Nghiên cứu kết quả cho ăn sớm sau mổ trên bệnh nhân phẫu thuật nội soi điều trị viêm phúc mạc ruột thừa

I. ĐẶT VẤN ĐỀ

Hồi phục sớm sau phẫu thuật (HPSSPT) là một chương trình chăm sóc bệnh nhân toàn

diện gồm nhiều giai đoạn, bắt đầu từ trước mổ cho đến sau khi bệnh nhân ra viện; nhằm

giảm thiểu các sang chấn trước, trong và sau mổ, nhờ đó thúc đẩy quá trình hồi phục của

bệnh nhân và giảm thời gian nằm viện. Nhịn ăn sau phẫu thuật làm tăng tình trạng dị hóa

protein, glucose và lipid; cùng với khoảng thời gian dài nhịn ăn trước phẫu thuật càng làm

nặng thêm tình trạng suy dinh dưỡng của bệnh nhân. Chương trình HPSSPT gần như trở

thành phương pháp thực hành tiêu chuẩn tại nhiều nước trên thế giới và được thực hiện

trong hầu hết các phẫu thuật ngoại khoa trong đó có PTNS điều trị viêm phúc mạc ruột

thừa.

Tại Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang chưa có nghiên cứu dinh dưỡng cho

ăn sớm đối với bệnh nhân phẫu thuật nội soi ( PTNS) điều trị viêm phúc mạc ruột thừa,

do đó chúng tôi nghiên cứu đề tài này với mục tiêu tổng quát là: đánh giá kết quả cho ăn

sớm sau mổ trên bệnh phẫu thuật nội soi điều trị viêm phúc mạc ruột thừa.

pdf 8 trang phuongnguyen 140
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu kết quả cho ăn sớm sau mổ trên bệnh nhân phẫu thuật nội soi điều trị viêm phúc mạc ruột thừa", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu kết quả cho ăn sớm sau mổ trên bệnh nhân phẫu thuật nội soi điều trị viêm phúc mạc ruột thừa

Nghiên cứu kết quả cho ăn sớm sau mổ trên bệnh nhân phẫu thuật nội soi điều trị viêm phúc mạc ruột thừa
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2019 
Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 80 
NGHIÊN CỨU KẾT QUẢ CHO ĂN SỚM SAU MỔ TRÊN BỆNH NHÂN 
PHẪU THUẬT NỘI SOI ĐIỀU TRỊ VIÊM PHÚC MẠC RUỘT THỪA 
Trần Phước Hồng, Nguyễn Thanh Long 
 Lê Thúy Oanh, Nguyễn Tiến Trung 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ 
 Hồi phục sớm sau phẫu thuật (HPSSPT) là một chương trình chăm sóc bệnh nhân toàn 
diện gồm nhiều giai đoạn, bắt đầu từ trước mổ cho đến sau khi bệnh nhân ra viện; nhằm 
giảm thiểu các sang chấn trước, trong và sau mổ, nhờ đó thúc đẩy quá trình hồi phục của 
bệnh nhân và giảm thời gian nằm viện. Nhịn ăn sau phẫu thuật làm tăng tình trạng dị hóa 
protein, glucose và lipid; cùng với khoảng thời gian dài nhịn ăn trước phẫu thuật càng làm 
nặng thêm tình trạng suy dinh dưỡng của bệnh nhân. Chương trình HPSSPT gần như trở 
thành phương pháp thực hành tiêu chuẩn tại nhiều nước trên thế giới và được thực hiện 
trong hầu hết các phẫu thuật ngoại khoa trong đó có PTNS điều trị viêm phúc mạc ruột 
thừa. 
 Tại Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang chưa có nghiên cứu dinh dưỡng cho 
ăn sớm đối với bệnh nhân phẫu thuật nội soi ( PTNS) điều trị viêm phúc mạc ruột thừa, 
do đó chúng tôi nghiên cứu đề tài này với mục tiêu tổng quát là: đánh giá kết quả cho ăn 
sớm sau mổ trên bệnh phẫu thuật nội soi điều trị viêm phúc mạc ruột thừa. 
 Hai mục tiêu chuyên biệt 
 - Nhận xét đặc điểm lâm sàng bệnh nhân viêm phúc mạc ruột thừa tại bệnh viện đa 
khoa khu vực tỉnh An Giang. 
 - Đánh giá hiệu quả nuôi ăn sớm sau phẫu thuật nội soi điều trị viêm phúc mạc ruột 
thừa tại bệnh viện đa khoa khu vực tỉnh An Giang. 
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
 2.1. Đối tượng nghiên cứu 
 Bệnh nhân viêm phúc mạc ruột thừa được PTNS tại Bệnh viện Đa Khoa Khu Vực 
Tỉnh An Giang. 
 2.1.1. Tiêu chuẩn chọn bệnh 
 - Tất cả bệnh nhân viêm phúc mạc ruột thừa được điều trị bằng phương pháp 
PTNS. 
 - Bệnh nhân đồng ý hợp tác, tham gia nghiên cứu. 
 - Phân loại ASA I, II,III. 
 2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ 
 - Bệnh nhân viêm phúc mạc ruột thừa điều trị theo phương pháp mổ mở. 
 - Bệnh nhân bé nhỏ hơn 24 tháng tuổi. 
 - Bệnh nhân không đồng ý tham gia nghiên cứu. 
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2019 
Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 81 
 2.1.3. Địa điểm, thời gian nghiên cứu: 
 - Địa điểm nghiên cứu: Khoa ngoại tổng quát bệnh viện ĐKKV tỉhnh AG. 
 - Thời gian nghiên cứu: từ tháng 8/2018 đến tháng 8/2019. 
 2.2. Phương pháp nghiên cứu: 
 2.2.1. Thiết kế nghiên cứu: 
 Nghiên cứu tiền cứu, mô tả cắt ngang, có nhóm chứng. 
 2.2.2. Cỡ mẫu. 
 - Nhóm I: nuôi ăn sớm ( nhóm nghiên cứu ) 30 trường hợp, bệnh nhân được nuôi 
ăn qua đường miệng sau mổ 6 giờ, 
 - Nhóm II: nuôi ăn truyền thống ( nhóm chứng ) 30 trường hợp, bệnh nhân được 
cho ăn bằng đường miệng sau khi có trung tiện hoặc đi tiêu. 
 2.2.3. Các chỉ tiêu nghiên cứu: 
 - Đặc điểm chung bệnh nhân. 
 - Đặc điểm phẫu thuật 
 - Đánh giá kết quả nuôi ăn sớm: Albumine, Protein, CRP trước và sau mổ, tai 
biến, biến chứng. 
 2.2.4. Phương pháp tiến hành: 
 2.2.4.1. Nội dung nghiên cứu: 
 Tất cả các chỉ tiêu nghiên cứu được thu thập vào một mẫu bệnh án nghiên cứu 
thống nhất. 
 2.2.4.2. Thu thập số liệu về tình trạng bệnh nhân viêm phúc mạc ruột thừa 
 2.2.4.3. Thu thập số liệu cận lâm sàng và lâm sàng trước mổ 
 2.2.4.4. Quy trình kỹ thuật 
(1) Chuẩn bị bệnh nhân trước mổ: 
 Bệnh nhân được tuyển chọn theo tiêu chuẩn đưa vào và tiêu chuẩn loại ra. 
Điều chỉnh và ổn định các rối loạn nội khoa. 
 Tư vấn trước mổ: phương pháp mổ dự kiến, chế độ điều trị, các vấn đề có thể 
sẽ gặp sau mổ, nguy cơ và lợi ích khi tham gia nghiên cứu. Giải thích rõ bệnh nhân có 
thể được nuôi ăn sớm hoặc nuôi ăn truyền thống, tùy theo hướng dẫn của phẫu thuật 
viên và bác sĩ gây mê 
 Tất cả bệnh nhân đều được chuẩn bị cho xét nghiệm tiền phẫu trước phẫu 
thuật. 
(2) Trong phẫu thuật 
 Phẫu thuật nội soi cắt ruột thừa. 
(3) Sau phẫu thuật 
 Bệnh nhân sẽ được chọn ngẫu nhiên vào một trong hai nhóm: 
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2019 
Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 82 
 - Bệnh nhân mổ ngày chẳn sẽ được chọn vào nhóm I (nuôi ăn sớm) và được 
tư vấn vào nằm cách biệt ở 1 khu vực riêng. 
 - Bệnh nhân mổ ngày lẻ sẽ được chọn vào nhóm II (nuôi ăn truyền thống- 
nhóm chứng). 
 Chế độ dinh dưỡng sau mổ: 
 Nhóm I: sau mổ 6 giờ bệnh nhân ra khỏi phòng hồi sinh sẽ được cho uống sữa 
hoặc nước đường, đồng thời nhai kẹo cao su 3 – 5 lần trong ngày đầu sau mổ, mỗi lần 5 
– 10 phút. 6 giờ sau đó bệnh nhân được cho ăn cháo loãng và tăng dần đến chế độ ăn 
cháo đặc và cơm. 
 Nhóm II: bệnh nhân ra khỏi phòng hồi sinh sẽ được cho uống sữa hoặc nước 
đường sau khi có trung tiện hoặc đi tiêu, sau đó bệnh nhân được cho ăn cháo loãng và 
tăng dần đến chế độ ăn cháo đặc và cơm. 
 Cận lâm sàng sau mổ 
 Trước mổ: CRP, protein, albumin 
 Ngày HP2: protein, albumin , CRP 
 2.3. Phương pháp xử lý số liệu: 
 Số liệu được xử lý theo phần mềm thống kê y học SPSS 16.0 for Windows 
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU: 
3.1. Đặc điểm bệnh nhân viêm phúc mạc ruột thừa có biến chứng: 
Từ tháng 8 năm 2018 đến tháng 8 năm 2019 có 60 bệnh nhân nghiên cứu, trong đó 
có nam 32 BN ( 53% ), nữ 28 BN ( 47%), tỉ lệ nam/ nữ là 1,14.tuổi trung bình 43,5 ±17,0 
( 8-87). Nghề nghiệp: làm ruộng 26 BN ( 43,3%), buôn bán 21 BN ( 35%), trường hợp 
khác 13 BN ( 21,7%). 100% bệnh nhân có đau bụng vùng hố chậu phải và có phản ứng 
phúc mạc toàn thể. 48,3% bệnh nhân có thời gian từ lúc phát bệnh đến phẫu thuật > 36 
giờ. 
 Bảng 3.1 Đặc điểm chung của bệnh nhân 
Đặc điểm Nhóm I ( n = 30) Nhóm II ( n = 30) P 
Tuổi (năm) 40,4 ± 19,1 46,5± 14,2 0,16 
Giới (nam/nữ) 20/10 12/18 0,06 
BMI (kg/m2) 21,5 ± 2,3 22,1± 2,3 0,38 
ASA, (n, %) 
I 17 ( 56,67%) 21( 70 %) 
0,29 
 II 13 ( 43,33%) 9 ( 30%) 
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2019 
Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 83 
Bệnh lý kèm theo 
 Đái tháo đường 1 (3,33%) 3 ( 10 %) 
0,94 
 Tăng huyết áp 5 (16,67%) 9( 30%) 
Tiền căn phẫu thuật vùng 
bụng 
0 (0%) 2 ( 6,67%) 0,15 
Buồn nôn trước mổ 5( 16,67%) 7(23,33%) 0,53 
Tiêu chảy trước mổ 6 (20%) 4(13,33%) 0,49 
 Nhận xét: 
 - Nhóm I bao gồm 20 nam (66,67%) và 10 nữ (33,33%), với tuổi trung bình 
là 40,4 ± 19,1( 8-87), BMI trung bình là 21,5 ± 2,3 kg/m2, đái tháo đường 1 BN (3,33%) 
và tăng huyết áp 5 BN(16,67%). Không ai có phẫu thuật vùng bụng trước đó. 
 - Nhóm II bao gồm 12 nam (40%) và 18 nữ (60%), với tuổi trung bình 
46,5± 14,2 (13–74), BMI trung bình là 22,1± 2,3 kg/m2, đái tháo đường 3 BN(10 %) 
tăng huyết áp 9 BN ( 30%). Tiền căn phẫu thuật vùng bụng 2 BN ( 6,67%). 
 - 100% bệnh nhân có đau khắp bụng và đau nhiều hố chậu phải 
 - Nhóm I: buồn nôn 5 BN( 16,67%), tiêu chảy 6 BN (20%) 
 - Nhóm II: buồn nôn 7BN (23,33%), tiêu chảy 4BN(13,33%) (bảng 3.1) 
3.2. Đặc điểm bệnh nhân sau mổ : 
 Bảng 3.2 Đặc điểm thời gian mổ và chức năng tiêu hóa sau mổ 
 Nhóm I 
( BN= 30 ) 
Nhóm II 
( BN = 30 ) 
p 
Giờ bắt đầu nuôi ăn 16,1 ± 5,89 52,13 ±19,72 <0,001 
Giờ trung tiện 11,97 ± 10,51 40,23 ± 23,51 <0,001 
Ngày đi tiêu 2,07 ± 0,78 3,37 ± 0,96 <0,001 
Buồn nôn, nôn sau mổ 2 (6,7%) 6 ( 20%) 0,130 
Chướng bụng sau mổ 2 ( 6,7%) 5 (16,7%) 0,230 
 Nhận xét: 
 - Thời điểm bắt đầu nuôi ăn của nhóm I (16,1 ± 5,89 giờ) sớm hơn có ý 
nghĩa thống kê so với nhóm II (52,13 ±19,72giờ), với p< 0,001 
 - Giờ bắt đầu trung tiện nhóm: (11,97 ± 10,51 giờ ) sớm hơn có ý nghĩa thống 
kê so với nhóm II (40,23 ± 23,51 ), với p < 0,001 
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2019 
Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 84 
 - Ngày đi tiêu lần đầu tiên nhóm I (2,07 ± 0,78 ngày ) sớm hơn có ý nghĩ thống 
kê so với nhóm II (3,37 ± 0,96 ngày, với p< 0,001. 
 - Nhóm I có 2 TH (6,7%) có triệu chứng buồn nôn và nôn sau mổ, nhóm II 
có 6 TH (20%). Nhóm I có 2 TH (6,7%) chướng bụng sau mổ, nhóm II có 5 TH 
(16,7%). ( bảng 3.2). 
 3.3 Thời gian nằm viện và biến chứng, các vấn đề sau mổ: 
 Bảng 3.3 Thời gian nằm viện và biến chứng 
 Nhóm I 
BN= 30 
Nhóm II 
BN= 30 
P 
Thời gian nằm viện ( ngày ) 6,97 ± 0,18 7,67 ± 1,34 0,007 
Nhiễm trùng vết mổ 0 1( 3,33%) 0,32 
Áp xe tồn lưu 0 0 
 Nhận xét: 
 - Thời gian nằm viện nhóm nghiên cứu 6,97 ± 0,18 ngày giảm so với nhóm chứng 
7,67 ± 1,35 ngày, với P= 0,007 
 - Nhóm II có 1 BN ( 3,33%) nhiễm trùng vết mổ, bệnh nhân nữ 74 tuổi với chẩn 
đoán viêm phúc mạc toàn thể viêm ruột thừa hoại tử. 
 3.4. Đánh giá kết quả cận lâm sàng: 
 Cận lâm sàng cần làm 2 thời điểm là trước mổ và ngày hậu phẫu thứ 2 
 Bảng 3.4. So sánh các chỉ số cận lâm sàng trước và sau mổ của 2 nhóm. 
 Nhóm I Nhóm II P 
Protein (mg/dl) 
 Trước mổ 6,57 ± 0,62 6,96 ±0,47 0,008 
 Sau mổ 6,96 ± 0,53 6,51 ± 0,64 0,005 
Albumine (mg/dl) 
 Trước mổ 3,73 ± 0,34 4,03± 0,41 0,003 
 Sau mổ 3,87 ± 0,41 3,49± 0,48 0,002 
CRP 
 Trước mổ 11,73 ± 4,27 14,44 ± 9,21 0,149 
 Sau mổ 7,94 ± 3,34 9,24 ± 4,02 0,179 
 Nhận xét: 
 - So sánh hai nhóm: 
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2019 
Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 85 
 + Protein trước mổ nhóm I: 6,57 ± 0,62 mg/dl so với nhóm II: 6,96 ±0,47 
mg/dl với p= 0,008 có ý nghĩa thống kê 
 + Protein sau mổ nhóm I: 6,96 ± 0,53 mg/dl tăng so với nhóm II : 6,51 ± 0,64 
mg/dl với p= 0,005 có ý nghĩa thống kê. 
 + Albumine trước mổ nhóm I : 3,73 ± 0,34 mg/dl với nhóm II : 4,03± 0,41 
mg/dl với p= 0,003 
 + Albumine sau mổ nhóm I : 3,87 ± 0,41 mg/dl tăng so với nhóm II : 3,49± 
0,48 mg/dl với p= 0,002 có ý nghĩa thống kê 
 - Nồng độ protein toàn phần và albumin trong huyết thanh thay đổi có ý nghĩa ở 
mỗi nhóm. Nhóm I có thay đổi theo chiều hướng tăng chứng tỏ nuôi ăn sớm có hiệu quả 
làm tăng lượng đạm trong máu. Nhóm II thay đổi theo chiều hướng giảm biểu hiện cho 
dấu hiệu giảm đạm trong máu. 
 - CRP chênh lệch sau mổ có chiều hướng giảm so với trước mổ 
IV. BÀN LUẬN: 
 4.1 Đặc điểm tình hình chung và lâm sàng của bệnh nhân: 
 Độ tuổi trung bình trong nghiên cứu 43,5 ±17,0 ( 8-87) trong đó có nam 32 BN 
(53%), nữ 28 BN (47%), 48,3% bệnh nhân có thời gian từ lúc phát bệnh đến phẫu thuật > 
36 giờ. Theo nghiên cứu Nguyễn Quang Huy[1] độ tuổi tuổi trung bình bệnh nhân VPM 
ruột thừa: 45,7 ± 21,4 (nhỏ nhất: 16; lớn nhất: 95). Tỉ lệ bệnh nhân có thời gian viêm ruột 
thừa > 36 giờ là 54,9%, tỉ lệ bệnh nhân có đau bụng của viêm phúc mạc ruột thừa chiếm 
100%. 
 4.2 Đặc điểm Cận lâm sàng: 
 Protein trước mổ ở nhóm I có trị số 6,57 ± 0,62 mg/dl nhỏ hơn so với nhóm II 6,96 
±0,47 có ý nghĩa thống kê với p= 0,008. Protein sau mổ nhóm I 6,96 ± 0,53 tăng so với 
nhóm II 6,51 ± 0,64 với p= 0,005 có ý nghĩa thống kê ( Bảng 3. 4). Qua đó, chúng tôi 
nhận thấy nuôi ăn sớm có hiệu quả trên việc cải thiện tình trạng dinh dưỡng của bệnh 
nhân sau phẫu thuật viêm phúc mạc ruột thừa, thể hiện qua hai thông số protein toàn 
phần. 
 Phẫu thuật ảnh hưởng đến cân bằng nội môi của cơ thể thông qua các biến đổi về 
thần kinh – nội tiết và miễn dịch, cytokine tiền viêm (như interleukin – 1, interleukin – 6) 
tăng do stress sẽ làm thay đổi các protein, như albumin và C – reactive protein (CRP) 
thông qua hoạt động của nó trên tế bào gan[9]. Albumin có thời gian bán hủy dài, khoảng 
20 ngày. Do vậy, nồng độ albumin trong máu thay đổi chậm, phản ánh tình trạng suy dinh 
dưỡng kéo dài, thường thấy ở người bệnh viêm phúc mạc. Albumin thường được dùng để 
đánh giá tình trạng dinh dưỡng vì dễ thực hiện và rẻ tiền. Nhưng thực sự nó lại là một chỉ 
điểm cho sự trầm trọng của bệnh hơn là thay đổi trong tình trạng dinh dưỡng. Albumin 
không được khuyến cáo sử dụng đơn độc khi đánh giá tình trạng dinh dưỡng vì sự tổng 
hợp của nó bị ảnh hưởng bởi quá trình viêm, cũng như những can thiệp điều trị và tình 
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2019 
Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 86 
trạng mất nước [9]. Trong nghiên cứu của chúng tôi, nồng độ albumin huyết thanh trước 
mổ nhóm I : 3,73 ± 0,34 mg/dl và nhóm II: 4,03± 0,41 mg/dl, nằm trong giới hạn bình 
thường. Sau mổ chỉ số này tăng ở nhóm I và giảm ở nhóm 2, mối tương quan này có ý 
nghĩa thống kê. Kết quả này cũng tương tự với nghiên cứu của Tạ Ngọc Tiên [10]. Điều 
này chứng tỏ nuôi ăn sớm qua đường tiêu hóa có hiệu quả trên sự cải thiện nồng độ 
albumin huyết thanh sau mổ. 
 4.3. Kết quả nuôi ăn sớm: 
 Nuôi ăn sớm qua đường tiêu hóa được định nghĩa là sự cung cấp chất lỏng/đặc có 
năng lượng, được bắt đầu trong vòng 24 giờ sau mổ qua đường miệng. Theo cách điều trị 
truyền thống, sau phẫu thuật vùng bụng nói chung, bệnh nhân thường được nhịn ăn cho 
đến khi tình trạng liệt ruột sau mổ được giải quyết, biểu hiện bằng trung tiện, đi tiêu hoặc 
nghe có nhu động ruột[2]. Chức năng tiêu hóa sẽ phục hồi 12 giờ sau mổ và trở về bình 
thường khoảng 24 – 48 giờ sau mổ, nhưng chức năng hấp thu của ruột non sẽ khôi phục 
hoàn toàn trong vòng 4 – 8 giờ sau mổ [6]. Nhịn ăn và quan niệm cho ruột nghỉ ngơi sau 
mổ không mang lại bất kỳ lợi ích nào trên sự lành vết thương đường tiêu hóa, mà còn làm 
trầm trọng thêm tình trạng suy dinh dưỡng và rối loạn cân bằng chuyển hóa ở bệnh nhân 
sau mổ [8]. Theo hướng dẫn của ESPEN 2017, can thiệp dinh dưỡng sớm sau mổ cần kết 
hợp nuôi ăn đường tiêu hóa và đường tĩnh mạch bổ sung, và là lựa chọn đầu tiên (chứng 
cứ độ A). Nuôi ăn sớm qua đường tiêu hóa có thể gây ra nhiều tác dụng không mong 
muốn, như nôn ói, chướng bụng, đặc biệt ở bệnh nhân lớn tuổi, tuy nhiên qua nghiên cứu 
này cho thấy tỉ lệ buồn nôn và chướng bụng nhóm I thấp hơn so với nhóm II, nhưng 
không có ý nghĩa thống kê với P= 0,13 và 0,23 (Bảng 3.2). Giờ trung tiện đầu tiên sau mổ 
và thời gian nằm viện ở nhóm nuôi ăn sớm ngắn hơn nhóm nuôi ăn truyền thống, sự khác 
biệt này có ý nghĩa thống kê với p < 0,001, kết quả này tương đồng với nhóm nghiên cứu 
của Tạ Ngọc Tiên. Biến chứng sau mổ có xuất hiện ở nhóm II là nhiễm trùng vết mổ 1 
trường hợp (3,33%) tuy nhiên điều này không có ý nghĩa thống kê Vì vậy việc nuôi ăn 
sớm sau phẫu thuật nội soi viêm phúc mạc ruột thừa là an toàn, khả thi và chức năng ruột 
hồi phục tốt hơn. 
V. KẾT LUẬN: 
 Qua nghiên cứu 60 trường hợp trong đó 30 trường hợp ăn sớm (nhóm nghiên cứu) và 
30 trường hợp ăn theo truyền thống (nhóm đối chứng) với độ tuổi trung bình 43,5 ±17,0 
tuổi (8 -87 tuổi) 
Kết quả điều trị: nuôi ăn sớm sau mổ cải thiện các chỉ số dinh dưỡng sau mổ và chức 
năng ruột hồi phục sau mổ tốt hơn phương pháp nuôi ăn truyền thống. 
Biến chứng sau mổ: 
- Nhiễm trùng vết mổ 1 trường hợp trong 30 trường hợp ăn theo truyền thống 
- Không tụ dịch ở bụng và áp xe tồn lưu 
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2019 
Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 87 
TÀI LIỆU THAM KHẢO: 
TIẾNG VIỆT 
1. Nguyễn Quang Huy (2019), Nghiên cứu kết quả phẫu thuật nội soi trong điều trị 
viêm phúc mạc toàn thể do viêm ruột thừa, Luận án tiến sĩ. 
2. Võ Thị Mỹ Ngọc (2014). Vai trò của dinh dưỡng hỗ trợ sớm sau phẫu thuật ung 
thư đại trực tràng, Luận văn tốt nghiệp Bác sỹ chuyên khoa II, Đại học Y Dược thành phố 
Hồ Chí Minh 
3. Lưu Ngân Tâm, Nguyễn Thị Quỳnh Hoa (2009), "Tình trạng dinh dưỡng bệnh 
nhân lúc nhập viện tại bệnh viện Chợ Rẫy". Y Học TP Hồ Chí Minh, 
4. Tạ Ngọc Tiên( 2017) Luận văn tốt nghiệp Bác sĩ nội trú, Đại học Y Dược thành 
phố Hồ Chí Minh. 
5. BS Lâm Việt Trung (2019), “Tối ưu hóa dinh dưỡng đường ruột ở bệnh nhân 
phẫu thuật ống tiêu hóa”, Hội thảo vệ tinh cập nhật liệu pháp dinh dưỡng cho bệnh nhân 
ngoại khoa. 
TIẾNG ANH 
6. Baskin WN (1992), “Advances in enteral nutrition techniques”. Am J 
Gastroenterol , 87(11), pp. 1547–1553. 
7. Correia MI, da Silva RG (2004), “The impact of early nutrition on metabolic 
response and postoperative ileus”. Curr Opin Clin Nutr Metab Care, 7(5), pp. 577–583. 
8. Lewis SJ, Egger M, Sylvester PA, et al (2001), "Early enteral feeding versus 'nil 
by mouth' after gastrointestinal surgery: systematic review and meta-analysis of 
controlled trials". BMJ, 323(7316), pp. 773–776. 
9. Watt DG, McSorley ST, Horgan PG, et al (2015), “Enhanced recovery after 
surgery: which components, if any, impact on the systemic inflammatory response 
following colorectal surgery?: a systematic review”. Medicine, 94(36), e1286. 

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_ket_qua_cho_an_som_sau_mo_tren_benh_nhan_phau_thu.pdf