Nghiên cứu kết quả cho ăn sớm sau mổ trên bệnh nhân phẫu thuật nội soi điều trị viêm phúc mạc ruột thừa
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hồi phục sớm sau phẫu thuật (HPSSPT) là một chương trình chăm sóc bệnh nhân toàn
diện gồm nhiều giai đoạn, bắt đầu từ trước mổ cho đến sau khi bệnh nhân ra viện; nhằm
giảm thiểu các sang chấn trước, trong và sau mổ, nhờ đó thúc đẩy quá trình hồi phục của
bệnh nhân và giảm thời gian nằm viện. Nhịn ăn sau phẫu thuật làm tăng tình trạng dị hóa
protein, glucose và lipid; cùng với khoảng thời gian dài nhịn ăn trước phẫu thuật càng làm
nặng thêm tình trạng suy dinh dưỡng của bệnh nhân. Chương trình HPSSPT gần như trở
thành phương pháp thực hành tiêu chuẩn tại nhiều nước trên thế giới và được thực hiện
trong hầu hết các phẫu thuật ngoại khoa trong đó có PTNS điều trị viêm phúc mạc ruột
thừa.
Tại Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang chưa có nghiên cứu dinh dưỡng cho
ăn sớm đối với bệnh nhân phẫu thuật nội soi ( PTNS) điều trị viêm phúc mạc ruột thừa,
do đó chúng tôi nghiên cứu đề tài này với mục tiêu tổng quát là: đánh giá kết quả cho ăn
sớm sau mổ trên bệnh phẫu thuật nội soi điều trị viêm phúc mạc ruột thừa.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu kết quả cho ăn sớm sau mổ trên bệnh nhân phẫu thuật nội soi điều trị viêm phúc mạc ruột thừa
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2019 Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 80 NGHIÊN CỨU KẾT QUẢ CHO ĂN SỚM SAU MỔ TRÊN BỆNH NHÂN PHẪU THUẬT NỘI SOI ĐIỀU TRỊ VIÊM PHÚC MẠC RUỘT THỪA Trần Phước Hồng, Nguyễn Thanh Long Lê Thúy Oanh, Nguyễn Tiến Trung I. ĐẶT VẤN ĐỀ Hồi phục sớm sau phẫu thuật (HPSSPT) là một chương trình chăm sóc bệnh nhân toàn diện gồm nhiều giai đoạn, bắt đầu từ trước mổ cho đến sau khi bệnh nhân ra viện; nhằm giảm thiểu các sang chấn trước, trong và sau mổ, nhờ đó thúc đẩy quá trình hồi phục của bệnh nhân và giảm thời gian nằm viện. Nhịn ăn sau phẫu thuật làm tăng tình trạng dị hóa protein, glucose và lipid; cùng với khoảng thời gian dài nhịn ăn trước phẫu thuật càng làm nặng thêm tình trạng suy dinh dưỡng của bệnh nhân. Chương trình HPSSPT gần như trở thành phương pháp thực hành tiêu chuẩn tại nhiều nước trên thế giới và được thực hiện trong hầu hết các phẫu thuật ngoại khoa trong đó có PTNS điều trị viêm phúc mạc ruột thừa. Tại Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang chưa có nghiên cứu dinh dưỡng cho ăn sớm đối với bệnh nhân phẫu thuật nội soi ( PTNS) điều trị viêm phúc mạc ruột thừa, do đó chúng tôi nghiên cứu đề tài này với mục tiêu tổng quát là: đánh giá kết quả cho ăn sớm sau mổ trên bệnh phẫu thuật nội soi điều trị viêm phúc mạc ruột thừa. Hai mục tiêu chuyên biệt - Nhận xét đặc điểm lâm sàng bệnh nhân viêm phúc mạc ruột thừa tại bệnh viện đa khoa khu vực tỉnh An Giang. - Đánh giá hiệu quả nuôi ăn sớm sau phẫu thuật nội soi điều trị viêm phúc mạc ruột thừa tại bệnh viện đa khoa khu vực tỉnh An Giang. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Đối tượng nghiên cứu Bệnh nhân viêm phúc mạc ruột thừa được PTNS tại Bệnh viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang. 2.1.1. Tiêu chuẩn chọn bệnh - Tất cả bệnh nhân viêm phúc mạc ruột thừa được điều trị bằng phương pháp PTNS. - Bệnh nhân đồng ý hợp tác, tham gia nghiên cứu. - Phân loại ASA I, II,III. 2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ - Bệnh nhân viêm phúc mạc ruột thừa điều trị theo phương pháp mổ mở. - Bệnh nhân bé nhỏ hơn 24 tháng tuổi. - Bệnh nhân không đồng ý tham gia nghiên cứu. Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2019 Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 81 2.1.3. Địa điểm, thời gian nghiên cứu: - Địa điểm nghiên cứu: Khoa ngoại tổng quát bệnh viện ĐKKV tỉhnh AG. - Thời gian nghiên cứu: từ tháng 8/2018 đến tháng 8/2019. 2.2. Phương pháp nghiên cứu: 2.2.1. Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu tiền cứu, mô tả cắt ngang, có nhóm chứng. 2.2.2. Cỡ mẫu. - Nhóm I: nuôi ăn sớm ( nhóm nghiên cứu ) 30 trường hợp, bệnh nhân được nuôi ăn qua đường miệng sau mổ 6 giờ, - Nhóm II: nuôi ăn truyền thống ( nhóm chứng ) 30 trường hợp, bệnh nhân được cho ăn bằng đường miệng sau khi có trung tiện hoặc đi tiêu. 2.2.3. Các chỉ tiêu nghiên cứu: - Đặc điểm chung bệnh nhân. - Đặc điểm phẫu thuật - Đánh giá kết quả nuôi ăn sớm: Albumine, Protein, CRP trước và sau mổ, tai biến, biến chứng. 2.2.4. Phương pháp tiến hành: 2.2.4.1. Nội dung nghiên cứu: Tất cả các chỉ tiêu nghiên cứu được thu thập vào một mẫu bệnh án nghiên cứu thống nhất. 2.2.4.2. Thu thập số liệu về tình trạng bệnh nhân viêm phúc mạc ruột thừa 2.2.4.3. Thu thập số liệu cận lâm sàng và lâm sàng trước mổ 2.2.4.4. Quy trình kỹ thuật (1) Chuẩn bị bệnh nhân trước mổ: Bệnh nhân được tuyển chọn theo tiêu chuẩn đưa vào và tiêu chuẩn loại ra. Điều chỉnh và ổn định các rối loạn nội khoa. Tư vấn trước mổ: phương pháp mổ dự kiến, chế độ điều trị, các vấn đề có thể sẽ gặp sau mổ, nguy cơ và lợi ích khi tham gia nghiên cứu. Giải thích rõ bệnh nhân có thể được nuôi ăn sớm hoặc nuôi ăn truyền thống, tùy theo hướng dẫn của phẫu thuật viên và bác sĩ gây mê Tất cả bệnh nhân đều được chuẩn bị cho xét nghiệm tiền phẫu trước phẫu thuật. (2) Trong phẫu thuật Phẫu thuật nội soi cắt ruột thừa. (3) Sau phẫu thuật Bệnh nhân sẽ được chọn ngẫu nhiên vào một trong hai nhóm: Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2019 Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 82 - Bệnh nhân mổ ngày chẳn sẽ được chọn vào nhóm I (nuôi ăn sớm) và được tư vấn vào nằm cách biệt ở 1 khu vực riêng. - Bệnh nhân mổ ngày lẻ sẽ được chọn vào nhóm II (nuôi ăn truyền thống- nhóm chứng). Chế độ dinh dưỡng sau mổ: Nhóm I: sau mổ 6 giờ bệnh nhân ra khỏi phòng hồi sinh sẽ được cho uống sữa hoặc nước đường, đồng thời nhai kẹo cao su 3 – 5 lần trong ngày đầu sau mổ, mỗi lần 5 – 10 phút. 6 giờ sau đó bệnh nhân được cho ăn cháo loãng và tăng dần đến chế độ ăn cháo đặc và cơm. Nhóm II: bệnh nhân ra khỏi phòng hồi sinh sẽ được cho uống sữa hoặc nước đường sau khi có trung tiện hoặc đi tiêu, sau đó bệnh nhân được cho ăn cháo loãng và tăng dần đến chế độ ăn cháo đặc và cơm. Cận lâm sàng sau mổ Trước mổ: CRP, protein, albumin Ngày HP2: protein, albumin , CRP 2.3. Phương pháp xử lý số liệu: Số liệu được xử lý theo phần mềm thống kê y học SPSS 16.0 for Windows III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU: 3.1. Đặc điểm bệnh nhân viêm phúc mạc ruột thừa có biến chứng: Từ tháng 8 năm 2018 đến tháng 8 năm 2019 có 60 bệnh nhân nghiên cứu, trong đó có nam 32 BN ( 53% ), nữ 28 BN ( 47%), tỉ lệ nam/ nữ là 1,14.tuổi trung bình 43,5 ±17,0 ( 8-87). Nghề nghiệp: làm ruộng 26 BN ( 43,3%), buôn bán 21 BN ( 35%), trường hợp khác 13 BN ( 21,7%). 100% bệnh nhân có đau bụng vùng hố chậu phải và có phản ứng phúc mạc toàn thể. 48,3% bệnh nhân có thời gian từ lúc phát bệnh đến phẫu thuật > 36 giờ. Bảng 3.1 Đặc điểm chung của bệnh nhân Đặc điểm Nhóm I ( n = 30) Nhóm II ( n = 30) P Tuổi (năm) 40,4 ± 19,1 46,5± 14,2 0,16 Giới (nam/nữ) 20/10 12/18 0,06 BMI (kg/m2) 21,5 ± 2,3 22,1± 2,3 0,38 ASA, (n, %) I 17 ( 56,67%) 21( 70 %) 0,29 II 13 ( 43,33%) 9 ( 30%) Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2019 Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 83 Bệnh lý kèm theo Đái tháo đường 1 (3,33%) 3 ( 10 %) 0,94 Tăng huyết áp 5 (16,67%) 9( 30%) Tiền căn phẫu thuật vùng bụng 0 (0%) 2 ( 6,67%) 0,15 Buồn nôn trước mổ 5( 16,67%) 7(23,33%) 0,53 Tiêu chảy trước mổ 6 (20%) 4(13,33%) 0,49 Nhận xét: - Nhóm I bao gồm 20 nam (66,67%) và 10 nữ (33,33%), với tuổi trung bình là 40,4 ± 19,1( 8-87), BMI trung bình là 21,5 ± 2,3 kg/m2, đái tháo đường 1 BN (3,33%) và tăng huyết áp 5 BN(16,67%). Không ai có phẫu thuật vùng bụng trước đó. - Nhóm II bao gồm 12 nam (40%) và 18 nữ (60%), với tuổi trung bình 46,5± 14,2 (13–74), BMI trung bình là 22,1± 2,3 kg/m2, đái tháo đường 3 BN(10 %) tăng huyết áp 9 BN ( 30%). Tiền căn phẫu thuật vùng bụng 2 BN ( 6,67%). - 100% bệnh nhân có đau khắp bụng và đau nhiều hố chậu phải - Nhóm I: buồn nôn 5 BN( 16,67%), tiêu chảy 6 BN (20%) - Nhóm II: buồn nôn 7BN (23,33%), tiêu chảy 4BN(13,33%) (bảng 3.1) 3.2. Đặc điểm bệnh nhân sau mổ : Bảng 3.2 Đặc điểm thời gian mổ và chức năng tiêu hóa sau mổ Nhóm I ( BN= 30 ) Nhóm II ( BN = 30 ) p Giờ bắt đầu nuôi ăn 16,1 ± 5,89 52,13 ±19,72 <0,001 Giờ trung tiện 11,97 ± 10,51 40,23 ± 23,51 <0,001 Ngày đi tiêu 2,07 ± 0,78 3,37 ± 0,96 <0,001 Buồn nôn, nôn sau mổ 2 (6,7%) 6 ( 20%) 0,130 Chướng bụng sau mổ 2 ( 6,7%) 5 (16,7%) 0,230 Nhận xét: - Thời điểm bắt đầu nuôi ăn của nhóm I (16,1 ± 5,89 giờ) sớm hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm II (52,13 ±19,72giờ), với p< 0,001 - Giờ bắt đầu trung tiện nhóm: (11,97 ± 10,51 giờ ) sớm hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm II (40,23 ± 23,51 ), với p < 0,001 Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2019 Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 84 - Ngày đi tiêu lần đầu tiên nhóm I (2,07 ± 0,78 ngày ) sớm hơn có ý nghĩ thống kê so với nhóm II (3,37 ± 0,96 ngày, với p< 0,001. - Nhóm I có 2 TH (6,7%) có triệu chứng buồn nôn và nôn sau mổ, nhóm II có 6 TH (20%). Nhóm I có 2 TH (6,7%) chướng bụng sau mổ, nhóm II có 5 TH (16,7%). ( bảng 3.2). 3.3 Thời gian nằm viện và biến chứng, các vấn đề sau mổ: Bảng 3.3 Thời gian nằm viện và biến chứng Nhóm I BN= 30 Nhóm II BN= 30 P Thời gian nằm viện ( ngày ) 6,97 ± 0,18 7,67 ± 1,34 0,007 Nhiễm trùng vết mổ 0 1( 3,33%) 0,32 Áp xe tồn lưu 0 0 Nhận xét: - Thời gian nằm viện nhóm nghiên cứu 6,97 ± 0,18 ngày giảm so với nhóm chứng 7,67 ± 1,35 ngày, với P= 0,007 - Nhóm II có 1 BN ( 3,33%) nhiễm trùng vết mổ, bệnh nhân nữ 74 tuổi với chẩn đoán viêm phúc mạc toàn thể viêm ruột thừa hoại tử. 3.4. Đánh giá kết quả cận lâm sàng: Cận lâm sàng cần làm 2 thời điểm là trước mổ và ngày hậu phẫu thứ 2 Bảng 3.4. So sánh các chỉ số cận lâm sàng trước và sau mổ của 2 nhóm. Nhóm I Nhóm II P Protein (mg/dl) Trước mổ 6,57 ± 0,62 6,96 ±0,47 0,008 Sau mổ 6,96 ± 0,53 6,51 ± 0,64 0,005 Albumine (mg/dl) Trước mổ 3,73 ± 0,34 4,03± 0,41 0,003 Sau mổ 3,87 ± 0,41 3,49± 0,48 0,002 CRP Trước mổ 11,73 ± 4,27 14,44 ± 9,21 0,149 Sau mổ 7,94 ± 3,34 9,24 ± 4,02 0,179 Nhận xét: - So sánh hai nhóm: Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2019 Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 85 + Protein trước mổ nhóm I: 6,57 ± 0,62 mg/dl so với nhóm II: 6,96 ±0,47 mg/dl với p= 0,008 có ý nghĩa thống kê + Protein sau mổ nhóm I: 6,96 ± 0,53 mg/dl tăng so với nhóm II : 6,51 ± 0,64 mg/dl với p= 0,005 có ý nghĩa thống kê. + Albumine trước mổ nhóm I : 3,73 ± 0,34 mg/dl với nhóm II : 4,03± 0,41 mg/dl với p= 0,003 + Albumine sau mổ nhóm I : 3,87 ± 0,41 mg/dl tăng so với nhóm II : 3,49± 0,48 mg/dl với p= 0,002 có ý nghĩa thống kê - Nồng độ protein toàn phần và albumin trong huyết thanh thay đổi có ý nghĩa ở mỗi nhóm. Nhóm I có thay đổi theo chiều hướng tăng chứng tỏ nuôi ăn sớm có hiệu quả làm tăng lượng đạm trong máu. Nhóm II thay đổi theo chiều hướng giảm biểu hiện cho dấu hiệu giảm đạm trong máu. - CRP chênh lệch sau mổ có chiều hướng giảm so với trước mổ IV. BÀN LUẬN: 4.1 Đặc điểm tình hình chung và lâm sàng của bệnh nhân: Độ tuổi trung bình trong nghiên cứu 43,5 ±17,0 ( 8-87) trong đó có nam 32 BN (53%), nữ 28 BN (47%), 48,3% bệnh nhân có thời gian từ lúc phát bệnh đến phẫu thuật > 36 giờ. Theo nghiên cứu Nguyễn Quang Huy[1] độ tuổi tuổi trung bình bệnh nhân VPM ruột thừa: 45,7 ± 21,4 (nhỏ nhất: 16; lớn nhất: 95). Tỉ lệ bệnh nhân có thời gian viêm ruột thừa > 36 giờ là 54,9%, tỉ lệ bệnh nhân có đau bụng của viêm phúc mạc ruột thừa chiếm 100%. 4.2 Đặc điểm Cận lâm sàng: Protein trước mổ ở nhóm I có trị số 6,57 ± 0,62 mg/dl nhỏ hơn so với nhóm II 6,96 ±0,47 có ý nghĩa thống kê với p= 0,008. Protein sau mổ nhóm I 6,96 ± 0,53 tăng so với nhóm II 6,51 ± 0,64 với p= 0,005 có ý nghĩa thống kê ( Bảng 3. 4). Qua đó, chúng tôi nhận thấy nuôi ăn sớm có hiệu quả trên việc cải thiện tình trạng dinh dưỡng của bệnh nhân sau phẫu thuật viêm phúc mạc ruột thừa, thể hiện qua hai thông số protein toàn phần. Phẫu thuật ảnh hưởng đến cân bằng nội môi của cơ thể thông qua các biến đổi về thần kinh – nội tiết và miễn dịch, cytokine tiền viêm (như interleukin – 1, interleukin – 6) tăng do stress sẽ làm thay đổi các protein, như albumin và C – reactive protein (CRP) thông qua hoạt động của nó trên tế bào gan[9]. Albumin có thời gian bán hủy dài, khoảng 20 ngày. Do vậy, nồng độ albumin trong máu thay đổi chậm, phản ánh tình trạng suy dinh dưỡng kéo dài, thường thấy ở người bệnh viêm phúc mạc. Albumin thường được dùng để đánh giá tình trạng dinh dưỡng vì dễ thực hiện và rẻ tiền. Nhưng thực sự nó lại là một chỉ điểm cho sự trầm trọng của bệnh hơn là thay đổi trong tình trạng dinh dưỡng. Albumin không được khuyến cáo sử dụng đơn độc khi đánh giá tình trạng dinh dưỡng vì sự tổng hợp của nó bị ảnh hưởng bởi quá trình viêm, cũng như những can thiệp điều trị và tình Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2019 Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 86 trạng mất nước [9]. Trong nghiên cứu của chúng tôi, nồng độ albumin huyết thanh trước mổ nhóm I : 3,73 ± 0,34 mg/dl và nhóm II: 4,03± 0,41 mg/dl, nằm trong giới hạn bình thường. Sau mổ chỉ số này tăng ở nhóm I và giảm ở nhóm 2, mối tương quan này có ý nghĩa thống kê. Kết quả này cũng tương tự với nghiên cứu của Tạ Ngọc Tiên [10]. Điều này chứng tỏ nuôi ăn sớm qua đường tiêu hóa có hiệu quả trên sự cải thiện nồng độ albumin huyết thanh sau mổ. 4.3. Kết quả nuôi ăn sớm: Nuôi ăn sớm qua đường tiêu hóa được định nghĩa là sự cung cấp chất lỏng/đặc có năng lượng, được bắt đầu trong vòng 24 giờ sau mổ qua đường miệng. Theo cách điều trị truyền thống, sau phẫu thuật vùng bụng nói chung, bệnh nhân thường được nhịn ăn cho đến khi tình trạng liệt ruột sau mổ được giải quyết, biểu hiện bằng trung tiện, đi tiêu hoặc nghe có nhu động ruột[2]. Chức năng tiêu hóa sẽ phục hồi 12 giờ sau mổ và trở về bình thường khoảng 24 – 48 giờ sau mổ, nhưng chức năng hấp thu của ruột non sẽ khôi phục hoàn toàn trong vòng 4 – 8 giờ sau mổ [6]. Nhịn ăn và quan niệm cho ruột nghỉ ngơi sau mổ không mang lại bất kỳ lợi ích nào trên sự lành vết thương đường tiêu hóa, mà còn làm trầm trọng thêm tình trạng suy dinh dưỡng và rối loạn cân bằng chuyển hóa ở bệnh nhân sau mổ [8]. Theo hướng dẫn của ESPEN 2017, can thiệp dinh dưỡng sớm sau mổ cần kết hợp nuôi ăn đường tiêu hóa và đường tĩnh mạch bổ sung, và là lựa chọn đầu tiên (chứng cứ độ A). Nuôi ăn sớm qua đường tiêu hóa có thể gây ra nhiều tác dụng không mong muốn, như nôn ói, chướng bụng, đặc biệt ở bệnh nhân lớn tuổi, tuy nhiên qua nghiên cứu này cho thấy tỉ lệ buồn nôn và chướng bụng nhóm I thấp hơn so với nhóm II, nhưng không có ý nghĩa thống kê với P= 0,13 và 0,23 (Bảng 3.2). Giờ trung tiện đầu tiên sau mổ và thời gian nằm viện ở nhóm nuôi ăn sớm ngắn hơn nhóm nuôi ăn truyền thống, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p < 0,001, kết quả này tương đồng với nhóm nghiên cứu của Tạ Ngọc Tiên. Biến chứng sau mổ có xuất hiện ở nhóm II là nhiễm trùng vết mổ 1 trường hợp (3,33%) tuy nhiên điều này không có ý nghĩa thống kê Vì vậy việc nuôi ăn sớm sau phẫu thuật nội soi viêm phúc mạc ruột thừa là an toàn, khả thi và chức năng ruột hồi phục tốt hơn. V. KẾT LUẬN: Qua nghiên cứu 60 trường hợp trong đó 30 trường hợp ăn sớm (nhóm nghiên cứu) và 30 trường hợp ăn theo truyền thống (nhóm đối chứng) với độ tuổi trung bình 43,5 ±17,0 tuổi (8 -87 tuổi) Kết quả điều trị: nuôi ăn sớm sau mổ cải thiện các chỉ số dinh dưỡng sau mổ và chức năng ruột hồi phục sau mổ tốt hơn phương pháp nuôi ăn truyền thống. Biến chứng sau mổ: - Nhiễm trùng vết mổ 1 trường hợp trong 30 trường hợp ăn theo truyền thống - Không tụ dịch ở bụng và áp xe tồn lưu Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2019 Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 87 TÀI LIỆU THAM KHẢO: TIẾNG VIỆT 1. Nguyễn Quang Huy (2019), Nghiên cứu kết quả phẫu thuật nội soi trong điều trị viêm phúc mạc toàn thể do viêm ruột thừa, Luận án tiến sĩ. 2. Võ Thị Mỹ Ngọc (2014). Vai trò của dinh dưỡng hỗ trợ sớm sau phẫu thuật ung thư đại trực tràng, Luận văn tốt nghiệp Bác sỹ chuyên khoa II, Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh 3. Lưu Ngân Tâm, Nguyễn Thị Quỳnh Hoa (2009), "Tình trạng dinh dưỡng bệnh nhân lúc nhập viện tại bệnh viện Chợ Rẫy". Y Học TP Hồ Chí Minh, 4. Tạ Ngọc Tiên( 2017) Luận văn tốt nghiệp Bác sĩ nội trú, Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh. 5. BS Lâm Việt Trung (2019), “Tối ưu hóa dinh dưỡng đường ruột ở bệnh nhân phẫu thuật ống tiêu hóa”, Hội thảo vệ tinh cập nhật liệu pháp dinh dưỡng cho bệnh nhân ngoại khoa. TIẾNG ANH 6. Baskin WN (1992), “Advances in enteral nutrition techniques”. Am J Gastroenterol , 87(11), pp. 1547–1553. 7. Correia MI, da Silva RG (2004), “The impact of early nutrition on metabolic response and postoperative ileus”. Curr Opin Clin Nutr Metab Care, 7(5), pp. 577–583. 8. Lewis SJ, Egger M, Sylvester PA, et al (2001), "Early enteral feeding versus 'nil by mouth' after gastrointestinal surgery: systematic review and meta-analysis of controlled trials". BMJ, 323(7316), pp. 773–776. 9. Watt DG, McSorley ST, Horgan PG, et al (2015), “Enhanced recovery after surgery: which components, if any, impact on the systemic inflammatory response following colorectal surgery?: a systematic review”. Medicine, 94(36), e1286.
File đính kèm:
nghien_cuu_ket_qua_cho_an_som_sau_mo_tren_benh_nhan_phau_thu.pdf

