi 4, sử dụng IBA 
cho kết quả tỷ lệ hom ra rễ, chất lượng bộ rễ 
tốt hơn các hormone khác đã sử dụng trong 
cùng điều kiện và thời gian. 
- Sử dụng IBA nồng độ 750 ppm trong nhân 
giống SNND cho tỷ lệ hom ra rễ đạt trị số 
11,11%, số rễ trung bình /hom là 0,24 rễ, chiều 
dài rễ trung bình/hom là 3,0 cm và chỉ số ra rễ 
đạt trị số 0,72; 
- Tỷ lệ hom SNND ra rễ cao nhất mới đạt 
11,11%, tuy nhiên đối với đối tượng rất khó 
nhân giống này thì đây là kết quả bước đầu cho 
thấy khả năng thành công nếu được tiếp tục 
nghiên cứu mở rộng về loại hormone và dải 
nồng độ khác nhau. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Nguyễn Thị Minh Hiền (2015). Nghiên cứu quy 
trình nhân giống In vitro cây Sâm nam núi dành. Luận 
văn Thạc sĩ Khoa học Nông nghiệp, Học viện Nông 
nghiệp Việt Nam. 
2. Hoàng Vũ Thơ (2015). Nghiên cứu nhân giống 
Đinh đũa (Stereopermum colais (Dillw) Mabber) bằng 
phương pháp giâm hom. Tạp chí Khoa học và Công 
nghệ Lâm nghiệp, số 2, tr. 10-19. 
3. Phạm Đức Tuấn, Hoàng Vũ Thơ (2008). Nghiên 
cứu khả năng ra rễ của Tràm cajuputi (Melaleuce 
cajuputi Powell) bằng phương pháp giâm hom. Tạp chí 
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, số 6, tr. 82-86. 
Công nghệ sinh học & Giống cây trồng 
 38 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 4-2017 
RESEARCH ON CUTTING PROPAGATION OF CALLERYA SPP. 
 Hoang Vu Tho 
Vietnam National University of Forestry 
SUMMARY 
Cutting propagation of Callerya spp from the 4 year old mother plant showed that, using IBA results in the rate 
of root cuttings and root quantity was better than other hormones used in the same condition and time. Using 
IBA concentration 750ppm for rooting rate reached 11.11%; the average number of roots per cut was 0.24 
roots; the average of root length on cuttings was 3.0cm and the rooting index was 0.72; Using NAA at a 
concentration of 500ppm, the average of rooting rate was 11.11%; the average number of roots per cut was 
0.20, the average of root length per cut was 1.33cm, and the rooting index was 0.27; Using TTG (powder 1% 
IBA) , the average of rooting rate was 2.22%; the average number of roots per cut was 0.02; the average of root 
length per cut was 1.50 cm and the rooting index was 0.03; Rooting ability is strongly influenced by the 
concentration of hormones, so the Callerya spp.’s cutting needs to be tested first with different concentrations. 
The results of this study created the base and the premise for the next studies to achieved the success and 
contributed to creating cloning of newly plant for planting and development. 
Keywords: Cutting propagation of Callerya spp., Ginseng propagation, IBA, NAA, Rooting rate, TTG. 
Ngày nhận bài : 13/6/2017 
Ngày phản biện : 19/6/2017 
Ngày quyết định đăng : 03/7/2017 

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_kha_nang_ra_re_cua_sam_nam_nui_danh_callerya_spp.pdf