Nghiên cứu đánh giá hoạt tính polyethylenimine với glutamate oxidase để phát triển cảm biến sinh học theo dõi nồng độ glutamate in vitro

Tóm tắt

Đặt vấn đề: Cảm biến sinh học thế hệ đầu tiên đã được xây dựng cách đây hơn 50 năm. Nó bao gồm hai

thành phần: các thành phần sinh học và bộ chuyển đổi cảm biến sinh học có vai trò quan trọng trong việc

theo dõi các chất trung gian hóa học thần kinh cũng như xác định các chất có số lượng rất nhỏ trong mẫu.

Mặt khác, glutamate có vai trò quan trọng trong sinh hóa cũng như trong chuyển hóa và các chất trung gian

thần kinh. Thách thức đặt ra cho cảm biến sinh học hiện đại là phát hiện và xác định nồng độ rất nhỏ của các

chất chứa trong mẫu gồm nhiều chất phức tạp, yếu tố nhiễu cao. Với những lý do đó, chúng tôi thực hiện đề

tài này với mục tiêu: Tìm ra nồng độ nào của polyethylenimine (PEI) thể hiện tính nhạy cảm cao nhất, đặc hiệu

cao và có sự ổn định lâu dài, từ đó phát triển cảm biến sinh học có thể theo dõi nồng độ Glutamate in vitro.

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Chúng tôi thiết kế cảm biến sinh học cho glutamate với nồng độ PEI

khác nhau dao động từ 0% đến 5%, sau đó chúng tôi tiến hành chuẩn độ ở ngày thứ 1 và ngày thứ 8. Kết quả:

Sau khi tiến hành chuẩn độ nồng độ Glutamate trên 5 nhóm cảm biến sinh học với nồng độ PEI khác nhau

(0%, 0,5%, 1%, 2,5% và 5%), kết quả nghiên cứu cho thấy: nồng độ PEI dao động từ 0,5% đến 1% là tốt nhất

xét theo V

MAX, KM; trong khi, PEI 1% cho thấy sự ổn định tuyệt vời. Kết luận: PEI 1% là thiết kế tốt nhất cho

việc phát triển cảm biến sinh học theo dõi nồng độ glutamate in vitro. Trong tương lai, chúng tôi mong đợi có

thể phát triển được cảm biến sinh học có khả năng xác định glutamate cấy ghép được trên động vật thực nghiệm.

pdf 6 trang phuongnguyen 10480
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu đánh giá hoạt tính polyethylenimine với glutamate oxidase để phát triển cảm biến sinh học theo dõi nồng độ glutamate in vitro", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu đánh giá hoạt tính polyethylenimine với glutamate oxidase để phát triển cảm biến sinh học theo dõi nồng độ glutamate in vitro

Nghiên cứu đánh giá hoạt tính polyethylenimine với glutamate oxidase để phát triển cảm biến sinh học theo dõi nồng độ glutamate in vitro
36
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 3 - tháng 6/2018
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
NGHIÊN CỨU ĐÁNH GIÁ HOẠT TÍNH POLYETHYLENIMINE VỚI
GLUTAMATE OXIDASE ĐỂ PHÁT TRIỂN CẢM BIẾN SINH HỌC
THEO DÕI NỒNG ĐỘ GLUTAMATE IN VITRO
Đỗ Thị Hồng Diệp1, Lê Phước Dương1, Nguyễn Thị Hoài1, Pier Andrea Serra2, Gaia Rocchitta2
(1) Bộ môn Dược lý, đại học Y Dược Huế; (2) đại học Sassari, Ý
Tóm tắt
Đặt vấn đề: Cảm biến sinh học thế hệ đầu tiên đã được xây dựng cách đây hơn 50 năm. Nó bao gồm hai 
thành phần: các thành phần sinh học và bộ chuyển đổi cảm biến sinh học có vai trò quan trọng trong việc 
theo dõi các chất trung gian hóa học thần kinh cũng như xác định các chất có số lượng rất nhỏ trong mẫu. 
Mặt khác, glutamate có vai trò quan trọng trong sinh hóa cũng như trong chuyển hóa và các chất trung gian 
thần kinh. Thách thức đặt ra cho cảm biến sinh học hiện đại là phát hiện và xác định nồng độ rất nhỏ của các 
chất chứa trong mẫu gồm nhiều chất phức tạp, yếu tố nhiễu cao. Với những lý do đó, chúng tôi thực hiện đề 
tài này với mục tiêu: Tìm ra nồng độ nào của polyethylenimine (PEI) thể hiện tính nhạy cảm cao nhất, đặc hiệu 
cao và có sự ổn định lâu dài, từ đó phát triển cảm biến sinh học có thể theo dõi nồng độ Glutamate in vitro.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Chúng tôi thiết kế cảm biến sinh học cho glutamate với nồng độ PEI 
khác nhau dao động từ 0% đến 5%, sau đó chúng tôi tiến hành chuẩn độ ở ngày thứ 1 và ngày thứ 8. Kết quả: 
Sau khi tiến hành chuẩn độ nồng độ Glutamate trên 5 nhóm cảm biến sinh học với nồng độ PEI khác nhau 
(0%, 0,5%, 1%, 2,5% và 5%), kết quả nghiên cứu cho thấy: nồng độ PEI dao động từ 0,5% đến 1% là tốt nhất 
xét theo V
MAX
, K
M
; trong khi, PEI 1% cho thấy sự ổn định tuyệt vời. Kết luận: PEI 1% là thiết kế tốt nhất cho 
việc phát triển cảm biến sinh học theo dõi nồng độ glutamate in vitro. Trong tương lai, chúng tôi mong đợi có 
thể phát triển được cảm biến sinh học có khả năng xác định glutamate cấy ghép được trên động vật thực nghiệm.
Từ khóa: Cảm biến sinh học cho glutamate, polyethylenimine (PEi) tăng cường hoạt tính glutamate 
oxidase, cảm biến sinh học glutamate oxidase.
Abstract 
THE ROLE OF POLYETHYLENIMINE 
IN ENHANCING PERFORMANCE OF GLUTAMATE BIOSENSORS
Do Thi Hong Diep1, Le Phuoc Duong1, Nguyen Thi Hoai1, Pier Andrea Serra2, Gaia Rocchitta2
(1) Hue University of Medicine and Pharmacy; (2) University of Sassari, italia
Background: The first biosensor was constructed more than fifty years ago. It was composed of the 
biorecognition element and transducer. The first-generation enzyme biosensors play important role in 
monitoring neurotransmitter and determine small quantities of substances in complex matrices of the samples 
Glutamate is important biochemicals involved in energetic metabolism and neurotransmission. Therefore, 
biosensors requires the development a new approach exhibiting high sensibility, good reproducibility and long-
term stability. The first-generation enzyme biosensors play important role in monitoring neurotransmitter and 
determine small quantities of substances in complex matrices of the samples. The aims of this work: To find 
out which concentration of polyethylenimine (PEI) exhibiting the most high sensibility, good reproducibility and 
long-term stability. Methods: We designed and developed glutamate biosensor using different concentration 
of PEI ranging from 0% to 5% at Day 1 and Day 8. Results: After Glutamate biosensors in-vitro characterization, 
several PEI concentrations, ranging from 0.5% to 1% seem to be the best in terms of V
MAX
, the K
M
; while PEI 
content ranging from 0.5% to 1% resulted stable, PEI 1% displayed an excellent stability. Conclusions: In the 
result, PEI 1% perfomed high sensibility, good stability and blocking interference. Furthermore, we expect to 
develop and characterize an implantable biosensor capable of detecting glutamate, glucose in vivo.
Key words: Glutamate biosensors, PEi (Polyethylenimine) enhances glutamate oxidase, glutamate oxidase 
biosensors.
- địa chỉ liên hệ: đỗ Thị Hồng Diệp, email: hongdiephuongxuan@gmail.com
- Ngày nhận bài: 12/11/2017, Ngày đồng ý đăng: 28/5/2018, Ngày xuất bản: 5/7/2018
37
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 3 - tháng 6/2018
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Cảm biến sinh học thế hệ đầu tiên đã được xây 
dựng cách đây hơn 50 năm [2]. Nó bao gồm hai 
thành phần: các thành phần sinh học và bộ chuyển 
đổi [5][6][16]. Cảm biến sinh học được ứng dụng 
rộng rãi trong nhiều lĩnh vực cuộc sống như: trong 
y học, khoa học môi trường, trong chế biến thực 
phẩm [17][18]... Mặc dù đã ra đời từ rất lâu nhưng 
về nguyên lý hoạt động cơ bản, vẫn được áp dụng 
cho đến hiện tại, đồng thời phát triển các bộ cảm 
biến sinh học thế hệ sau này thông minh, chính xác, 
nhỏ gọn và độ nhạy cao hơn [8][12][14].
Cảm biến sinh học là một thiết bị kết hợp một 
đầu dò (ví dụ như dây Bạch kim, Plastinum) với một 
thành phần sinh học như enzym oxidase [6]. Về mặt 
cấu tạo, một cảm biến sinh học bao gồm bốn bộ 
phận chính: đầu dò sinh học: có tác dụng bắt cặp 
và phát hiện sự có mặt của các tác nhân sinh học 
cần phân tích; tác nhân cố định: giúp gắn các đầu 
thu lên trên điện cực; bộ phận chuyển đổi tín hiệu 
giúp chuyển các biến đổi sinh học thành các tín hiệu 
có thể đo đạc được; bộ phận xử lý, đọc tín hiệu ra 
(bộ phận này có tác dụng chuyển thành các tín hiệu 
điện để máy tính và các thiết bị khác có thể xử lý). 
Glutamate là chất trung gian hóa học quan trọng 
liên quan đến chuyển hóa năng lượng và truyền dẫn 
thần kinh. 
Mặt khác, nồng độ glutamate ở trong não rất 
nhỏ, do đó cần có phương tiện, kỹ thuật mới để phát 
hiện và theo dõi với độ nhạy và độ đặc hiệu cao. Đó 
cũng chính là thách thức đặt ra cho cảm biến sinh 
học hiện đại để phát hiện và xác định nồng độ rất 
nhỏ của các chất chứa trong mẫu [12]. Do đó, một 
yêu cầu đặt ra là cần phải phát triển một cảm biến 
sinh học mới có tính nhạy cảm cao, đặc hiệu và ổn 
định lâu dài. 
Trong bối cảnh này, chúng tôi đã phát triển 
cảm biến sinh học mới dựa trên vai trò của 
polyethylenimine (PEI) trong việc nâng cao hiệu 
quả của các cảm biến sinh học thế hệ đầu tiên. 
Polyethyleneimine là một polymer tổng hợp mang 
điện tích dương, nó đã được đưa vào một số loại 
cảm biến sinh học để ổn định các enzym, như 
glutamate oxidase hoặc glucose oxidase bằng cách 
tăng sự ổn định enzyme thông qua sự hình thành 
các phức hợp polyanionic/polycationic và việc giảm 
bớt lực đẩy tĩnh điện giữa enzyme và cơ chất đều 
mang điện tích âm [1][3]. 
Chính vì vậy, chúng tôi thực hiện đề tài này với 
mục tiêu: Tìm ra với nồng độ nào của PEi thì cảm 
biến sinh học có độ nhạy cao nhất, đặc hiệu cao và 
có sự ổn định lâu dài, từ đó phát triển cảm biến sinh 
học có thể theo dõi nồng độ Glutamate in vitro.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Chuẩn bị hóa chất
- Dung dịch PBS 50mM được chuẩn bị bằng cách 
hòa tan 8,9g NaCl (0,15M), 1,76g NaH
2
PO
4
 (0,04 M), 
6,89g NaOH (0,04M) trong nước 1 lít nước tinh khiết 
và sau đó chuẩn độ pH = 7,4.
- Dung dịch Glutamate oxidase được chuẩn bị 
bằng cách hòa tan 200UI enzyme trong 10 μL PBS 
(20 kilounits/mL), bảo quản ở -200C.
- PEI 5% được pha loãng từ dung dịch PEI 50% 
(w/w H
2
O
2
), bảo quản ở -200C.
- Dung dịch Ortho-Phenylene Diamine monomer 
(monome OPD, 300mM) đã được hòa tan 648g OPD 
trong 20ml PBS ngay trước khi sử dụng [14].
- Các dung dịch glutamat cô đặc (1M) được 
chuẩn bị ở nước có độ tinh khiết cao ngay trước khi 
sử dụng như mô tả trước đây.
- Dung dịch acid ascorbic (100 mM) được chuẩn 
bị bằng cách hòa tan trong HCl (0,01M).
- PU hòa tan trong THF (dung dịch 1% v/v) bảo 
quản ở -200C.
2.2. Chuẩn bị cảm biến sinh học
Cảm biến được chuẩn bị bằng cách cắt đoạn dây 
Pt-Ir (95%, Ir 5%) dài khoảng 4 cm, sau đó loại bỏ 
lớp cách điện Teflon bao bọc bên ngoài ở 2 đầu dài 
khoảng 2 mm [7]. Sử dụng kính hiển vi để cắt được 
chiều dài Pt-Ir chính xác của phần tiếp điện là 1,0 ± 
0,1 mm (bề mặt hoạt động của cảm biến sinh học). 
Đầu còn lại để kết nối với hệ thống. Sau đó bề mặt 
hoạt động của điện cực sẽ được bao phủ bên ngoài 
lần lượt các lớp như đã mô tả ở Hình 2.1.
Hình 2.1. Chuẩn bị cảm biến sinh học
Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã thiết kế 15 
cảm biến sinh học bằng Platinum sau đó chia thành 
05 nhóm:
38
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 3 - tháng 6/2018
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
- Nhóm 1: PEI 0%, Pt/PPD/[GluOx]
5
 /PU 1%
- Nhóm 2: PEI 0,5%, Pt/PPD/[PEI+GluOx]
5
 /PU 1%
- Nhóm 3: PEI 1%, Pt/PPD/[PEI+GluOx]
5
 /PU 1%
- Nhóm 4: PEI 2,5%, Pt/PPD/[PEI+GluOx]
5
 /PU 1%
- Nhóm 5: PEI 5%, Pt/PPD/[PEI+GluOx]
5
 /PU 1%
Tiến hành chuẩn độ Glutamate in vitro ngày thứ 
01 và ngày thứ 08 trên cả 05 nhóm sau đó, thu thập 
dữ liệu và phân tích kết quả, so sánh độ bền, độ đặc 
hiệu giữa 05 nhóm thiết kế. Phép đo các giá trị V
MAX
, 
K
M
 và LRS được thực hiện bằng cách sử dụng thiết 
bị eDAQ QuadStat, e-Corder 410, eDAQ, Australia.
2.3. Phân tích và xử lý số liệu
Sau khi chuẩn độ, các cảm biến sinh học được 
đánh giá dựa trên các giá trị V
MAX
, K
M
 và LRS (linear 
regressions slope, đường hồi quy tuyến tính). 
Phân tích số liệu thống kê dựa vào phần mềm 
GraphPad Prism 5.02.
3. KẾT QUẢ
Chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu ảnh hưởng 
của nồng độ PEI khác nhau từ 0% đến 5% đối với các 
cảm biến sinh học cho glutamate. Mỗi nhóm gồm 3 
bộ cảm biến sinh học (n = 3). Trong nghiên cứu này, 
những thay đổi của các thông số Michaelis-Menten 
(V
MAX
, K
M
) và LRS đã được ghi nhận.
3.1. V
MAX
Nghiên cứu tiến hành so sánh giá trị V
MAX 
của 
thiết kế cơ bản (PEI 0%) (nhóm chứng, n=3) và các 
nhóm khác (PEI 0,5%, 1%, 2,5%, 5%, n = 3). Giá trị 
V
MAX
 trung bình ± SEM được thể hiện trong Biểu đồ 
3.1. Từ kết quả cho thấy, nồng độ PEI từ 0,5% đến 
5% có giá trị V
MAX 
cao hơn so với nhóm chứng (PEI 
0%). Tại ngày thứ nhất, V
MAX
 trung bình ± SEM đạt 
được giá trị cao nhất với thiết kế PEI 0,5% (527,90 
± 24,120 nA, R
2 
= 0,896). Vào ngày 8, giá trị V
MAX 
vẫn 
được duy trì ở mức cao đáng kể so với nhóm chứng 
ở nồng độ PEI 0,5% đến 2,5%. Ở nồng độ PEI là 0% 
và 5%, V
MAX
 giảm đáng kể ở ngày 8 (p < 0,05). Vì vậy, 
các cảm biến này không ổn định theo thời gian. Do 
đó, từ số liệu thống kê cho thấy, phạm vi của PEI từ 
0,5% đến 1% là tốt nhất xét về V
MAX
 và tính ổn định 
của nó theo thời gian.
Biểu đồ 3.1. Giá trị V
MAX 
trên 5 nhóm nghiên cứu
3.2. K
M
Các giá trị trung bình K
M
 ± SEM được thể hiện 
trong Biểu đồ 3.2. Với PEI 1%, giá trị K
M
 thấp hơn so 
với nhóm chứng ở cả ngày 1 và ngày 8 (ngày 1: 0,601 
± 0,066 mM, R
2
 = 0,980, nhóm chứng: 0,891 ± 0,083 
mM, R
2
 = 0,985), (ngày 8: 0,612 ± 0,054 mM, R
2 
= 
0,985, nhóm chứng 0,909 ± 0,103 mM, R
2
 = 0,978). 
Chúng tôi không quan sát thấy sự thay đổi đáng kể 
của K
M
 ở nồng độ PEI 1%
vào ngày 8. Điều này cho 
thấy có một sự ổn định tốt theo thời gian của PEI 
1%. Ở những nồng độ PEI khác giá trị của K
M
 dao 
động nhiều. Giá trị K
M
 thay đổi không tỉ lệ với nồng 
độ PEI, dao động từ 0,065 ± 0,117 mM, R
2 
= 0,943 
đến 1,651 ± 0,196 mM, R
2
 = 0,979. Chỉ số K
M 
đã ổn 
định theo thời gian với PEI 1%.
39
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 3 - tháng 6/2018
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
Biểu đồ 3.2. Giá trị K
M 
trên 5 nhóm nghiên cứu
3.3. Linear Region Slope
Vào ngày 1, giá trị LRS ở tất cả các nồng độ của PEI (từ 0,5% đến 5%) trong thí nghiệm cao hơn đáng kể 
so với nhóm chứng (PEI 0%). Vào ngày 8, PEI từ 0,5% đến 2,5% cho thấy giá trị LRS cao hơn nhóm chứng (PEI 
0%). Nồng độ PEI 1% có giá trị LRS cao nhất 0,0004 ± 0,0001 nA mM-1 (R
2 
= 0,999) ở ngày 1 và 0,0003 ± 0,0002 
nA mM-1 (R
2
 = 0,999) trong ngày 8. Do đó, chứng minh rằng chỉ có PEI 1% cho thấy sự ổn định cao.
Biểu đồ 3.3. Giá trị Linear Region Slope trên 5 nhóm nghiên cứu
4. BÀN LUẬN
4.1. V
MAX
Từ kết quả nghiên cứu cho thấy, rõ ràng sự gia 
tăng nồng độ PEI đã làm tăng giá trị của V
MAX
 trong 
khoảng PEI từ 0,5% đến 2,5%. V
MAX
 là thông số biểu 
thị số lượng các phân tử enzym hoạt tính lắng đọng 
trên các bề mặt của cảm biến sinh học. Sự hiện diện 
của PEI dẫn đến sự gia tăng giá trị của V
MAX
 so với 
nhóm cảm biến sinh học cơ bản (nhóm chứng PEI 
0%). Do đó, PEI đã hoạt động như một chất “tăng 
cường hoạt động của enzyme”. Trên thực tế, điều 
này đã được khẳng định bằng các nghiên cứu trước 
đây PEI xác định sự gia tăng V
MAX 
đối với cảm biến 
sinh học [9][11][13]. Hơn thế nữa, ở nồng độ PEI 
0,5% và 1%, giá trị V
MAX
 có sự ổn định theo thời gian, 
có thể do sự ổn định tĩnh điện của enzyme. Do đó, 
nồng độ PEI từ 0,5% đến 1% là tốt nhất xét trên 
phương diện V
MAX
.
40
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 3 - tháng 6/2018
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
Hình 4.1. Tương tác tĩnh điện giữa glutamate oxidase (GluOx, 140 kDa, polyanionic) 
với polyethyleneimine (PEI, 750 kDa, polycationic) [9].
4.2. K
M
Với nồng độ PEI 1%, giá trị K
M 
thấp hơn ở ngày 1 
(0,601 ± 0,066 mM, R2 = 0,980) và cả ở ngày 8 (0,612 
± 0,054 mM, R
2 
= 0,985) so với nhóm chứng (ngày 1 
(0,891 ± 0,083 mM , R2 = 0,985) và ngày 8 (0,909 ± 
0,103 mM, R2 = 0,978). Điều này cho thấy giá trị K
M 
cũng có một sự ổn định tốt theo thời gian. Nghiên 
cứu của McMahon và cộng sự việc cũng đã kết luận 
việc sử dụng PEI đã làm giảm đáng kể giá trị K
M
 (0,65 
± 0,05 mM, PEI, n = 20) so với nhóm không sử dụng 
PEI (5,4 ± 0,7 mM (n = 45, p < 0,001), lý giải cho hiện 
tượng trên là vai trò của PEI (tích điện dương) trong 
việc giảm bớt lực đẩy tĩnh điện giữa enzyme và cơ 
chất đều mang điện tích âm [10][15]. PEI giúp giảm 
rào cản điện từ giữa các enzym và cơ chất từ đó làm 
giảm đáng kể giá trị K
M
.
4.3. Linear Region Slope
Vào ngày 1, LRS ở tất cả các nồng độ của PEI 
được sử dụng trong thí nghiệm cao hơn đáng kể so 
với nhóm chứng. Vào ngày thứ 8, PEI từ 0,5% đến 
2,5% cho thấy giá trị LRS cao hơn nhóm chứng. Với 
nồng độ PEI 1% thì LRS có giá trị cao nhất là 0,0004 ± 
0,0001 nA mM-1 (R
2
 = 0,999) trong ngày 1 và 0,0003 
± 0,0002 nA mM-1 (R
2
 = 0,999) trong ngày 8 so với 
tất cả các nhóm còn lại. So sánh với nghiên cứu của 
Ford và cộng sự cũng cho thấy việc sử dụng PEI làm 
tăng sự ổn định theo thời gian của cảm biến sinh học 
[4]. Do đó chúng tôi khẳng định rằng, chỉ có PEI 1% 
cho thấy sự ổn định cao.
5. KẾT LUẬN
Sau khi so sánh các nhóm thiết kế cảm biến sinh 
học của Glutamate in vitro, chúng tôi nhận thấy 
nồng độ PEI từ 0,5% đến 1% là tốt nhất nếu chỉ dựa 
trên giá trị V
MAX
, K
M
 và đồng thời sử dụng nồng độ 
PEI dao động từ 0,5% đến 1% dẫn đến ổn định. PEI 
1% cho thấy sự ổn định cao với giá trị LRS cao nhất 
cả ngày 1 và ngày 8.
Do đó, nồng độ PEI 1% là lựa chọn tối ưu nhất 
cho việc theo dõi nồng độ glutamate trong cơ thể 
với độ nhạy, độ đặc hiệu cao và tính ổn định theo 
thời gian.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Abian, O. , Wilson, L. , Mateo, C. , Fernández-Lo-
rente, G. , Palomo, J. M. , Fernández-Lafuente, R. , Guisán, 
J. M. , Re, D. , Tam, A. , Daminatti, M. (2002), Preparation 
of artificial hyper-hydrophilic micro-environments (poly-
meric salts) surrounding enzyme molecules: New enzyme 
derivatives to be used in any reaction medium, Journal of 
Molecular Catalysis B: Enzymatic, 19-20, 295-303.
2. Ambrózy, A. , Hlavatá, L. , Labuda, J. (2013), Pro-
tective membranes at electrochemical biosensors, Acta 
Chimica Slovaca, 6 (1), 35-41.
3. Christwardana, M. , Kim, K. J. , Kwon, Y. (2016), 
Fabrication of mediatorless/ membraneless glucose/ oxy-
gen based biofuel cell using biocatalysts including glucose 
oxidase and laccase enzymes, Scientific Reports, 6, 1-9.
41
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 3 - tháng 6/2018
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
4. Ford, R. , Quinn, S. J. , O’Neill, R. D. (2016), Charac-
terization of biosensors based on recombinant glutamate 
oxidase: comparison of crosslinking agents in terms of en-
zyme loading and efficiency parameters, Sensors, 16 (10), 
1565-1582.
5. Gómez-Anquela, C. , García-Mendiola, T. , Abad, 
J. M. , Pita, M. , Pariente, F. , Lorenzo, E. (2015), Scaffold 
electrodes based on thioctic acid-capped gold nanopar-
ticles coordinated Alcohol Dehydrogenase and Azure A fi 
lms for high performance biosensor, Bioelectrochemistry, 
106, (Part B), 335 -342.
6. Kara, S. (2012), A roadmap of biomedical engi-
neers and milestones, Publisher InTech, 116-142.
7. Kirwan, S. M. , Rocchitta, G. , McMahon, C. P 
, Craig, J. D. , Killoran, S. J. , O’Brien, K. B. , Serra, P. A. 
, Lowry, J. P. , O’Neill, R. D. (2007), Modifications of 
poly(o-phenylenediamine) permselective layer on pt-ir for 
biosensor application in neurochemical monitoring, Sen-
sors, 7 (4), 420-437.
8. Kuswandi, B. , Irmawati, T. , Hidayat, M. A. , Jayus 
and Ahmad, M. (2014), A simple visual ethanol biosensor 
based on alcohol oxidase immobilized onto polyaniline 
film for halal verification of fermented beverage samples, 
Sensors, 14 (2), 2135-2149.
9. McMahon, C. P. , Rocchitta, G. , Serra, P. A. , Kir-
wan, S. M. , Lowry, J .P. , O’Neill, R. D. (2006), The efficien-
cy of immobilised glutamate oxidase decreases with sur-
face enzyme loading: an electrostatic effect, and reversal 
by a polycation significantly enhances biosensor sensitivi-
ty, The Royal Society of Chemistry, 131, 68–72.
10. McMahon, C. P. , Rocchitta, G. , Serra, P. A. , Kir-
wan, S. M. , Lowry, J. P. , O’Neill, R. D. (2006), Control 
of the oxygen dependence of an implantable polymer/
enzyme composite biosensor for glutamate, Analytical 
Chemistry, 78 (7), 2352-2359. 
11. Monti, P. , Calia, G. , Marceddu, S. , Dettori, M. A. 
, Fabbri, D. , Jaoua, S. , O’Neill, R. D. , Migheli, Q. , Delogu, 
G. , Serra, P. A. (2017), Low electro-synthesis potentials 
improve permselectivity of polymerized natural phenols 
in biosensor applications, Talanta, 162, 151-158.
12. Pingarrón, J. M. , Yáñez-OSedeño, P. , González-
Cortés, A. (2008), Gold nanoparticle - based electrochem-
ical biosensors, Electrochimica Acta, 53 (19), 5848-5866.
13. Rocchitta, G. , Migheli, R. , Dedola, S. , Calia, G. , 
Desole, M. S. , Miele, E. , Lowry, J. P. , O’Neill, R. D. , Serra, 
P. A. (2007), Development of a distributed, fully automat-
ed, bidirectional telemetry system for amperometric mi-
crosensor and biosensor applications, Sensors and Actua-
tors B, 126 (2), 700-709.
14. Rocchitta, G. , Secchi, O. , Alvau, M. D. , Migheli, R. 
, Calia, G. , Bazzu, G. , Farina, D. , Desole, M. S. , O’Neill, R. 
D. , Serra, P. A. (2012), Development and characterization 
of an implantable biosensor for telemetric monitoring 
of ethanol in the brain of freely moving rats, Analytical 
Chemistry, 84 (16), 7072-7079.
15. Rocchitta, G. , Spanu, A. , Babudieri, S. , Latte, G. 
, Madeddu, G. , Galleri, G. , Nuvoli, S. , Bagella, P. , Demar-
tis, M. I. , Fiore, V. , Manetti, R. , Serra, P. A. (2016), Enzyme 
biosensors for biomedical applications: strategies for safe-
guarding analytical performances in biological fluids, Sen-
sors, 16 (6), 780-801.
16. Serra, P. A. , Rocchitta, G. , Bazzu, G. , Manca, A. , 
Puggioni, G. M. , Lowry, J. P. , O’Neill, R. D. (2007), Design 
and construction of a low cost single-supply embedded 
telemetry system for amperometric biosensor applica-
tions, Sensors and Actuators B, 122 (1), 118-126.
17. Serra, P. A. (2011), Biosensors for health, environ-
ment and biosecurity, Publisher InTech, 71-86.
18. Serra, P. A. (2011), New Perspectives in Biosensors 
Technology and Applications, Publisher InTech, 198-267.

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_danh_gia_hoat_tinh_polyethylenimine_voi_glutamate.pdf