Nghiên cứu đặc tính mô bệnh học động mạch vị mạc nối phải sử dụng làm cầu nối trong phẫu thuật bắc cầu mạch vành tại Bệnh viện Chợ Rẫy

Chúng tôi thu thập các đoạn ở phần xa của

ĐMVMNP trên 74 bệnh nhân được phẫu thuật

bắc cầu mạch vành có sử dụng loại mảnh ghép

ĐMVMNP làm cầu nối mạch vành. Tất cả các

mẫu được gửi làm giải phẫu bệnh để phân tích

các đặc tính cơ bản mô học và mô bệnh học dưới

kính hiển vi điện tử có ghi hình. Các đặc điểm về

hình thái học như chiều dài, kích thước lòng

trong, độ dày các lớp của ĐMVMNP được đo đạt

bằng kính hiển vi điển tử tại Khoa Giải phẫu

bệnh, bệnh viện Chợ Rẫy. Mô bệnh học bao gồm

tăng sinh nội mạc, xơ vữa động mạch và vôi hóa

động mạch được đánh giá theo tiêu chuẩn của

Hiệp Hội Xơ Vữa Động Mạch cải biến của Hoa

Kỳ (AHA/ACC 2011). Các yếu tô nguy cơ ảnh

hưởng đến bệnh lý mô học của ĐMVMNP được

phân tích bằng thống kê y học. Độ dài trung bình

các ĐMVMNP là 23,9 ± 3,3 cm.

pdf 7 trang phuongnguyen 120
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu đặc tính mô bệnh học động mạch vị mạc nối phải sử dụng làm cầu nối trong phẫu thuật bắc cầu mạch vành tại Bệnh viện Chợ Rẫy", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu đặc tính mô bệnh học động mạch vị mạc nối phải sử dụng làm cầu nối trong phẫu thuật bắc cầu mạch vành tại Bệnh viện Chợ Rẫy

Nghiên cứu đặc tính mô bệnh học động mạch vị mạc nối phải sử dụng làm cầu nối trong phẫu thuật bắc cầu mạch vành tại Bệnh viện Chợ Rẫy
NGHIÊN CỨU ĐẶC TÍNH MÔ BỆNH HỌC ĐỘNG MẠCH VỊ MẠC NỐI PHẢI SỬ DỤNG LÀM CẦU NỐI... 
 33 
NGHIÊN CỨU ĐẶC TÍNH MÔ BỆNH HỌC ĐỘNG MẠCH VỊ MẠC NỐI PHẢI 
SỬ DỤNG LÀM CẦU NỐI TRONG PHẪU THUẬT BẮC CẦU MẠCH VÀNH TẠI 
BỆNH VIỆN CHỢ RẪY 
Đoàn Văn Phụng*, Trần Quyết Tiến** 
TÓM TẮT 
Chúng tôi thu thập các đoạn ở phần xa của 
ĐMVMNP trên 74 bệnh nhân được phẫu thuật 
bắc cầu mạch vành có sử dụng loại mảnh ghép 
ĐMVMNP làm cầu nối mạch vành. Tất cả các 
mẫu được gửi làm giải phẫu bệnh để phân tích 
các đặc tính cơ bản mô học và mô bệnh học dưới 
kính hiển vi điện tử có ghi hình. Các đặc điểm về 
hình thái học như chiều dài, kích thước lòng 
trong, độ dày các lớp của ĐMVMNP được đo đạt 
bằng kính hiển vi điển tử tại Khoa Giải phẫu 
bệnh, bệnh viện Chợ Rẫy. Mô bệnh học bao gồm 
tăng sinh nội mạc, xơ vữa động mạch và vôi hóa 
động mạch được đánh giá theo tiêu chuẩn của 
Hiệp Hội Xơ Vữa Động Mạch cải biến của Hoa 
Kỳ (AHA/ACC 2011). Các yếu tô nguy cơ ảnh 
hưởng đến bệnh lý mô học của ĐMVMNP được 
phân tích bằng thống kê y học. Độ dài trung bình 
các ĐMVMNP là 23,9 ± 3,3 cm. Đường kính 
trung bình lòng trong của ĐMVMNP ở phần xa là 
1,85 ± 0,69 µm; độ dày trung bình lớp nội mạc là 
70,1 ± 40 µm; độ dày trung bình lớp trung mạc là 
210,5 ± 110,3 µm; độ dày toàn bộ thành động 
mạch trung bình là 298,6 ± 121,3 µm. Số sợi đàn 
hồi trong lớp trung mạc trung bình là 4,3 ± 1,1; số 
khoảng hở của lớp màng đáy trung bình là 54 ± 
10,8. Đặc điểm mô bệnh học ĐMVMNP bao gồm 
tăng sinh nội mạc 56 mẫu (75,7%), nhưng đa số 
tăng sinh nội mạc nhẹ 94,6%. Các tổn thương 
nặng là xơ vữa động mạch và vôi hóa động mạch 
chiếm tần suất thấp lần lượt là 3 mẫu (4,1%) và 2 
mẫu (2,7%). Kết quả phân tích mối liên quan giữa 
các yếu tố nguy cơ và bệnh lý đi kèm của các bệnh 
nhân được lấy ĐMVMNP làm cầu nối đối với kết 
quả mô bệnh học của ĐMVMNP ghi nhận chỉ có 
yếu tố bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính (COPD) có 
ảnh hưởng làm tăng nguy cơ bệnh lý xơ vữa động 
mạch ở ĐMVMNP có ý nghĩa với OR = 35; 
khoảng tin cậy 95% ( 1,13 – 117) (p < 0,025). 
Từ khóa: Phẫu thuật bắc cầu mạch vành, 
Động mạch vị mạc nối phải, Mô học* 
SUMMARY 
STUDY OF HISTO-PATHOLOGY OF THE 
RIGHT GASTROEPIPLOIC ARTERY FOR 
USING CORONARY ARTERY BYPASS 
GRAFTING IN CHO RAY HOSPITAL 
The mean of RGEA’s length was 23,9 ± 3,3 
cm. The mean of lumen diameter at the most 
distal anastomosis was 1,85 ± 0,69 µm; mean 
width of intima 70,1 ± 40 µm; mean width of 
media 210,5 ± 110,3 µm; mean wall thickness, 
298,6 ± 121,3 µm. The mean number of elastic 
lamellae in the media was 4,3 ± 1,1. The mean 
number of discontinuities in the circumferential 
internal elastic lamina was 54 ± 10,8. The histo-
pathological properties of RGEA included: intimal 
hyperplasia in 56 segments (75,7%), but most of 
segments were mild intimal hyperplasia 94,6%. 
The severe pathological properties of RGEA with 
atherosclerosis, arterial calcification were found 
very rare 3 segments (4,1%) and 2 segments 
(2,7%) respectively. The results of risk factors 
associated with histo-pathological properites 
analysis were recorded that the chronic obstructive 
pulmonary disease (COPD) was independently 
* Khoa HSPTT Trẻ em BV Chợ Rẫy 
** BV Chợ Rẫy 
Người chịu trách nhiệm khoa học: PGS.TS. Trần Quyết Tiến 
Ngày nhận bài: 01/05/2018 - Ngày Cho Phép Đăng: 20/05/2018 
Phản Biện Khoa học: GS.TS. Bùi Đức Phú 
 PGS.TS. Đặng Ngọc Hùng 
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 20 - THÁNG 5/2018 
 34 
associated with atherosclerosis damage OR = 35; 
confident rate 95% ( 1,13 – 117) (p < 0,025). 
Key Words: Coronary bypass surgery, 
Right gastroepiploic artery, Histology 
I. GIỚI THIỆU 
Phẫu thuật bắc cầu mạch vành điều trị bệnh 
lý hẹp mạch vành ngày càng trở nên phổ biến tại 
nhiều nước trên thế giới cũng như tại Việt Nam. 
Việc lựa chọn vật liệu làm cầu nối là một trong 
các yếu tố quyết định sự thành công của 
PTBCMV [13]. Nghiên cứu các đặc tính cơ bản 
của vật liệu làm cầu nối bao gồm chiều dài, cấu 
trúc thành động mạch, bệnh lý mô học của động 
mạch trước khi ứng dụng làm cầu nối trong phẫu 
thuật bắc cầu động mạch vành là rất cần thiết 
nhằm mang lại hiệu quả tối ưu cho kết quả phẫu 
thuật [2],[8]. Động mạch vị mạc nối phải đã và 
đang sử dụng làm cầu nối mạch vành tại nhiều 
nước trên thế giới.Tuy nhiên, việc nghiên cứu 
loại cầu nối này tại Việt Nam chỉ mới bắt đầu tại 
BV Chợ Rẫy và chưa có nghiên cứu nào đánh giá 
về các đặc tính cơ bản của chúng. Từ những lý do 
trên, chúng tôi thực hiện “Nghiên cứu đặc tính 
mô bệnh học của động mạch vị mạc nối phải sử 
dụng làm cầu nối trong PTBCMV”. 
II. PHƯƠNG PHÁP 
Thiết kế nghiên cứu: Quan sát- mô tả- cắt 
ngang 
Mẫu nghiên cứu: 74 mẫu động mạch vị mạc 
nối phải ở phần đầu xa. 
Tiến hành: 
+ Xử lý các đoạn động mạch VMNP và làm 
tiêu bản mô học: 
Động mạch VMNP đã được phẫu tích, trước 
khi cắt làm miệng nối sẽ được đo chiều dài xem 
xét đủ để thực hiện miệng nối vành, sẽ được kẹp 2 
clip, một ở đầu tận và một ở vị trí sẽ cắt làm miệng 
nối. Tiếp theo, mẫu này được cố định trong dung 
dịch formalin 10% trung tính từ 5 đến 7 ngày. Rửa 
lại một lần bằng nước muối sinh lý 0,9%. Khử 
nước trong các mẫu động mạch bằng cồn hay 
xylene. Cố định mẫu để cắt bằng paraffin. 
Cắt vi phẫu với độ dày thích hợp khoảng 1 
µm. Các mặt cắt được đặt lên 2 tiêu bản. Một tiêu 
bản sẽ được nhuộm Hematoxyllin –eosin (H-E), 
đánh giá tổn thương bệnh lý và tiêu bản còn lại 
nhuộm Trichrome để xác định cấu trúc mô học của 
động mạch, các sợi đàn hồi trong lớp trung mạc. 
Các tiêu bản sẽ được quan sát dưới kính 
hiển vi quang học ở độ phóng đại 10X lần, 20X 
lần và 40X lần. Kính hiển vi quang học có camera 
chụp lại hình ảnh mô học kết nối với máy tính và 
cài đặt phần mềm để đo đạc các kích thước của 
động mạch. 
+ Phân tích kết quả mô học và bệnh lý mô 
học động mạch VMNP gồm các giá trị: Xác định 
hình thái học của động mạch VMNP bao gồm các 
giá trị: đường kính lòng động mạch, độ dày của 
lớp nội mạc, lớp trung mạc, độ dày thành mạch. 
Hình 2.1: Phương thức xác định các kích thước của 
động mạch vị mạc nối phải 
Xác định cấu trúc mô học của động mạch 
VMNP bao gồm lớp ngoại mạc, trung mạc và nội 
mạc, ghi nhận số lượng các khoảng không liên 
tục ở lớp màng đáy của nội mạc. 
Xác định số lượng sợi đàn hồi trong lớp 
trung mạc 
+ Phân tích mô bệnh học của động mạch 
bao gồm 3 thương tổn: Tăng sinh nội mạc, xơ vữa 
động mạch và vôi hóa động mạch. 
*Tăng sinh nội mạc: được xác định khi độ 
NGHIÊN CỨU ĐẶC TÍNH MÔ BỆNH HỌC ĐỘNG MẠCH VỊ MẠC NỐI PHẢI SỬ DỤNG LÀM CẦU NỐI... 
 35 
dày của lớp nội mạc lớn hơn 20 µm và chiếm hơn 
¼ chu vi của mặt cắt 
*Đánh giá mức độ tăng sinh nội mạc bằng 
tỉ lệ độ giữa độ dày của lớp nội mạc và độ dày 
của lớp trung mạc tại vị trí nội mạc dày nhất gồm 
5 mức độ: 
· Độ 0: giá trị <0,25 ( không hay tăng sinh 
nội mạc rất nhẹ) 
· Độ 1: giá trị từ 0,25- 0,5 (nhẹ) 
· Độ 2: giá trị từ 0,5 đến 0,75 (trung bình) 
· Độ 3: giá trị >0,75 (nặng) 
· Độ 4: tắc hoàn toàn lòng mạch do xơ vữa, 
vôi hóa hay huyết khối hoặc cả hai (rất nặng) 
*Tổn thương xơ vữa, vôi hóa động mạch: 
được xác định theo tiêu chuẩn của Hiệp Hội xơ 
vữa động mạch của Mỹ (AAHA) cải tiến. 
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
1. Đặc điểm dịch tể bệnh nhân được gửi mẫu phân tích: 
Đặc điểm Tần số (n=74) Tỷ lệ % 
Giới (Nam) 56 75,7 
Tuổi (năm) 58,4 ± 7,8 
Tăng huyết áp 62 83,3 
Đái tháo đường type 2 32 43,2 
Rối loạn mỡ máu 26 35,1 
Bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính 2 2,7 
Suy thận mãn 1 1,4 
Bệnh động mạch ngoại vi 1 1,4 
Tai biến mạch máu não cũ 6 8,1 
Hút thuốc lá 13 17,6 
Nhận xét: Tăng huyết áp trên các bệnh nhân gửi mẫu chiếm tỷ lệ cao với 83,3%, kế tiếp là bệnh 
lý tiểu đường ở 32 trường hợp lấy mẫu chiếm tỷ lệ 43,2%. 
Rối loạn mỡ máu ghi nhận ở 26 trường hợp được lấy mẫu chiếm tỷ lệ 35,1%. Hút thuốc lá 13 
trường hợp chiếm tỷ lệ (17,6%). 
2. Đặc điểm mô học các mẫu động mạch nghiên cứu: 
Đặc điểm Trung bình ± độ lệch chuẩn 
Chiều dài ĐMVMNP (mm)(n=117) 23,9 ± 3,3 mm 
Đường kính lòng trong (mm) 1,85 ± 0,69 mm 
Độ dày nội mạc (intima)(micromet) 70,1 ± 40,0 µm 
Độ dày trung mạc (media)(micromet) 210,5 ± 110,3 µm 
Số sợi đàn hồi trong lớp trung mạc 4,3 ± 1,1 
Số khoảng hở màng đáy 54 ± 10,8 
Nhận xét : Chiều dài của các động mạch vị mạc nối phải ghi nhận trên tất cả 117 bệnh nhân làm 
cầu nối mạch vành tương đối dài với giá trị trung bình là 23,9 ± 3,3 mm. 
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 20 - THÁNG 5/2018 
 36 
Kích thước lòng trong đoạn xa, chỗ làm miệng nối mạch vành đích trung bình là 1,85 ± 0,69 mm. 
Độ dày nội mạc trung bình là 70,1 ± 40,0 µm và của trung mạc là 210,5 ± 110,3 µm. 
Số khoảng hở ở lớp màng đáy nhiều với giá trị trung bình là 54 ± 10,8 khoảng. 
Đa số các mẫu ĐMVMNP thu được thuộc loại động mạch cơ vì số lượng sợi đàn hồi trong lớp 
trung mạc ít giá trị trung bình là 4,3 ± 1,1 sợi. 
3. Đặc điểm mô bệnh học của các mẫu ĐMVMNP: 
Đặc điểm bệnh học Tần số (n=74) Tỷ lệ % 
Tăng sinh nội mạc 56 75,7 
Mức độ tăng sinh nội mạc 
Độ 0 
Độ 1 
Độ 2 
Độ 3 
Độ 4 
24 
35 
11 
3 
1 
32,4 
47,3 
14,9 
4,1 
1,4 
Trung bình tỷ số độ dày nội mạc/ độ dày 
trung mạc (chỗ nội mạc dày nhất) 
0,36 ± 0,23 
Tổn thương xơ vữa động mạch 3 4,1 
Tổn thương vôi hóa trung mạc 2 2,7 
Nhận xét: Tăng sinh nội mạc (bề dày nội mạc lớn hơn 20 µm chiếm hơn ¼ chu vi lòng mạch) 
được ghi nhận trên 56 mẫu chiếm tỷ lệ 75,7%. 
Tỷ lệ độ dày nội mạc / độ dày trung mạc (ở vị trí nội mạc dày nhất) để phân loại mức độ tăng 
sinh nội mạc, giá trị trung bình là 0,36 ± 0,23. 
Chúng tôi phân loại mức độ tăng sinh nội mạc dựa trên tỷ lệ này trong đó độ 1 chiếm ưu thế với 
tỷ lệ 47,3%. 
Tổn thương xơ vữa ghi nhận ở 3 mẫu chiếm tỷ lệ 4,1% và tổn thương vôi hóa động mạch là 2 
mẫu chiếm tỷ lệ 1,4%. 
4. Mối liên quan giữa yếu tố nguy cơ, bệnh lý đi kèm đối với tổn thương xơ vữa động mạch 
Đặc điểm OR KTC Giá trị p 
Giới (nữ) 6,87 0,62 – 153,7 0,125 
Tuổi (>70 tuổi) 1,10 0,94 – 1,32 0,266 
Tăng huyết áp - - - 
Đái tháo đường type 2 - - - 
Rối loạn mỡ máu - - - 
Bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính 35,0 1,13 - 1170 0,025 
Nhận xét : Qua phân tích các yếu tố nguy cơ, bệnh lý đi kèm trước mổ chúng tôi ghi nhận có 
mối liên quan giữa bệnh lý phổi tắc nghẽn mãn tính có liên quan đến xơ vữa động mạch với độ mạnh 
OR = 35; p = 0,025. 
Các yếu tố còn lại khác không ghi nhận có mối liên quan với tổn thương xơ vữa động mạch. 
NGHIÊN CỨU ĐẶC TÍNH MÔ BỆNH HỌC ĐỘNG MẠCH VỊ MẠC NỐI PHẢI SỬ DỤNG LÀM CẦU NỐI... 
 37 
IV. BÀN LUẬN 
Khảo sát các đặc tính cơ bản của cầu nối 
bao gồm các đặc điểm mô học, mô bệnh học, 
hình thái học được xem là một trong những yếu 
tố quan trọng quyết định kết quả lâu dài của phẫu 
thuật bắc cầu mạch vành. Sự phù hợp về kích 
thước, cấu trúc thành mạch giữa động mạch làm 
cầu nối và động mạch vành, tạo điều kiện cho các 
phẫu thuật viên tim mạch thực hiện các miệng nối 
thuận lợi cũng như giúp điều chỉnh dòng chảy tốt 
của cầu nối mạch vành [2],[3],[4],[7]. 
Về độ dài ĐMVMNP 
Chúng tôi đo đạc toàn bộ chiều dài của 
động mạch vị mạc nối phải được lấy trước khi 
làm cầu nối trên 117 bệnh nhân phẫu thuật bắc 
cầu mạch vành. Kết quả ghi nhận chiều dài của 
cầu nối này khá tốt trung bình là 23,9 ± 3,3 cm.. 
Như vậy, với chiều dài của ĐMVMNP như trên 
là phù hợp để làm cầu nối mạch vành. Một số 
nghiên cứu trên thế giới như Mills và cộng sự ghi 
nhận chiều dài trung bình của động mạch này khi 
sử dụng tại chỗ là 23,7 cm, còn dạng cắt rời là 
17,7 cm. Theo Brenda, chiều dài của động mạch 
này khi sử dụng làm cầu nối dao động từ 19,32 
cm đến 20 cm [4],[10]. Suma và cộng sự trong 
một báo cáo của mình ghi nhận 95% số trường 
hợp có chiều dài động mạch vị mạc nối phải lớn 
hơn ½ chiều dài bờ cong lớn của dạ dày, 34% các 
trường hợp có độ dày lớn hơn 2/3 chiều dài bờ 
cong lớn [11],[12],[13]. 
Về cấu trúc hình thái ĐMVMNP 
Đường kính lòng trong trung bình của 
ĐMVMNP trong nghiên cứu của chúng tôi là 
1,85 ± 0,69 mm. Theo nghiên cứu của Mills và 
cộng sự, đường kính lòng trong của ĐMVMNP 
thay đổi từ 1,5 đến 3,25 mm và giá trị trung bình 
là 2,14 mm [10]. Nghiên cứu của Van Son và 
cộng sự tìm thấy kích thước lòng trong của 
ĐMVMNP ở đoạn xa là 1,8 mm; đoạn giữa là 2,2 
mm và đoạn gần là 2,7 mm [14]. Tác giả Santoff 
trong nghiên cứu của mình ghi nhận đường kính 
lòng của động mạch này thay đổi từ 1,8 đến 2,5 
mm. Một nghiên cứu tại Nhật của Kinoshita ghi 
nhận đường kính lòng ĐMVMNP tốt với giá trị 
trung bình là 3,8 mm [13]. Như vậy chính sự phù 
hợp này tạo điều kiện cho việc thực hiện miệng 
nối mạch vành một cách dễ dàng hơn, góp phần 
nâng cao chất lượng miệng nối, tránh sự hẹp sớm 
cầu nối là một trong những nguyên nhân thất bại 
của cầu nối [4]. 
Về đặc tính lớp trung mạc, nội mạc 
ĐMVMNP 
Lớp trung mạc của động mạch chứa các tế 
bào cơ trơn và các sợi đàn hồi. Theo đó, dựa vào 
số lượng các sợi đàn hồi trong lớp này, chúng tôi 
có thể tìm được phân loại động mạch là loại cơ, 
loại đàn hồi hay loại hỗn hợp [8],[9]. Trong 
nghiên cứu này trên 74 mẫu thu được, số lượng 
sợi đàn hồi ở lớp trung mạc trung bình là 4,3 ± 
1,1 sợi, thay đổi từ 2 sợi đến 6 sợi. Như vậy, đa 
số các mẫu ĐMVMNP là loại động mạch cơ. 
Nghiên cứu của Kinoshita và cộng sự tại Nhật thì 
số lượng sợi đàn hồi trong lớp trung mạc là 4,2 ± 
18 [13]. Một tỷ lệ lớn mẫu động mạch tìm thấy 
cũng là loại động mạch cơ. Kết quả của chúng tôi 
đã tìm thấy được yếu tố này cũng đã có thể góp 
phần khuyến cáo các phẫu thuật viên tim mạch 
trong việc chuẩn bị kỹ cầu nối bằng động mạch vị 
mạc nối phải trước khi thực hiện miệng nối vành, 
tránh co thắt cầu nối sau mổ có thể làm thất bại 
cuộc mổ. 
Lớp nội mạc bao gồm các tế bào nội mạc, 
mô liên kết dưới nội mạc và lớp màng đáy hay là 
màng đàn hồi trong, mỗi thành phần trong lớp nội 
mạc có vai trò và chức năng góp phần xác định 
bệnh lý của động mạch làm cầu nối [14]. Lớp 
màng đáy của nội mạc mạch máu là một màng 
đàn hồi có các khoảng hở thay đổi tùy theo loại 
động mạch. Khảo sát các khoảng hở trong lớp 
màng đáy nội mạc cũng có ý nghĩa quan trọng 
trong cơ chế bệnh sinh của bệnh lý mạch máu làm 
cầu nối. Theo một số nghiên cứu cơ bản chứng 
minh lớp màng đáy ở động mạch ngực trong trái 
được xem là bền vững do có ít khoảng hở, giúp 
ngăn cản các tế bào cơ trơn trong lớp trung mạc 
di chuyển vào lớp nội mạc, ngăn chặn quá trình 
tăng sinh nội mạc và xơ vữa động mạch. Ngoài 
ra, do đặc tính loại động mạch ngực trong trái là 
loại động mạch đàn hồi, chứa rất ít tế bào cơ nên 
cũng hạn chế được sự di chuyển các tế bào xuyên 
qua lớp màng đáy vào nội mạc. Hai yếu tố trên lý 
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 20 - THÁNG 5/2018 
 38 
giải được lý do tại sao động mạch ngực trong trái 
tránh được bệnh lý mạch máu như tăng sinh nội 
mạc và xơ vữa động mạch. Từ cơ chế này, chúng 
tôi cũng đã khảo sát các khoảng hở trên mẫu 
nghiên cứu động mạch vị mạc nối phải [8],[12]. 
Nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận số 
lượng các khoảng hở màng đáy trung bình là 54 ± 
10,8 khoảng. Theo nghiên cứu của Van Son và 
cộng sự, số lượng khoảng hở lớp màng đáy ở đầu 
xa của ĐMVMNP là 58 ± 17 khoảng, đoạn giữa 
là 93± 29 khoảng và đoạn gần là 86 ± 30 khoảng. 
Đối với động mạch ngực trong trái, nhóm nghiên 
cứu ghi nhận các khoảng hở ở đoạn động mạch 
đàn hồi là 21 khoảng, động mạch hỗn hợp 40 
khoảng và động mạch cơ là 89 khoảng [14]. 
Đặc điểm bệnh lý ĐMVMNP 
Xác định độ dày của lớp nội mạc giúp đánh 
giá sự hiện diện tăng sinh nội mạc [16]. Trong 
nghiên cứu này, chúng tôi đo được độ dày nội 
mạc trung bình trên tất cả các mẫu là 70,7 µm, và 
độ dày trung bình của lớp trung mạc là 210,5 µm. 
Theo nghiên cứu của tác giả Malhotra và cộng sự, 
độ dày trung bình của lớp nội mạc là 90 µm. 
Nakajima trong nghiên cứu của mình xác định giá 
trị này là 71,7 µm, trung mạc là 164,8 µm. 
Nghiên cứu của Van Son và cộng sự ghi nhận 
tăng sinh nội mạc ở ĐMVMNP ở mức trung bình 
với giá trị là 95 µm và độ dày nội mạc là 395 µm 
[14]. Một nghiên cứu tại Nhật của Kinoshita và 
cộng sự thì độ dày nội mạc ghi nhận là 82 µm và 
trung mạc là 167 µm [6],[7],[11],[14]. 
Chúng tôi ghi nhận tỷ lệ tăng sinh nội mạc 
ở các mẫu nghiên cứu là 75,7% các trường hợp, 
tỷ lệ độ dày nội mạc và trung mạc trung bình ở 
mức thấp là 0,36. Từ kết quả này, chúng tôi tìm ra 
mức tăng sinh nội mạc với phần lớn tăng sinh nội 
mạc ở mức độ thấp (độ 0,1) không tăng sinh nội 
mạc hay tăng sinh rất nhẹ là 79,7%; độ 2 tăng sinh 
nội mạc là 14,9%. Tăng sinh nội mạc nặng, cấp độ 
3,4 chỉ chiếm 5,5%. Nghiên cứu của Nakajima và 
đồng nghiệp, động mạch VNMP có nội mạc dầy 
hơn động mạch ngực trong trái [10]. Còn theo Van 
Son và cộng sự, tăng sinh nội mạc ở ĐMVMNP tìm 
thấy ở mức độ nhẹ đến trung bình, tăng sinh nội mạc 
gặp nhiều ở động mạch cơ hơn động mạch đàn hồi 
hay động mạch dạng hỗn hợp với tần suất tương 
ứng là 25,6%; 16,7% và 15,3% [14]. 
Tổn thương xơ vữa động mạch và vôi hóa 
động mạch trên các mẫu động mạch nghiên cứu. 
Nghiên cứu trên 74 mẫu động mạch vị mạc nối 
phải ở đoạn xa của các động mạch vị mạc nối 
phải thu được ghi nhận tần suất xơ vữa động 
mạch là 3 mẫu chiếm tỷ lệ 4,1%, vôi hóa động 
mạch là 2 mẫu chiếm tỷ lệ 2,7%. Theo Kinoshita 
và cộng sự khảo sát trên 33 mẫu ĐMVMNP ghi 
nhận tỷ lệ xơ vữa động mạch là 18,1% và vôi hóa 
động mạch là 9% [11]. Theo Nakajima và cộng 
sự tìm thấy có tổn thương xơ vữa động mạch và 
vôi hóa động mạch ở ĐMVMNP, trong khi động 
mạch ngực trong không ghi nhận tổn thương này 
[10]. Còn theo Mills và Lytle, không ghi nhận tổn 
thương xơ vữa và vôi hóa trên các đoạn 
ĐMVMNP, mô học giống với động mạch ngực 
trong có thể sử dụng làm cầu nối mạch vành với 
độ bền lâu dài tốt [9],[10]. 
Song song với việc khảo sát các đặc tính cơ 
bản trên, trong nghiên cứu này chúng tôi còn 
phân tích mối liên quan giữa các yếu tố nguy cơ 
và bệnh lý đi kèm với bệnh lý của động mạch 
VMNP trong nhóm nghiên cứu. Theo đó, chúng 
tôi chỉ ghi nhận có một mối liên quan giữa bệnh 
lý bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính lên tổn thương 
xơ vữa động mạch VMNP với OR =35 (p< 
0,025). Theo Nakajima, bệnh lý đái tháo đường 
loại 2 có liên quan với tình trạng tăng sinh nội 
mạc ở động mạch VMNP. Xét mối liên quan này 
với các cầu nối bằng động mạch khác của các 
nghiên cứu trên thế giới, chúng tôi cũng ghi nhận 
như sau: đối với động mạch quay, theo 
Ruengsakulrach, bệnh lý động mạch ngoại vi và 
hút thuốc lá có ảnh hưởng đến tăng sinh nội 
mạc,còn theo Kay, tuổi bệnh nhân hơn 70 có liên 
quan đến vôi hóa trung mạc. Đối với động mạch 
ngực trong, yếu tố tuổi già hơn 70 và đái tháo 
đường loại 2 có liên quan tăng sinh nội mạc, bệnh 
lý mạch máu ngoại vi và rối loạn mỡ máu có ảnh 
hưởng đến tổn thương xơ vữa động mạch. Như 
vậy trong hầu hết các nghiên cứu, bệnh lý động 
mạch VMNP ít chịu ảnh hưởng của các yếu tố 
nguy cơ hay bệnh lý đi kèm ở các bệnh nhân 
được khảo sát. 
NGHIÊN CỨU ĐẶC TÍNH MÔ BỆNH HỌC ĐỘNG MẠCH VỊ MẠC NỐI PHẢI SỬ DỤNG LÀM CẦU NỐI... 
 39 
V. KẾT LUẬN 
Chúng tôi thấy rằng xét về gốc độ mô học 
và bệnh lý mô học, ĐMVMNP mang những đặc 
tính cơ bản phù hợp cho một cầu nối bắc cầu mạch 
vành từ chiều dài, kích thước lòng trong, độ dày 
các lớp của thành mạch phù hợp tương ứng với 
động mạch vành đích. Tổn thương bệnh lý động 
mạch vị mạc nối phải như tăng sinh nội mạc nặng, 
xơ vữa hoặc vôi hóa trung mạc chiếm tần suất ít do 
đó được nhiều nghiên cứu trên thế giới xem là cầu 
nối có độ bền cao. Ngoài ra, qua phân tích các yếu 
tố nguy cơ, bệnh lý đi kèm trước mổ chúng tôi ghi 
nhận có mối liên quan giữa bệnh lý phổi tắc nghẽn 
mãn tính có liên quan đến xơ vữa động mạch. Do 
đó, cần lưu ý cân nhắc sử dụng cầu nối bằng 
ĐMVMNP cho các bệnh nhân bị hẹp mạch vành 
có đi kèm bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Lê Văn Cường, Võ Thành Nghĩa, Nguyễn 
Gia Ninh (2011): “Nghiên cứu hình dạng, vị 
trí, kích thước các động mạch dùng bắc cầu 
trong bệnh tắc hẹp động mạch vành tim” Y 
học TP Hồ Chí Minh, phụ bản của tập 15 
(số 1) tr 262-267. 
2. Appleson T, Hill RV (2012): “ Histological 
comparision of the candidate arteries for bypass 
grafting of the posterior interventricular artery”. 
Anat Sci Int vol 87: pp 150-4 
3. Benedetto U, Raja SG, Albanese A, Amrani M, 
Biondi-Zoccai G, Frati G (2015): “Searching 
for the second best graft for coronary artery 
bypass surgery: a network meta-analysis of 
randomized controlled trials”. Eur J 
Cardiothorac Surg. Vol 47: pp 59–65: 
4. Brenda Martinez G, Cynthia GR, Alejandro 
QG, Victor ER, Claudia NE, Rodrigo EE, 
Santo GP (2017): “Conduits used in coronary 
artery bypass grafting: a review of 
morphological studies”. Ann Thorac 
Cardiovasc Surg. Vol 178: pp 129-35 
5. Cater CM, Gitter R, Gett K (1996): “Spasm of 
the gastroepiploic artery use for coronary 
artery bypass grafting”, Am J Cardiol, Vol 77, 
page 1022-23 
6. Dignan RJ, Yeh T, Jr, Dyke CM, et al (1992): 
“Reactivity of gastroepiploic and internal 
mammary arteries: relevance to coronary 
artery bypass grafting”. J Thorac Cardiovasc 
Surg. Vol 103: pp 116–22 
7. Gaudino M, Taggart D, Suma H, Puskas JD, 
Crea F, Massetti M (2015): “The choice of 
conduits in coronary artery bypass surgery”. J 
Am Coll Cardiol. ; Vol 66: pp 1729-37 
8. 66. Gou-Wei H (2006): “Consideration in the 
choice of arterial grafts”. In: Gou-Wei H, 
editor. Arterial grafting for coronary artery 
bypass surgery. 2nd ed. Berline, Heidelberg: 
Springer, pp 81-6 
9. He GW (1999): “Arterial grafts for coronary 
artery bypass grafting: biological characteristics, 
functional classification, and clinical choice”. 
Ann Thorac Surg ; Vol 67: pp 277-84 
10. Mc Cormack D, Ham A (1987): “Ham’s 
Histology. 9th ed. Philadelphia”: Lippincott 
Williams and Wilkins, pp 444 
11. Suma H, Fukumoto H, Takeuchi A (1987): 
“Coronary artery bypass grafting by utilizing 
in situ right gastroepiploic artery: basic study 
and clinical application”. Ann Thorac Surg; 
Vol 44: pp 394–7 
12. Suma H, Takanashi R (1990): 
“Arteriosclerosis of the gastroepiploic and 
internal thoracic arteries”. Ann Thorac Surg ; 
Vol 50: pp 413–6 (113) 
13. Suma H, Wanibuchi Y, Furuta S, Isshiki T, 
Yamaguchi T, Takanashi R (1991): 
“Comparative study between the 
gastroepiploic and the internal thoracic artery 
as a coronary bypass graft. Size, flow, 
patency, histology”. Eur J Cardiothorac 
Surg. Vol 5: pp 244–7 
14. Van Son JA, Smedts F, Vincent JG, van Lier 
HJ, Kubat K (1990): “Comparative anatomic 
studies of various arterial conduits for 
myocardial reascularization”. J Thorac 
Cardiovasc Surg. Vol 99: pp 703–7 
15. Viral M. Bhanvivadia, Nandini J, Desai, Neeru 
M. Agarwal (2013): “Study of coronary 
atherosclerosis by Modified American Heart 
Association classification of atherosclerosis- An 
autopsy study”, J Clinical and Diagnostic 
Research, Vol 7(11), page 2494-97 
16. Zipes L, Braunwald B (2002): Braunwald’s 
Heart Disease. A textbook of Cardiovascular 
medicine . Vol 1 7th ed. 

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_dac_tinh_mo_benh_hoc_dong_mach_vi_mac_noi_phai_su.pdf