Nghiên cứu hiệu quả biện pháp gây xơ bọt trong điều trị các bệnh nhân suy tĩnh mạch chi dưới mạn tính

Cơ sở nghiên cứu: Suy tĩnh mạch chi dưới mạn

tính (TMCDMT) là bệnh lý khá phổ biến hiện nay

với rất nhiều biện pháp điều trị can thiệp đơn giản,

an toàn và hiệu quả; một trong số đó là biện pháp

gây xơ bọt trong điều trị suy TMCDMT. Đây là

biện pháp đã được áp dụng rất rộng rãi trên thế giới,

tuy nhiên vẫn còn hạn chế ở Việt Nam.

Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả cũng như các tác

dụng phụ và biến chứng của biện pháp gây xơ bọt

trong điều trị các bệnh nhân suy TMCDMT.

Đối tượng và phương pháp: Tiến cứu can thiệp

trên 62 bệnh nhân suy TMCDMT có chỉ định điều

trị gây xơ bọt

pdf 6 trang phuongnguyen 60
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu hiệu quả biện pháp gây xơ bọt trong điều trị các bệnh nhân suy tĩnh mạch chi dưới mạn tính", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu hiệu quả biện pháp gây xơ bọt trong điều trị các bệnh nhân suy tĩnh mạch chi dưới mạn tính

Nghiên cứu hiệu quả biện pháp gây xơ bọt trong điều trị các bệnh nhân suy tĩnh mạch chi dưới mạn tính
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 75+76.2016 131
Nghiên cứu hiệu quả biện pháp gây xơ bọt trong 
điều trị các bệnh nhân suy tĩnh mạch chi dưới 
mạn tính
Lê Thị Thu Trang*, Phạm Thắng**, Nguyễn Trung Anh*
Bệnh viện Lão khoa Trung ương*
Trường Đại học Y Hà Nội**
TÓM TẮT
Cơ sở nghiên cứu: Suy tĩnh mạch chi dưới mạn 
tính (TMCDMT) là bệnh lý khá phổ biến hiện nay 
với rất nhiều biện pháp điều trị can thiệp đơn giản, 
an toàn và hiệu quả; một trong số đó là biện pháp 
gây xơ bọt trong điều trị suy TMCDMT. Đây là 
biện pháp đã được áp dụng rất rộng rãi trên thế giới, 
tuy nhiên vẫn còn hạn chế ở Việt Nam. 
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả cũng như các tác 
dụng phụ và biến chứng của biện pháp gây xơ bọt 
trong điều trị các bệnh nhân suy TMCDMT. 
Đối tượng và phương pháp: Tiến cứu can thiệp 
trên 62 bệnh nhân suy TMCDMT có chỉ định điều 
trị gây xơ bọt. 
Kết quả: Hiệu quả điều trị: Sau 2 và 4 tuần can 
thiệp, các bệnh nhân đều cải thiện về: các triệu 
chứng lâm sàng: đau giảm từ 27.4% xuống 5%, 
nặng chân từ 79% xuống 11%, phù từ 54.8% xuống 
3%, mỏi chân từ 37.1% xuống 3%; phân độ CEAP: 
C3 và C4 giảm từ 71% xuống 3.2%. Phân độ C5 
và C6 sau điều trị không còn; thang điểm độ nặng 
lâm sàng (VCSS) giảm từ 5.56 xuống 3.34 điểm, 
thời gian dòng chảy ngược từ 2.092s xuống 0.29s. 
Tác dụng phụ và biến chứng: Sau 4 tuần can thiệp, 
40.3% có đau và 24.2% có thâm da dọc theo đường 
đi của tĩnh mạch; không xuất hiện trường hợp nào 
có biến chứng của gây xơ bọt. 
Kết luận: Gây xơ bọt trong điều trị suy TMCDMT 
không những cải thiện hiệu quả về mặt lâm sàng 
(triệu chứng, phân độ CEAP, thang điểm VCSS) 
mà cả về cận lâm sàng (thời gian dòng chảy ngược). 
Hai tác dụng phụ thường gặp nhất là đau và thâm 
da, biện pháp khá an toàn vì không gặp biến 
chứng nào.
Từ khóa: Suy tĩnh mạch chi dưới mạn tính, gây 
xơ bọt.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Suy TMCDMT đã và đang trở thành vấn đề 
sức khỏe toàn cầu với số lượng bệnh nhân ngày 
càng gia tăng, cao nhất lên tới 71% [2]. Suy 
TMCDMT có thể không triệu chứng hoặc chỉ 
ảnh hưởng tới chất lượng cuộc sống, tuy nhiên 
những trường hợp nặng có thể gây ra những biến 
chứng nặng nề, chính vì vậy suy TMCDMT cần 
phải được điều trị. Hiện nay trên thế giới đã áp 
dụng rất nhiều các biện pháp khác nhau trong 
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 75+76.2016132
điều trị suy TMCDMT, bao gồm các biện pháp 
không dùng thuốc, có dùng thuốc và điều trị có 
xâm nhập. Gây xơ bọt là một trong những biện 
pháp điều trị có xâm nhập được sử dụng khá rộng 
rãi hiện nay trên thế giới với những ưu điểm nổi 
bật: hiệu quả, an toàn, áp dụng được với nhiều loại 
tĩnh mạch có kích thước khác nhau. Tuy nhiên ở 
Việt Nam hiện nay còn ít nghiên cứu về hiệu quả 
cũng như tính an toàn của biện pháp gây xơ bọt. 
Chính vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề 
tài này với mục tiêu sau: Đánh giá hiệu quả, các tác 
dụng phụ và biến chứng của biện pháp gây xơ bọt 
trong điều trị suy TMCDMT.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
62 bệnh nhân được chẩn đoán suy TMCDMT 
ở cả 2 giới, tuổi trên 18 được điều trị tại Bệnh viện 
Lão khoa Trung ương từ tháng 12/2011 đến tháng 
09/2012 có đủ các tiêu chuẩn sau:
 - Được chẩn đoán suy TMCDMT thông qua 
các tiêu chuẩn lâm sàng [2,10] và thời gian dòng 
chảy ngược kéo dài > 0.5s trên siêu âm Dupplex [8].
 - Bệnh nhân có suy TMCDMT từ phân độ 
C2 trở lên theo phân độ CEAP (phân độ theo lâm 
sàng, theo nguyên nhân, theo giải phẫu và theo sinh 
bệnh học) [8].
 - Vị trí tổn thương là các tĩnh mạch hiển lớn, 
hiển bé và các nhánh có đường kính nhỏ hơn 7 - 8 
mm, thẳng hoặc ngoằn ngoèo.
 - Tiêu chuẩn loại trừ: đang có huyết khối tĩnh 
mạch, có bệnh lý gây rối loạn đông máu, bệnh lý 
động mạch ngoại vi, đang trong tình trạng nhiễm 
trùng, tiền sử dị ứng với nhiều loại thuốc, phụ nữ 
có thai.
 - Bệnh nhân đồng ý tham gia nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu tiến cứu can thiệp không nhóm chứng.
Cỡ mẫu
Lấy mẫu thuận tiện.
Phương pháp tiến hành
Số liệu được thu thập theo sơ đồ nghiên cứu với 
mẫu bệnh án thống nhất.
Các bệnh nhân tham gia nghiên cứu được khám, 
điều trị theo một sơ đồ chung bao gồm:
 - Bước 1: Các bệnh nhân đến được khám lâm 
sàng, siêu âm Dupplex và các xét nghiệm máu cơ 
bản (tế bào máu ngoại vi, sinh hóa máu, đông máu 
cơ bản, HIV, HBsAg) phục vụ cho can thiệp.
 - Bước 2: Bệnh nhân được chẩn đoán xác định 
suy TMCDMT và đồng ý tham gia nghiên cứu sẽ 
được tiến hành gây xơ bọt theo quy trình chuẩn [6].
 - Bước 3: Đánh giá hiệu quả, các tác dụng phụ 
và biến chứng của biện pháp gây xơ bọt trong điều 
trị suy TMCDMT sau 2 và 4 tuần:
Sự thay đổi các triệu chứng lâm sàng, phân 
độ CEAP và thang điểm VCSS (thang điểm chất 
lượng cuộc sống).
Sự thay đổi thời gian dòng chảy ngược trên siêu 
âm Dupplex.
 - Các tác dụng phụ và biến chứng.
Phương pháp xử lý số liệu
Các số liệu được xử lý theo chương trình toán 
thống kê SPSS 16.0. Sử dụng các thuật toán: tính 
tỷ lệ phần trăm, tính giá trị trung bình. Sử dụng test 
χ2 để phân tích mối liên quan giữa các biến, T-test 
để so sánh giá trị trung bình. Sự khác biệt có ý nghĩa 
thống kê khi p < 0,05.
KẾT QUẢ
Đặc điểm chung của các bệnh nhân nghiên cứu
Tuổi trung bình của các bệnh nhân trong nghiên 
cứu của chúng tôi là 53.9 ± 11.6 (tuổi), dao động từ 
30-72 tuổi; đa số các bệnh nhân bị bệnh là nữ giới 
chiếm 80.6%; phần lớn các bệnh nhân đều có tiền 
sử gia đình có người thân bị suy TMCD (61.3%) và 
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 75+76.2016 133
có nghề nghiệp phải đứng hoặc ngồi lâu trên 8 giờ/
ngày (60%). Triệu chứng thường gặp nhất của các 
bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu là tức nặng chân 
và phù; hầu hết các bệnh nhân đến khám đều nằm 
ở phân độ lâm sàng nặng – C4 theo phân độ CEAP.
Đánh giá hiệu quả, tác dụng phụ và biến chứng 
của biện pháp gây xơ bọt trong điều trị suy 
TMCDMT
 Đau nhức
0
5
10
15
20
25
30
35
40
45
50
Nặng chân Phù chân Mỏi chân
Trước CT
Sau CT 2 tuần
Sau CT 4 tuần
Biểu đồ 1. Biến đổi lâm sàng trước và sau điều trị
Các bệnh nhân sau can thiệp 2 và 4 tuần, tất cả các 
triệu chứng lâm sàng đều cải thiện rõ rệt so với trước 
can thiệp (đau nhức chân 27.4% → 5%; nặng chân 
79% → 11%; phù 54.8% → 3%; mỏi chân 37.1% → 3%). 
Có tới 59 bệnh nhân cải thiện ít nhất 1 triệu chứng 
lâm sàng, chiếm 95%.
 C0
0
5
10
15
20
25
30
35
40
45
50
C1 C2 C3 C4 C5 C6
Trước CT
Sau CT 2 tuần
Sau CT 4 tuần
Biểu đồ 2. So sánh kết quả điều trị theo phân độ CEAP
Sau thời gian điều trị 2 và 4 tuần, phân độ C3 và 
C4 giảm từ 71% xuống còn 3.2%. Các phân độ nặng 
C5 và C6 sau điều trị không còn.
 Trước CT Sau CT 2 tuần Sau CT 4 tuần
0
1
2
3
4
5
6
ay đổi VCSS sau điều trị
Trước CT
Sau CT 2 tuần
Sau CT 4 tuần5.56 3.47 3.34
Sau thời gian can thiệp 2 và 4 tuần, thang điểm 
VCSS giảm có ý nghĩa so với trước điều trị (từ 5.56 
điểm giảm → 3.47 điểm sau 2 tuần và → 3.34 điểm 
sau 4 tuần).
Biểu đồ 3. Thay đổi thang điểm độ nặng lâm sàng sau 
điều trị
Trước CT
Sau CT 2 tuần
Sau CT 4 tuần
ay đổi thời gian DCN sau điều trị
Trước CT Sau CT 4 tuầnSau CT 2 tuần
Giây
2.5
1.5
1
0.5
0
2
2.092
0.313 0.29
Biểu đồ 4. Thay đổi thời gian dòng chảy ngược sau 
điều trị
Sau 2 và 4 tuần can thiệp, thời gian dòng chảy 
ngược giảm 2.09s → 0.31s sau 2 tuần và → 0.29s sau 
4 tuần. Có tới 47 bệnh nhân (74.6%) không còn 
dòng chảy ngược trên siêu âm Duplex.
Bảng 1. Các tác dụng phụ của biện pháp gây xơ bọt 
sau thời gian can thiệp 4 tuần
Các tác dụng phụ n %
Đau ngay sau tiêm 9 1 6 . 1
Đau trong thời gian theo dõi 2 5 4 0 . 3
Thâm da 1 5 2 4 . 2
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 75+76.2016134
Tác dụng phụ hay gặp nhất là đau (40.3%) và 
thâm da (24.2%) dọc theo đường đi của tĩnh mạch.
Trong số 62 bệnh nhân được gây xơ bọt và được 
theo dõi sau gây xơ trong vòng 2 tuần và 4 tuần, 
chúng tôi không gặp bất kỳ trường hợp nào có các 
biến chứng như: Huyết khối tĩnh mạch nông, huyết 
khối tĩnh mạch sâu hay vi huyết tắc do khí.
BÀN LUẬN
Gây xơ bọt là phương pháp điều trị can thiệp 
đã đươc chứng minh hiệu quả trong điều trị các 
bệnh nhân suy TMCDMT qua rất nhiều nghiên 
cứu của các tác giả trong và ngoài nước. Theo nghiên 
cứu của chúng tôi, các bệnh nhân sau can thiệp 2 
và 4 tuần, tất cả các triệu chứng lâm sàng đều cải 
thiện rõ rệt : đau giảm 27.4% → 5%; nặng chân 
79% → 11%; phù 54.8 → 3%; mỏi chân 37,1% → 
3%. Có 59 bệnh nhân có cải thiện một hoặc nhiều 
triệu chứng lâm sàng, chiếm 95%. Kết quả từ nghiên 
cứu của chúng tôi gần tương đương với tỷ lệ trong 
nghiên cứu của Raha N cùng cs 2009 là 93% [9], 
nghiên cứu của Phạm Thắng và Nguyễn Trung 
Anh 2010 [1]: Sau gây xơ 1 tháng, chỉ còn 10% 
bệnh nhân còn cảm giác đau và 6.4% bệnh nhân 
còn phù chân.
Không những vậy sau thời gian điều trị 2 và 4 tuần, 
phân độ C3 và C4 trong nghiên cứu của chúng tôi 
giảm từ 71% → 3.2%. Các phân độ nặng C5 và C6 
sau điều trị không còn. Tuy nhiên, sau can thiệp vẫn 
còn 16 bệnh nhân (25.8%) nằm ở phân độ C2, có 
thể là do thời gian theo dõi sau can thiệp các bệnh 
nhân của chúng tôi chưa đủ dài (tối đa là 1 tháng) 
nên các tĩnh mạch chưa xẹp hết hoàn toàn. Kết quả 
nghiên cứu này của chúng tôi cũng tương tự như kết 
quả trong nghiên cứu của Phạm Thắng và Nguyễn 
Trung Anh 2010 [1], theo dõi trong vòng 1 tháng 
sau gây xơ thấy rằng: nhóm phân độ CEAP nặng 
hơn (C3-C4) giảm từ 30% xuống 13.3% sau điều 
trị; 60% số bệnh nhân còn lại đã không còn dấu 
hiệu lâm sàng nào, và sau gây xơ vẫn còn 26.7% 
các bệnh nhân nằm ở phân độ C2. Nghiên cứu của 
Bountouroglou DG cùng cs 2005 [4] nhận thấy 
sự thay đổi phân độ CEAP trên các bệnh nhân sau 
can thiệp gây xơ giảm trung bình từ C4 xuống còn 
C1. Kết quả này có khác với kết quả nghiên cứu của 
chúng tôi do các bệnh nhân trong nghiên cứu của 
tác giả này được điều trị gây xơ trong nhiều đợt và 
thời gian theo dõi dài hơn (3 tháng).
Để đánh giá về sự hài lòng của bệnh nhân sau 
điều trị, chúng tôi sử dụng thang điểm chất lượng 
cuộc sống (VCSS). Thang điểm VCSS trong nghiên 
cứu của chúng tôi giảm có ý nghĩa từ 5.56 điểm → 
3.47 điểm sau 2 tuần và →3.34 điểm sau 4 tuần. Kết 
quả trong nghiên cứu của chúng tôi khác với kết quả 
thu được từ nghiên cứu của Bountouroglou DG 
cùng cs 2005 [4] trên 30 bệnh nhân được điều trị 
gây xơ, sau can thiệp thang điểm VCSS trung bình 
của các bệnh nhân này giảm một cách rất ngoạn 
mục (từ 5 điểm → 1 điểm, giảm 80%). Sự khác biệt 
này được lý giải là do các tác giả trên can thiệp gây 
xơ cho các bệnh nhân không chỉ 1 lần và theo dõi 
sau can thiệp với thời gian là 3 tháng. Một nghiên 
cứu khác của Blaise S và cs năm 2010 [3] thực hiện 
trên 143 bệnh nhân được gây xơ bọt, sau đó theo 
dõi trong thời gian kéo dài hơn là 6 tháng và 3 năm, 
tác giả nhận thấy tại thời điểm sau 6 tháng, thang 
điểm VCSS giảm trung bình từ 4.5 điểm xuống còn 
1.3 điểm, giảm 71%; tại thời điểm sau 3 năm thang 
điểm VCSS chỉ còn 0.8 điểm, giảm 82.2%. Từ các 
kết quả nghiên cứu trên cho thấy thời gian theo dõi 
càng dài thì thang điểm VCSS càng giảm rõ, chứng 
tỏ tình trạng lâm sàng của bệnh nhân càng được 
cải thiện.
Không những cải thiện các triệu chứng lâm 
sàng, biện pháp gây xơ bọt còn giúp cải thiện cả thời 
gian dòng chảy ngược. Sau 2 và 4 tuần can thiệp, 
thời gian dòng chảy ngược giảm có ý nghĩa (từ 2.09s 
→ 0.31s sau 2 tuần và → 0.29s sau 4 tuần). Sau can 
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 75+76.2016 135
thiệp 4 tuần có tới 47 bệnh nhân (chiếm 74.6%) 
không còn dòng chảy ngược trên siêu âm Duplex. 
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng tương tự 
như kết quả nghiên cứu của một số tác giả nước 
ngoài: Hamel-Denos C [7] năm 2003 theo dõi sau 
can thiệp 3 tuần, có 84% bệnh nhân hết dòng chảy 
ngược trên siêu âm; năm 2005 Bountouroglou DG 
cùng cs [4] thấy rằng có 87% bệnh nhân hết dòng 
chảy ngược trên siêu âm sau thời gian can thiệp 3 
tháng; gần đây năm 2009, có 76% bệnh nhân hết 
dòng chảy ngược trên siêu âm sau thời gian 1 tháng 
can thiệp trong nghiên cứu của Raha N [9] .
Bất kỳ phương pháp điều trị can thiệp nào cũng 
có những tác dụng phụ và biến chứng nhất định. 
Nghiên cứu của chúng tôi sử dụng chất gây xơ chủ 
yếu là Polidocanol 2-3% là nồng độ khá cao. Tác 
dụng phụ hay gặp nhất trong nghiên cứu là đau 
(40.3%) và thâm da (24.2%) dọc theo đường đi của 
tĩnh mạch. Nghiên cứu của chúng tôi cho những kết 
quả tương tự như nghiên cứu của các tác giả Darke 
SJ 2006 [6], Coleridge Smith 2009 và Blaise 2010, 
các tác giả này cũng sử dụng chất gây xơ chủ yếu là 
Polidocanol 1% và 3%. Tỷ lệ đau trong nghiên cứu 
của chúng tôi tương tự như tỷ lệ đau mà tác giả Raha 
N ghi nhận thấy trong nghiên cứu vào năm 2009 
(48.4% với 45%) [9], trong nghiên cứu này, tác giả 
Raha N cũng sử dụng nồng độ chất gây xơ cao (3%) 
và thâm da cũng gặp với tỷ lệ lên tới 23%.
Ngoài ra, trong số 62 bệnh nhân được gây xơ 
bọt và được theo dõi sau gây xơ trong vòng 2 tuần 
và 4 tuần, chúng tôi không gặp bất kỳ trường hợp 
nào có các biến chứng như: Huyết khối tĩnh mạch 
nông, huyết khối tĩnh mạch sâu hay vi huyết tắc do 
khí. Kết quả từ một số nghiên cứu của các tác giả 
nước ngoài (Cavezzi A và cs 2012 [5], Raha N và cs 
2010 [9] ) cũng cho thấy các biến chứng của biện 
pháp điều trị gây xơ bọt cũng xuất hiện với tỷ lệ rất 
thấp. Từ các kết quả trên có thể thấy rằng gây xơ 
bọt là một biện pháp điều trị khá an toàn đối với 
người bệnh.
KẾT LUẬN
Gây xơ bọt trong điều trị suy TMCDMT là biện 
pháp điều trị hiệu quả vì không những cải thiện về 
lâm sàng (triệu chứng, phân độ CEAP, thang điểm 
VCSS) mà cả về cận lâm sàng (thời gian dòng chảy 
ngược). Hai tác dụng phụ thường gặp nhất là đau và 
thâm da, biện pháp khá an toàn vì không gặp biến 
chứng nào.
SUMMARY
Background: Chronic venous insufficiency is a common disease with many safe and effective modalities 
of treatment; one of them is sclerotherapy. This method is commonly used in many hospitals all over the 
world, but is still less common in Vietnam. 
Objectives: To evaluate the effectiveness, side effects and complications of sclerotherapy in treatment 
of chronic venous insufficiency. 
Subjects and method: Prospective interventional study for 62 patients diagnosed with chronic venous 
insuffiency who indicated for sclerotherapy.
Results: Effectiveness of treatment: 2 and 4 weeks after intervention, the patients improved about: 
clinical manifestations: pain reduced from 27.4% to 5%, swelling reduced from 79% to 11%, edema 
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 75+76.2016136
reduced from 54.8% to 3%, weakness reduced from 37.1% to 3%; CEAP classification: C3 and C4 grade 
declined from 71% to 3.2%; no patients with C5 and C6 grade; VCSS score declined from 5.56 to 3.34, 
retrograde venous flow time dropped from 2.092s to 0.29s. Side effects and complications: 4 weeks after 
intervention, 40.3% of patients had pain and 24.2% of them had discolouration along veins; there were no 
case with severe complications. 
Conclusion: Sclerotherapy is very effective in treatment of chronic venous insufficiency base on 
good results in clinical improvements (symptoms, CEAP classification, VCSS score) and ultrasound 
assessments (retrograde venous flow time). The most two common side effects were pain and skin 
discolouration, it was also very safe with no case had severe complications.
Keywords: Chronic venous insufficiency, sclerotherapy.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Thắng, Nguyễn Trung Anh, 2010. Hiệu quả điều trị bệnh suy tĩnh mạch mạn tính chi dưới bằng 
phương pháp gây xơ bọt. Tạp chí Nghiên cứu Y học, tr 181 - 186.
2. Quốc Bảo, 2009. Giãn tĩnh mạch chi dưới - Bách khoa thư bệnh học. Nhà xuất bản Y học, tr 1728.
3. Blaise S, Bosson JL, Diamand JM, 2010. Ultrasound guided sclerotherapy of the great saphenous vein 
with 1 % vs 3 % Polidocanol foam: a multicentre double-blind randomised trial with 3 year follow up. Eur 
J Vasc endovasc Surg; 39 - in press.
4. Bountouroglou DG, Azzam M, Kakkos SK et al, 2005. Ultrasound-guided Foam Sclerotherapy 
Combined with Sapheno-femoral Ligation Compared to Surgical Treatment of Varicose Veins: Early 
Results of a Randomised Controlled Trial. Eur J Vasc Endovasc Surg.08.024.
5. Cavezzi A, Parsi K, 2012. Complications of foam sclerotherapy.Phlebology. 27 Suppl 1:46-51.
6. Darke SG, Baker SJA, 2006. Ultrasound-guided foam sclerotherapy for the treatment of varicose 
veins. Original article. 
7. Hamel-Desnos C, Desnos P, Wollmann JC, et al, 2003. Evalution of the efficacy of polidocanol in 
form of foam compared to liquid form in sclerotherapy of the greater saphenous vein: initial results. 
Dermatol Surg. 29: 1170-1175.
8. Kenneth Myers, Amy Clough, 2004. Chronic venous disease in the lower limbs. Making sense of 
vascular ultrasound, p.211-212.
9. Raha N, Suman R et al, 2010. Effectiveness of foam sclerotherapy for the treatment of varicose veins.
Vasc Med. 15: 27 
10. Roberto Simkin, et al, 2004. Classification of primary varicose viens: a consensus of Latin America. 
Publicado Phlebolymphology. 44: 244-8.

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_hieu_qua_bien_phap_gay_xo_bot_trong_dieu_tri_cac.pdf