Nghiên cứu đánh giá tỷ lệ mắc đái tháo đường của quân nhân làm việc tại các sân bay ô nhiễm dioxin ở Việt Nam

Mục tiêu: Đánh giá tỷ lệ mắc đái tháo đường (ĐTĐ) týp 2 của quân nhân (QN) tại 3 sân bay

ô nhiễm dioxin ở Việt Nam là Biên Hòa, Đà Nẵng và Phù Cát. Đối tượng và phương pháp:

Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 699 QN (666 nam và 33 nữ) tại 3 sân bay ô nhiễm dioxin

Biên Hòa, Đà Nẵng và Phù Cát từ tháng 8 - 12/2017. Định lượng nồng độ glucose và HbA1c

máu khi đói nhằm ước tính tỷ lệ ĐTĐ và tiền ĐTĐ. Kết quả: Tỷ lệ QN nam có nồng độ glucose

> 7,0 mmol/l và HbA1c > 6,4% lần lượt là 2,1% và 1,5%, tỷ lệ ĐTĐ chung: 2,9%. Chỉ có 1 QN

nữ có HbA1c > 6,4% (3,0%) và không gặp QN nữ nào có nồng độ glucose > 7,0 mmol/l. Ở nam

giới, tỷ lệ tiền ĐTĐ theo nồng độ glucose là 21,2% và theo chỉ số HbA1c là 20,1%, tỷ lệ tiền

ĐTĐ chung: 35,3%. Ở nữ giới, các tỷ lệ này lần lượt là 33,3%; 30,3% và 45,5%. Ở nam giới,

có mối tương quan thuận có ý nghĩa thống kê giữa tuổi, số năm công tác tại sân bay với nồng

độ glucose và giữa tuổi với HbA1c. Kết luận: Khảo sát trên QN công tác tại các sân bay ô

nhiễm dioxin cho thấy tỷ lệ ĐTĐ thấp, nhưng tỷ lệ tiền ĐTĐ cao. Nguy cơ ĐTĐ ở QN tăng dần

theo tuổi và thời gian công tác tại các sân bay ô nhiễm dioxin.

pdf 7 trang phuongnguyen 160
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu đánh giá tỷ lệ mắc đái tháo đường của quân nhân làm việc tại các sân bay ô nhiễm dioxin ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu đánh giá tỷ lệ mắc đái tháo đường của quân nhân làm việc tại các sân bay ô nhiễm dioxin ở Việt Nam

Nghiên cứu đánh giá tỷ lệ mắc đái tháo đường của quân nhân làm việc tại các sân bay ô nhiễm dioxin ở Việt Nam
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 6-2020 
 8 
NGHIÊN CỨU ĐÁNH GIÁ TỶ LỆ MẮC ĐÁI THÁO ĐƯỜNG CỦA 
QUÂN NHÂN LÀM VIỆC TẠI CÁC SÂN BAY Ô NHIỄM DIOXIN 
Ở VIỆT NAM 
 Nguyễn Thị Thu1, Phan Văn Mạnh2, Phạm Thế Tài3 
 Nguyễn Minh Phương2, Đỗ Phương Hường1 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Đánh giá tỷ lệ mắc đái tháo đường (ĐTĐ) týp 2 của quân nhân (QN) tại 3 sân bay 
ô nhiễm dioxin ở Việt Nam là Biên Hòa, Đà Nẵng và Phù Cát. Đối tượng và phương pháp: 
Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 699 QN (666 nam và 33 nữ) tại 3 sân bay ô nhiễm dioxin 
Biên Hòa, Đà Nẵng và Phù Cát từ tháng 8 - 12/2017. Định lượng nồng độ glucose và HbA1c 
máu khi đói nhằm ước tính tỷ lệ ĐTĐ và tiền ĐTĐ. Kết quả: Tỷ lệ QN nam có nồng độ glucose 
> 7,0 mmol/l và HbA1c > 6,4% lần lượt là 2,1% và 1,5%, tỷ lệ ĐTĐ chung: 2,9%. Chỉ có 1 QN 
nữ có HbA1c > 6,4% (3,0%) và không gặp QN nữ nào có nồng độ glucose > 7,0 mmol/l. Ở nam 
giới, tỷ lệ tiền ĐTĐ theo nồng độ glucose là 21,2% và theo chỉ số HbA1c là 20,1%, tỷ lệ tiền 
ĐTĐ chung: 35,3%. Ở nữ giới, các tỷ lệ này lần lượt là 33,3%; 30,3% và 45,5%. Ở nam giới, 
có mối tương quan thuận có ý nghĩa thống kê giữa tuổi, số năm công tác tại sân bay với nồng 
độ glucose và giữa tuổi với HbA1c. Kết luận: Khảo sát trên QN công tác tại các sân bay ô 
nhiễm dioxin cho thấy tỷ lệ ĐTĐ thấp, nhưng tỷ lệ tiền ĐTĐ cao. Nguy cơ ĐTĐ ở QN tăng dần 
theo tuổi và thời gian công tác tại các sân bay ô nhiễm dioxin. 
* Từ khóa: Dioxin; Chất da cam; Đái tháo đường týp 2; Quân nhân. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Dioxin là một nhóm các hợp chất hóa 
học tồn tại lâu dài trong môi trường cũng 
như trong cơ thể con người và các sinh 
vật khác. Từ năm 1962 - 1971, Quân đội 
Hoa Kỳ đã thực hiện một chiến dịch phun 
rải chất diệt cỏ ở Việt Nam (Chiến dịch 
Ranch Hand) với mục đích khai quang, 
bộc lộ các căn cứ quân sự của đối phương 
và phá hủy mùa màng. Tuy nhiên, chất 
diệt cỏ (khoảng 2/3 là chất da cam) đã bị 
ô nhiễm đồng đẳng độc nhất của dioxin 
là 2,3,7,8-tetrachlorodibenzo-p-dioxin 
(2,3,7,8-tetraCDD). Một số căn cứ không 
quân cũ của Hoa Kỳ tại Việt Nam được 
sử dụng để lưu trữ chất diệt cỏ trong 
chiến dịch như sân bay Biên Hòa, 
Đà Nẵng và Phù Cát là các điểm nóng ô 
nhiễm dioxin [7]. QN và người dân làm 
việc, sinh sống trong và xung quanh 
những căn cứ không quân này có nguy 
cơ phơi nhiễm dioxin cao. Một số nghiên 
cứu dịch tễ học gần đây cho thấy nồng 
độ dioxin trong sữa mẹ của những 
người sống gần sân bay Biên Hòa và 
Đà Nẵng cao gấp 3 - 4 lần so với ở 
miền Bắc [3]. 
1Khoa Máu - Độc - Xạ và Bệnh nghề nghiệp, Bệnh viện Quân y 103, Học viện Quân y 2Khoa Y học Quân binh chủng, Học viện Quân y 
3Viện Nghiên cứu Y Dược học Quân sự, Học viện Quân y 
Người phản hồi: Phạm Thế Tài ([email protected]) 
 Ngày nhận bài: 31/3/2020 
 Ngày bài báo được đăng: 03/8/2020 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 6-2020 
 9 
Tương tự, nồng độ dioxin trong máu của 
nam giới sống gần sân bay Phù Cát và 
Biên Hòa cao hơn có ý nghĩa thống kê so 
với những người sống ở miền Bắc [4]. 
Điều này cho thấy mối lo ngại về ảnh 
hưởng của dioxin đối với sức khỏe con 
người ở những điểm nóng này. 
Từ năm 1994, các nhà khoa học của 
Viện Hàn lâm Khoa học, Kỹ thuật và Y 
học Quốc gia Hoa Kỳ đã đánh giá toàn 
diện thông tin khoa học và y tế về ảnh 
hưởng của phơi nhiễm dioxin lên sức 
khỏe con người. Theo bảng phân loại cập 
nhật mới nhất cho tới thời điểm hiện tại 
(năm 2018), mối liên quan giữa phơi 
nhiễm dioxin và ĐTĐ týp 2 thuộc nhóm có 
bằng chứng đầy đủ hay nhóm có bằng 
chứng hạn chế hoặc gợi ý vẫn chưa 
được quyết định, do kết quả giữa các 
nghiên cứu không thống nhất. Dù vậy, 
năm 2008, bệnh ĐTĐ được Bộ Y tế Việt 
Nam xếp vào một trong 17 bệnh liên quan 
đến dioxin [1]. ĐTĐ týp 2 chiếm 90 - 95% 
các trường hợp ĐTĐ, song nguyên nhân 
của ĐTĐ týp 2 vẫn chưa được tìm hiểu 
đầy đủ, các yếu tố nguy cơ được biết đến 
là tuổi cao, béo phì, ít vận động, chế độ 
dinh dưỡng [8]. Do đó, cần thêm các 
nghiên cứu dịch tễ học sâu hơn để làm rõ 
mối liên quan giữa dioxin và bệnh ĐTĐ. 
Mục tiêu của nghiên cứu này nhằm: 
Đánh giá tỷ lệ mắc ĐTĐ của quân nhân 
tại 3 sân bay ô nhiễm dioxin ở Việt Nam 
thông qua phân tích nồng độ glucose và 
HbA1c trong máu lúc đói. 
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU 
1. Đối tượng và địa điểm nghiên cứu 
699 QN làm việc tại 3 sân bay quân sự 
bị ô nhiễm dioxin: Biên Hòa, Đà Nẵng và 
Phù Cát. Thời gian nghiên cứu từ tháng 
8 - 12/2017. 
* Tiêu chuẩn lựa chọn: 
Quân nhân từ 20 - 55 tuổi, làm việc ở 
sân bay trong thời gian ít nhất 1 năm. 
Số lượng đối tượng ở mỗi sân bay 
được phân bố căn cứ vào mức độ ô 
nhiễm dioxin trong môi trường. Sân bay bị 
ô nhiễm nặng nhất là Biên Hòa (n = 305), 
tiếp theo là Đà Nẵng (n = 221) và Phù Cát 
(n = 173). Đối tượng nghiên cứu được 
cán bộ y tế giải thích rõ nội dung và tự 
nguyện ký nhận vào phiếu đồng ý tham gia. 
2. Phương pháp nghiên cứu 
* Thiết kế nghiên cứu: Mô tả cắt ngang. 
* Các bước tiến hành: 
- Thu thập thông tin: QN được phỏng 
vấn và khám sức khỏe tại bệnh xá quân y 
tại từng sân bay. Thông tin cơ bản như 
tuổi, giới tính, thói quen hút thuốc, uống 
rượu, trình độ giáo dục, tình trạng hôn 
nhân và cư trú được thu thập bằng bộ 
câu hỏi và ghi lại trong hồ sơ nghiên cứu 
thống nhất. 
- Đo chiều cao, cân nặng. 
- Xác định nồng độ glucose và HbA1c 
trong huyết thanh: Các mẫu máu tĩnh 
mạch (5 ml) được thu thập từ mỗi đối 
tượng trong thời gian từ 7 giờ 30 phút - 
11 giờ 00 sáng, sau khi nhịn ăn qua đêm 
và được bảo quản trong các ống nghiệm 
heparin để đo nồng độ glucose và ống 
nghiệm EDTA để đo HbA1c. 
* Tiêu chuẩn chẩn đoán tiền ĐTĐ, ĐTĐ: 
Ngưỡng tham chiếu cho nồng độ 
glucose và HbA1c huyết tương tuân theo 
Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị ĐTĐ týp 
2 của Bộ Y tế (2017) dựa vào tiêu chuẩn 
chẩn đoán ĐTĐ của Hiệp hội Đái tháo 
đường Hoa Kỳ (ADA), cụ thể như sau: 
- Chẩn đoán ĐTĐ khi glucose máu lúc 
đói > 7,0 mmol/l và/hoặc HbA1c > 6,4%. 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 6-2020 
 10 
- Chẩn đoán tiền ĐTĐ khi glucose máu 
lúc đói từ 5,6 - 7,0 mmol/l và/hoặc HbA1c 
từ 5,7 - 6,4%. 
* Phân tích thống kê: 
Sử dụng phần mềm SPSS (21.0) để 
phân tích thống kê. Đối tượng nghiên cứu 
được chia thành nhóm nam và nữ, hoàn 
thành các câu hỏi và được lấy mẫu máu 
phân tích. Thông tin chung, nồng độ 
glucose và HbA1c huyết tương cũng như 
tỷ lệ ở ngưỡng bình thường, tiền ĐTĐ và 
ĐTĐ được mô tả bằng giá trị trung bình 
( ± SD) hoặc tỷ lệ %. Mối liên quan của 
nồng độ glucose và HbA1c huyết tương 
với tuổi (năm), thời gian làm việc (năm) 
và chỉ số khối cơ thể (BMI) được thể hiện 
bằng các hệ số tương quan tuyến tính 
thông qua phân tích Spearman’s rho, 
có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. 
Nghiên cứu được thông qua bởi Hội 
đồng Đạo đức Nghiên cứu Y sinh của 
Học viện Quân y (số 2061/QĐ-HVQY). 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Bảng 1: Đặc điểm đối tượng nghiên cứu. 
Nam Nữ Đặc điểm 
± SD ± SD 
Tuổi 41,6 ± 6,9 47,8 ± 5,1 
Chiều cao (cm) 167,3 ± 4,7 156,2 ± 4,5 
Cân nặng (kg) 65,5 ± 7,9 54,1 ± 7,1 
BMI (kg/m2) 23,4 ± 2,4 22,1 ± 2,3 
Thời gian làm việc (năm) 17,4 ± 7,7 21,4 ± 9,1 
Hút thuốc (%) 63,7 0,0 
Uống rượu (%) 94,0 8,8 
Sinh hoạt tại đơn vị (%) 34,2 89,3 
(SD: Độ lệch chuẩn; Giá trị trung bình; BMI: Chỉ số khối cơ thể) 
Cả nhóm nam và nữ đều có thời gian làm việc tại các sân bay ô nhiễm dioxin tương 
đối dài (17,4 và 21,4 năm). Chỉ số BMI trung bình trong giới hạn bình thường (< 25). 
Tỷ lệ hút thuốc và sử dụng rượu bia ở nam giới cao (63,7% và 93,4%) nhưng ở nữ khá 
thấp (lần lượt là 0,0% và 8,8%). 
Bảng 2: Giá trị trung bình của nồng độ glucose máu và HbA1c. 
Nam Nữ 
Chỉ số 
Min Max ± SD Min Max ± SD 
p 
Glucose (mmol/l) 2,8 14,0 5,1 ± 0,98 4,5 6,6 5,3 ± 0,66 0,25 
HbA1c (%) 1,9 10,4 5,2 ± 0,57 4,2 7,0 5,3 ± 0,57 0,23 
Giá trị trung bình của glucose huyết tương (< 5,6 mmol/l), giá trị trung bình của 
HbA1c (< 5,7%) ở nam và nữ đều trong giới hạn bình thường và không có sự khác biệt 
có ý nghĩa thống kê giữa 2 nhóm (p = 0,23). 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 6-2020 
 11 
Bảng 3: Tỷ lệ nồng độ glucose máu và HbA1c ở người khỏe mạnh, tiền đái tháo 
đường và đái tháo đường. 
HbA1c (n, %) 
Giới 
 6,4% 
Tổng 
(n, %) 
< 5,6 419 (62,9) 91 (13,7) 1 (0,2) 511 (76,7) 
5,6 - 7,0 97 (14,6) 40 (6,0) 4 (0,6) 141 (21,2) Glucose (mmol/l) 
> 7,0 6 (0,9) 3 (0,4) 5 (0,7) 14 (14,6) 
Nam 
Tổng (n, %) 522 (78,4) 134 (20,1) 10 (1,5) 666 (100,0) 
< 5,6 18 (54,5) 4 (12,1) 0 (0,0) 22 (72,6) 
5,6 - 7,0 4 (6,2) 6 (18,2) 1 (3,0) 11 (27,4) Glucose (mmol/l) 
> 7,0 0 (0,0) 0 (0,0) 0 (0,0) 0 (0,0) 
Nữ 
Tổng (n, %) 22 (60,7) 10 (30,3) 1 (3,0) 33 (100,0) 
19 QN nam (2,9%) mắc ĐTĐ, chỉ có 1 QN nữ có HbA1c > 6,4% (3,0%) và không có 
QN nữ nào có mức glucose > 7,0 mmol/l. Trong khi đó, tỷ lệ tiền ĐTĐ ở cả 2 nhóm 
đều cao, ở nam giới khoảng 1/5 (21,2% đối với chỉ số glucose máu và 20,2% đối với 
chỉ số HbA1c), ở nữ giới xấp xỉ 1/3 (33,3% đối với chỉ số glucose và 30,3% với chỉ số 
HbA1c). Khi tính tỷ lệ tiền ĐTĐ theo tiêu chuẩn, 35,3% QN nam và 45,5% QN nữ có 
glucose từ 5,6 - 7,0 mmol/l và/hoặc HbA1c từ 5,7 - 6,4%. 
Bảng 4: Mối tương quan giữa tuổi, thời gian làm việc tại các sân bay và BMI với 
glucose máu và HbA1c. 
Nam Nữ 
Chỉ số Glucose HbA1c Glucose HbA1c 
 r p r p r p r p 
Tuổi 0,11 0,004 0,13 0,001 -0,11 0,55 -0,20 0,27 
Thời gian làm việc 0,09 0,027 0,06 0,13 0,03 0,87 -0,04 0,83 
BMI 0,05 0,23 0,06 0,11 0,06 0,77 -0,06 0,77 
(r: hệ số tương quan; giá trị p theo phân tích Spearman’s rho) 
Ở nam giới, có mối tương quan thuận và có ý nghĩa thống kê mức độ yếu giữa tuổi 
và glucose máu (r = 0,11; p = 0,004) cũng như HbA1c (r = 0,13; p = 0,001). Thời gian 
làm việc tương quan thuận có ý nghĩa với glucose máu (r = 0,09; p = 0,027) nhưng 
không có ý nghĩa thống kê với HbA1c. Tuy nhiên, không có mối tương quan có ý nghĩa 
giữa BMI với glucose máu và HbA1c. Ở nữ giới, không có mối tương quan có ý nghĩa 
giữa tuổi, thời gian làm việc tại sân bay ô nhiễm dioxin và BMI với nồng độ glucose 
máu hoặc HbA1c. 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 6-2020 
 12 
BÀN LUẬN 
Trong nghiên cứu này, tỷ lệ hiện mắc 
ĐTĐ của các đối tượng xác định bằng 
mức glucose máu > 7,0 mmol/l và/hoặc 
HbA1c > 6,4% là 2,9%. Kết quả này cao 
hơn báo cáo trước của chúng tôi khi mô 
tả tình trạng sức khỏe của QN nam với 
tỷ lệ mắc ĐTĐ là 1,6% [5]. Trong một 
nghiên cứu khác ở 90 nam và 305 nữ 
sống quanh sân bay Đà Nẵng và Biên Hòa 
(tuổi trung bình nam: 38,8 và nữ: 39,9), 
tỷ lệ mắc ĐTĐ ở nam là 1,1% và ở nữ 
1,6% [2], thấp hơn so với tỷ lệ chung ở 
Việt Nam là 5,7% [9]. Tuy nhiên, tỷ lệ mắc 
ĐTĐ tăng theo tuổi, cao hơn 3 - 4 lần ở 
nhóm > 50 tuổi so với nhóm < 40 tuổi. 
Chúng tôi tìm thấy mối tương quan thuận 
có ý nghĩa thống kê mức độ yếu giữa 
glucose máu và HbA1c với tuổi ở nam 
giới. Mặc dù tỷ lệ ĐTĐ thấp, nhưng tỷ lệ 
tiền ĐTĐ khá cao, khoảng 35% đối với 
nam và 45% đối với nữ và cao hơn so với 
tỷ lệ chung ở Việt Nam là 13,7% [6]. Trên 
thực tế, các đối tượng trong nghiên cứu 
còn khá trẻ (trung bình khoảng 40 tuổi), 
do đó họ có thể có nguy cơ mắc ĐTĐ cao 
trong những năm về sau. 
Một số nghiên cứu dịch tễ học trên đối 
tượng là cựu chiến binh Hoa Kỳ và các 
nước đồng minh tham gia chiến dịch 
Ranch Hand được thực hiện để làm rõ 
mối liên quan giữa việc tiếp xúc với chất 
diệt cỏ và nguy cơ ĐTĐ. Nghiên cứu của 
Michalek và CS cho thấy mối liên quan 
giữa 2,3,7,8-TCDD và ĐTĐ ở cựu chiến 
binh sau khi phân tích được hiệu chỉnh 
cho thời gian tham gia chiến dịch và số 
ngày trực tiếp phun chất diệt cỏ [10]. 
Longnecker và CS đánh giá mối liên quan 
giữa nồng độ dioxin trong máu với tỷ lệ 
mắc ĐTĐ và nồng độ insulin và glucose 
máu ở 1.197 cựu chiến binh cho thấy mối 
liên quan giữa phơi nhiễm dioxin và ĐTĐ 
[11]. Một nghiên cứu dịch tễ với quy mô 
lớn về tỷ lệ mắc và tử vong do ĐTĐ được 
thực hiện trên 111.000 cựu chiến binh 
Hàn Quốc từng phục vụ trong chiến tranh 
Việt Nam. Kết quả cho thấy, nguy cơ mắc 
ĐTĐ týp 2 cao hơn ở những người phơi 
nhiễm chất diệt cỏ mức độ cao so với 
người phơi nhiễm ở mức độ thấp sau khi 
đã hiệu chỉnh về tuổi tác, cấp bậc, tình 
trạng hút thuốc, uống rượu, phơi nhiễm 
chất diệt cỏ nông nghiệp, hoạt động thể 
lực, trình độ học vấn, tình trạng kinh tế và 
BMI [12]. Tuy nhiên, khi thống kê tỷ lệ tử 
vong do ĐTĐ ở 180.639 cựu chiến binh 
Hàn Quốc tham chiến tại Việt Nam và có 
tiếp xúc với chất diệt cỏ, kết quả cho thấy 
không có sự khác biệt giữa các nhóm có 
mức độ phơi nhiễm chất diệt cỏ khác 
nhau. Một nghiên cứu khác theo dõi dọc 
20 năm trên các cựu chiến binh tham 
chiến tại Việt Nam cho thấy, các bất 
thường về nồng độ glucose máu, tỷ lệ 
ĐTĐ và tỷ lệ phải sử dụng thuốc kiểm 
soát ĐTĐ tăng lên và thời gian khởi phát 
ĐTĐ giảm khi phơi nhiễm với chất độc da 
cam ở nam giới. Trong khi đó, nghiên cứu 
không tìm thấy kết quả tương tự ở nữ 
giới [6]. Trong nghiên cứu này, chúng tôi 
tìm thấy mối liên quan thuận có ý nghĩa 
thống kê mức độ yếu giữa thời gian làm 
việc tại các sân bay và nồng độ glucose 
máu ở nam giới, cho thấy việc tiếp xúc 
lâu dài với dioxin nguồn gốc từ chất da 
cam tại sân bay làm tăng nguy cơ mắc ĐTĐ. 
Các tác nhân gây bệnh ĐTĐ týp 2 vẫn 
chưa được xác định đầy đủ, nhưng bệnh 
có mối liên hệ chặt chẽ với tình trạng 
thừa cân, béo phì, yếu tố sắc tộc, tiền sử 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 6-2020 
 13 
gia đình và tăng dần theo tuổi. Một số yếu 
tố nguy cơ liên quan đến bệnh ĐTĐ týp 2 
thường được đề cập bao gồm tình trạng 
mỡ thừa (béo phì), chế độ ăn uống và 
dinh dưỡng không phù hợp, ít hoạt động 
thể lực và hút thuốc [9]. Trong đó, tăng 
chỉ số BMI là một trong các yếu tố nguy 
cơ chính của ĐTĐ týp 2. Cả nam và nữ 
trong nhóm thừa cân với chỉ số BMI trong 
khoảng 25 - 30 đều có nguy cơ mắc ĐTĐ, 
với tỷ lệ tăng cao hơn lần lượt là 30% và 
10%. Khi BMI trong khoảng 30 - 40, cả 
hai giới đều có nguy cơ mắc ĐTĐ cao 
hơn 100% so với những người có chỉ số 
BMI bình thường. BMI > 40 làm tăng tỷ lệ 
mắc ĐTĐ lên tới 150% đối với nữ giới và 
180% với nam giới [9]. Trong nghiên cứu 
của chúng tôi, chỉ số BMI trung bình của 
các đối tượng nằm trong giới hạn bình 
thường và không tìm thấy mối liên quan 
có ý nghĩa giữa BMI với nồng độ glucose 
máu và HbA1c. 
Đây là một trong số ít nghiên cứu dịch 
tễ học mô tả trên đối tượng là QN đang 
sống và làm việc tại các sân bay ô nhiễm 
dioxin. Tuy nhiên, nghiên cứu này có một 
số hạn chế nhất định. Do không có nhóm 
đối chứng tương ứng về lứa tuổi nên rất 
khó để kết luận liệu phơi nhiễm dioxin có 
làm tăng tỷ lệ mắc bệnh ĐTĐ và tiền ĐTĐ 
ở nhóm đối tượng này hay không. Hơn 
nữa, do tỷ lệ nữ giới công tác tại các sân 
bay quân sự tương đối ít có thể dẫn đến 
sai lệch trong ước tính tỷ lệ ĐTĐ và tiền 
ĐTĐ cũng như việc đánh giá các yếu tố 
nguy cơ. 
KẾT LUẬN 
Dựa trên nồng độ glucose máu lúc đói 
và HbA1c, tỷ lệ ĐTĐ của QN tại các sân 
bay ô nhiễm dioxin Biên Hòa, Đà Nẵng và 
Phù Cát tương đối thấp (2,9 - 3%). Tuy nhiên, 
tỷ lệ tiền ĐTĐ khá cao (≈ 35% ở nam và ≈ 
45% ở nữ). Cùng với đó, nồng độ glucose 
máu tăng theo thời gian công tác, cho 
thấy việc tích lũy phơi nhiễm lâu dài với 
dioxin tại sân bay ô nhiễm có thể làm tăng 
nguy cơ mắc ĐTĐ týp 2. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bộ Y tế. Hướng dẫn chẩn đoán một số 
bệnh, tật, dị dạng, dị tật có liên quan đến phơi 
nhiễm với chất độc hoá học/Dioxin 2008. 
2. Phạm Thế Tài và CS. Đánh giá tình 
trạng sức khỏe của người dân sinh sống tại 
khu vực ô nhiễm dioxin thuộc thành phố 
Đà Nẵng và Biên Hòa. Tạp chí Sinh lý học 
Việt Nam 2015; 19(4). 
3. Tran Ngoc Nghi, et al. Dioxins and 
nonortho PCBs in breast milk of Vietnamese 
mothers living in the largest hot spot of dioxin 
contamination. Environmental Science & 
Technology 2015; 49(9):5732-5742. 
4. Ho Dung Manh, et al. Levels of 
polychlorinated dibenzodioxins and polychlorinated 
dibenzofurans in breast milk samples from 
three dioxin-contaminated hotspots of Vietnam. 
Science of the Total Environment 2015; 
511:416-422. 
5. Nguyen Thi Thu, et al. Health conditions 
of male military personnel in three dioxin-
contaminated airbases: Bien Hoa, Da Nang 
and Phu Cat. Journal of Military Pharmaco-
Medicine 2019; 9. 
6. Pham Ngoc Minh, Eggleston. Diabetes 
prevalence and risk factors among 
Vietnamese adults: Findings from community-
based screening programs. Diabetes Care 2015; 
38(5):e77-e78. 
7. Dwernychuk LW, et al. Dioxin reservoirs 
in southern Viet Nam - a legacy of Agent 
Orange. Chemosphere 2002; 47(2):117-137. 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 6-2020 
 14 
8. Yanling Wu, Yanping Ding, Yoshimasa 
Tanaka, Wen Zhang. Risk factors 
contributing to type 2 diabetes and recent 
advances in the treatment and prevention. 
Int J Med Sci 2014; 11(11):1185-1200. 
9. International Diabetes Federation. 
IDF Diabetes Atlas, 9th edition 2019. 
 last accessed 
on March 24, 2020. 
10. Michalek JE, M Pavuk. Diabetes and 
cancer in veterans of Operation Ranch Hand 
after adjustment for calendar period, days of 
spraying, and time spent in Southeast Asia. 
Journal of Occupational and Environmental 
Medicine 2008; 50(3):330-340. 
11. Longnecker MP, JE Michalek. Serum 
dioxin level in relation to diabetes mellitus 
among air force veterans with background 
levels of exposure. Epidemiology 2000:44-48. 
12. Yi SW, et al. Agent orange exposure 
and disease prevalence in Korean Vietnam 
veterans: The Korean veterans health study. 
Environmental Research 2014; 133:56-65. 

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_danh_gia_ty_le_mac_dai_thao_duong_cua_quan_nhan_l.pdf