Nghiên cứu đặc điểm lập địa và phân chia lập địa trồng rừng ngập mặn tại các đảo vùng biển phía Nam, Việt Nam

TÓM TẮT

Việt Nam có số lượng khá lớn các đảo và vùng ven các đảo này đang chịu

tác động mạnh của sóng biển, đặc biệt là trong bối cảnh biến đổi khí hậu.

Nghiên cứu được thực hiện với mục đích là xác định cơ sở khoa học để

phân chia lập địa làm cơ sở cho việc trồng rừng ngập mặn bảo vệ các đảo.

Với phương pháp nghiên cứu dựa trên các khảo sát về thể nền, độ ngập

triều, độ mặn nước biển và thực vật phân bố tự nhiên theo tuyến điều tra;

kết hợp thu mẫu đất, nước và phân tích các chỉ số dinh dưỡng và độc tố

chính trong phòng thí nghiệm. Kết quả đã xác định được độ ngập triều

trung bình cao nhất tại các đảo vùng biển phía Đông là 3,51m, vùng miền

Trung và các đảo xa bờ là 1,57m và thấp nhất là 0,95m ở các đảo vùng

biển phía Tây. Độ mặn nước biển bình quân tại các đảo xa bờ có độ mặn

rất cao 34 - 35‰ và khá đồng đều ở các tháng trong năm, các đảo ven bờ

có độ mặn thấp hơn và chỉ cao vào tháng 3 và tháng 4. Thể nền tại các đảo

vùng biển phía Nam bao gồm 4 dạng thể nền chính là thể nền đá, dạng sỏi,

dạng san hô và dạng cát; đặc tính cơ bản của các dạng thể nền này chủ yếu

là cát (trên 80%), chỉ số pH cao (hơn 8), độ mặn cao, nghèo dinh dưỡng.

Các đảo vùng biển phía Nam được chia thành 3 vùng lập địa gồm: (1) các

đảo ven biển Nam Trung Bộ và các đảo ngoài khơi, (2) các đảo ven bờ

vùng biển phía Đông và, (3) các đảo ven bờ vùng biển phía Tây. Mỗi vùng

được chia ra 20 dạng lập địa, gồm nền cát, mặn nặng, ngập triều cao

(CMnTc); nền cát, mặn trung bình, ngập triều cao (CMtbTc); nền đá, mặn

nặng, ngập triều thấp (ĐMnTt); nền đá, mặn nặng, ngập triều trung bình

(ĐMnTtb); nền đá, mặn nặng, ngập triều cao (ĐMnTc); nền đá, mặn trung

bình, ngập triều thấp (ĐMtbTt); nền đá, mặn trung bình, ngập triều trung

bình (ĐMtbTtb); nền đá, mặn trung bình, ngập triều cao (ĐMtbTc); nền

sỏi, mặn nặng, ngập triều thấp (SoMnTt); nền sỏi, mặn nặng, ngập triều

trung bình (SoMnTtb); nền sỏi, mặn nặng, ngập triều cao (ĐMnTc); nền

sỏi, mặn trung bình, ngập triều thấp (SoMtbTt); nền sỏi, mặn trung bình,

ngập triều trung bình (SoMtbTtb); nền sỏi, mặn trung bình, ngập triều cao

(SoMtbTc); nền san hô, mặn nặng, ngập triều thấp (ShMnTt); nền san hô,

mặn nặng, ngập triều trung bình (ShMnTtb); nền san hô, mặn nặng, ngập

triều cao (ShMnTc); nền san hô, mặn trung bình, ngập triều thấp

(ShMtbTt); nền san hô, mặn trung bình, ngập triều trung bình (ShMtbTtb)

và nền san hô, mặn trung bình, ngập triều cao (ShMtbTc).

pdf 14 trang phuongnguyen 2320
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu đặc điểm lập địa và phân chia lập địa trồng rừng ngập mặn tại các đảo vùng biển phía Nam, Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu đặc điểm lập địa và phân chia lập địa trồng rừng ngập mặn tại các đảo vùng biển phía Nam, Việt Nam

Nghiên cứu đặc điểm lập địa và phân chia lập địa trồng rừng ngập mặn tại các đảo vùng biển phía Nam, Việt Nam
Tạp chí KHLN Chuyên san/2017 (78 - 91) 
©: Viện KHLNVN - VAFS 
ISSN: 1859 - 0373 Đăng tải tại: www.vafs.gov.vn 
 78 
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM LẬP ĐỊA 
VÀ PHÂN CHIA LẬP ĐỊA TRỒNG RỪNG NGẬP MẶN 
TẠI CÁC ĐẢO VÙNG BIỂN PHÍA NAM, VIỆT NAM 
Hoàng Văn Thơi 
Viện Khoa học Lâm nghiệp Nam Bộ 
Từ khóa: Lập địa, đảo, 
rừng ngập mặn, trồng 
rừng, Việt Nam 
TÓM TẮT 
Việt Nam có số lượng khá lớn các đảo và vùng ven các đảo này đang chịu 
tác động mạnh của sóng biển, đặc biệt là trong bối cảnh biến đổi khí hậu. 
Nghiên cứu được thực hiện với mục đích là xác định cơ sở khoa học để 
phân chia lập địa làm cơ sở cho việc trồng rừng ngập mặn bảo vệ các đảo. 
Với phương pháp nghiên cứu dựa trên các khảo sát về thể nền, độ ngập 
triều, độ mặn nước biển và thực vật phân bố tự nhiên theo tuyến điều tra; 
kết hợp thu mẫu đất, nước và phân tích các chỉ số dinh dưỡng và độc tố 
chính trong phòng thí nghiệm. Kết quả đã xác định được độ ngập triều 
trung bình cao nhất tại các đảo vùng biển phía Đông là 3,51m, vùng miền 
Trung và các đảo xa bờ là 1,57m và thấp nhất là 0,95m ở các đảo vùng 
biển phía Tây. Độ mặn nước biển bình quân tại các đảo xa bờ có độ mặn 
rất cao 34 - 35‰ và khá đồng đều ở các tháng trong năm, các đảo ven bờ 
có độ mặn thấp hơn và chỉ cao vào tháng 3 và tháng 4. Thể nền tại các đảo 
vùng biển phía Nam bao gồm 4 dạng thể nền chính là thể nền đá, dạng sỏi, 
dạng san hô và dạng cát; đặc tính cơ bản của các dạng thể nền này chủ yếu 
là cát (trên 80%), chỉ số pH cao (hơn 8), độ mặn cao, nghèo dinh dưỡng. 
Các đảo vùng biển phía Nam được chia thành 3 vùng lập địa gồm: (1) các 
đảo ven biển Nam Trung Bộ và các đảo ngoài khơi, (2) các đảo ven bờ 
vùng biển phía Đông và, (3) các đảo ven bờ vùng biển phía Tây. Mỗi vùng 
được chia ra 20 dạng lập địa, gồm nền cát, mặn nặng, ngập triều cao 
(CMnTc); nền cát, mặn trung bình, ngập triều cao (CMtbTc); nền đá, mặn 
nặng, ngập triều thấp (ĐMnTt); nền đá, mặn nặng, ngập triều trung bình 
(ĐMnTtb); nền đá, mặn nặng, ngập triều cao (ĐMnTc); nền đá, mặn trung 
bình, ngập triều thấp (ĐMtbTt); nền đá, mặn trung bình, ngập triều trung 
bình (ĐMtbTtb); nền đá, mặn trung bình, ngập triều cao (ĐMtbTc); nền 
sỏi, mặn nặng, ngập triều thấp (SoMnTt); nền sỏi, mặn nặng, ngập triều 
trung bình (SoMnTtb); nền sỏi, mặn nặng, ngập triều cao (ĐMnTc); nền 
sỏi, mặn trung bình, ngập triều thấp (SoMtbTt); nền sỏi, mặn trung bình, 
ngập triều trung bình (SoMtbTtb); nền sỏi, mặn trung bình, ngập triều cao 
(SoMtbTc); nền san hô, mặn nặng, ngập triều thấp (ShMnTt); nền san hô, 
mặn nặng, ngập triều trung bình (ShMnTtb); nền san hô, mặn nặng, ngập 
triều cao (ShMnTc); nền san hô, mặn trung bình, ngập triều thấp 
(ShMtbTt); nền san hô, mặn trung bình, ngập triều trung bình (ShMtbTtb) 
và nền san hô, mặn trung bình, ngập triều cao (ShMtbTc). 
Hoàng Văn Thơi, Chuyên san/2017 Tạp chí KHLN 2017 
 79 
Keywords: afforestation, 
site, island, mangroves, 
Vietnam 
Site properties and zoning for afforestation of mangrove forests in the 
several coastal islands in the South of Vietnam 
The aim of the study was to develop scientific foundations for zoning site 
conditions for the afforestation of mangrove forests to protect the islands. 
Research methods were based on surveys on soil properties, tidal 
inundation, water sea salinity and vegetation distribution following the 
different survey lines. In adddition, samples of water and soil were 
collected for analyzing nutrients and major toxic substance index. Results 
showed that the highest average tidal inundation of 3.51m was recorded in 
the islands of the Eeastern Sea. It was 1.57m in the Southern Central 
islands and the offshore islands and the lowest average tidal inundation of 
0.95m was found in the islands of the western Sea. The average salinity of 
sea water at the offshore islands is highest ranging from 34 - 35‰ and the 
water salinity varies greatly across the months of the year. However, the 
coastal islands have lower water salinity and in a year this is normally 
higher in March and May. In the Southern islands there are 4 main types 
of soil bases that are sandy base, rocky base, gravel base and coral base. 
The key characteristics of those bases are that they are composed by more 
than 80% of sand, high pH value (more than 8), high water salinity and 
poor in nutrition. The southern islands can be grouped into 3 site zones 
that are: (1) The southern Central islands and offshore islands; (2) The 
Eastern Islands (Ba Ria - Ca Mau); and (3) The Western Islands (Ca Mau 
- Kien Giang). Subsequently, each site zone is classified into 20 different 
site types. Those include sandy base, high salinity and high tidal 
inundation (CMnTc); sandy base, moderate salinity and high tidal 
inundation (CMnTc); rocky base, high salinity and low tidal inundation 
(ĐMnTt); rocky base, high salinity, moderate tidal inundation (ĐMnTtb); 
rocky base, high salinity and high tidal inundation (ĐMnTc); rocky base, 
moderate salinity and low tidal inundation (ĐMTt); rocky base, moderate 
salinity and moderate tidal inundation (ĐMTtb); rocky base, moderate 
salinity and high tidal inundation (ĐMTc); gravel base, high salinity, low 
tidal inundation (SoMnTt); gravel base, high salinity, moderate tidal 
inundation (SoMnTtb); gravel base, high salinity, high tidal inundation 
(SoMTc); Gravel base, moderate salinity, low tidal inundation (SoMTt); 
gravel base, moderate salinity, moderate tidal inundation (SoMTtb); 
gravel base, moderate salinity, high tidal inundation (SoMTc); coral base, 
high salinity low tidal inundation (ShMnTt); coral base, high salinity, 
moderate tidal inundation (ShMnTtb); coral base, high salinity, high tidal 
inundation (SoMTc); coral base, moderate salinity, low tidal inundation 
(ShMTt); coral base, moderate salinity, moderate tidal inundation 
(ShMTtb); coral base, moderate salinity, high tidal inundation (ShMTc). 
Tạp chí KHLN 2017 Hoàng Văn Thơi, Chuyên san/2017 
 80 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Các đảo ở khu vực phía Nam nước ta thường 
có địa hình khá phức tạp, một số đảo lớn có 
địa hình núi cao như Phú Quốc, Côn Đảo, Cù 
Lao Xanh... còn lại đa số là địa hình thấp. Trên 
các đảo thường có các bãi triều, với các dạng 
thể nền chủ yếu là cát, đá, sỏi, vụn san hô, 
không có phù sa bồi lắng nên rất nghèo dinh 
dưỡng và không có sông hoặc suối, đây là điều 
kiện không thuận lợi cho sinh trưởng của thực 
vật; trong khi đó, khí hậu của các đảo chủ yếu 
là khí hậu đại dương, với lượng mưa hàng năm 
ít, tốc độ gió lớn, lượng bốc hơi cao, nhất là 
gió mùa Đông Bắc làm cho độ mặn trong 
không khí và nước tăng cao gây nên tình trạng 
cháy lá và cháy đỉnh sinh trưởng làm cho cây 
trồng bị chết khô hàng loạt. Bên cạnh đó, lại 
thường xuyên hứng chịu tác động mạnh của 
sóng, gió, bão, vv. Đối với các đảo san hô thấp 
bị tác động rất mạnh bởi tình trạng nước biển 
dâng như xói mòn bờ biển, ngập triều cao và 
xâm nhập mặn (Mimura, 1999; Gillespie, 
2007). Các mối nguy hiểm khác tàn phá gồm 
gió, sóng và thời gian ngập (Solomon & 
Forbes, 1999). 
Để bảo vệ đất sản xuất, bảo vệ cuộc sống của 
người dân và bảo đảm an ninh quốc phòng cần 
xây dựng các công trình bảo vệ bờ biển, trong 
đó vai trò quan trọng là xây dựng và phát triển 
hành lang xanh, chắn sóng, gió biển. Trong 
điều kiện cực đoan về lập địa, thời tiết khí hậu 
khắc nghiệt và tác động mạnh, thường xuyên 
của sóng gió - bão, rất cần xây dựng một dải 
rừng ngập mặn nhằm hạn chế xâm thực của 
biển, chống xói mòn, bảo vệ các công trình 
xây dựng, nhất là hệ thống hạ tầng ven các 
đảo. Rừng ngập mặn (RNM) giúp bảo vệ các 
đảo khỏi bị lũ vào mùa mưa bão, giảm được 
75% sức gió tấn công các đảo (UNEP, 2005). 
Tuy nhiên, muốn xây dựng được các dải rừng 
ngập mặn ven các đảo, cần có các nghiên cứu 
về đặc điểm lập địa và phân chia được các 
dạng lập địa, từ đó làm cơ sở cho việc chọn 
loại cây trồng và biện pháp kỹ thuật trồng rừng 
thích hợp cho các đảo trên vùng biển phía 
Nam cũng như mở rộng gây trồng rừng ngập 
mặn trên các đảo và quần đảo của Việt Nam. 
Lập địa là một phạm vi địa lý nhất định, với 
các yếu tố ngoại cảnh ảnh hưởng trực tiếp tới 
sinh trưởng của thực vật. Lập địa ngập mặn là 
nơi chuyển tiếp giữa biển và đất liền, là nơi 
cây ngập mặn có thể sống và phát triển trong 
điều kiện mặn và tác động của thủy triều. Yếu 
tố sinh thái cơ bản ảnh hưởng đến sự phát triển 
rừng ngập mặn là nhiệt độ, thể nền đất bùn, sự 
che chắn, độ mặn, thủy triều, dòng chảy hải 
lưu, biển nông (Chapman, 1975), mỗi loài cây 
RNM chỉ thích ứng với một loại đất và chế độ 
ngập triều nhất định (Chan & Baba, 2009), 
nhiệt độ ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phân 
bố rừng ngập mặn (Chapman, 1975; 
Tomlinson, 1986). Saenger và đồng tác giả 
(1983) cho rằng sự có mặt của rừng ngập mặn 
ở một vùng nào đó tùy thuộc nhiệt độ không 
khí và nhiệt độ nước. Lập địa ngập mặn ven 
biển được phân chia dựa vào chế độ ngập triều, 
độ thành thục đất và loại đất (Ngô Đình Quế, 
Ngô An, 2001; Ngô Đình Quế, 2003; Tô Văn 
Vượng, 2009); phân chia lập địa dựa vào độ 
thành thục đất (Bộ Lâm nghiệp, 1984); phân 
chia lập địa khó khăn cho vùng đất ngập mặn 
ven biển dựa trên chế độ ngập triều, loại đất, 
thành phần cơ giới và độ thành thục của đất 
(Đoàn Đình Tam, 2011); đánh giá tiềm năng 
sản xuất cho đất ngập mặn trên cơ sở các tiêu 
chí về loại đất, độ thành thục đất, hàm lượng 
chất hữu cơ và chế độ ngập triều (Đỗ Đình 
Sâm et al., 2005). Tuy nhiên, chưa có các 
nghiên cứu về lập địa và phân chia lập địa 
được thực hiện cho vùng ven các đảo nước ta. 
Hoàng Văn Thơi, Chuyên san/2017 Tạp chí KHLN 2017 
 81 
Từ các kết quả nghiên cứu về phân bố rừng 
ngập mặn cho thấy có sự liên quan chặt chẽ 
với đất, độ mặn, thủy triều, vv. Như vậy, vấn 
đề đặt ra là các đảo vùng biển phía Nam 
nước ta, có các đặc điểm lập địa như thế 
nào? Và việc phân chia lập địa và bố trí cây 
trồng rừng ngập mặn trên các đảo dựa trên 
các yếu tố nào?. 
Nghiên cứu lập địa và phân chia lập địa trồng 
rừng ngập mặn được thực hiện vào năm 2011 
với mục đích là phân chia được các dạng lập 
địa để làm cơ sở cho việc trồng rừng ngập mặn 
bảo vệ các đảo, lưu giữ trầm tích, chống sạt lở 
và tạo môi trường thuận lợi cho các loài thủy 
sản, bảo vệ cỏ biển và rạn san hô. 
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
2.1. Vật liệu nghiên cứu 
Các bãi triều ven các đảo vùng biển phía Nam, 
bao gồm các đảo vùng biển Nam Trung Bộ 
(Nhơn Châu - Bình Định; Nhất Tự Sơn - Phú 
Yên; các đảo ở Vịnh Vân Phong, Nha Trang, 
Trường Sa - Khánh Hòa; Phú Quý - Bình 
Thuận); các đảo vùng biển phía Đông (Côn 
Đảo - Bà Rịa Vũng Tàu; Hòn Khoai - Cà Mau) 
và các đảo vùng biển phía Tây (Hòn Đá Bạc - 
Cà Mau; Hòn Tre, Phú Quốc - Kiên Giang). 
Các địa điểm nghiên cứu này có các điều kiện 
tự nhiên như khí hậu, địa hình, thủy triều... đại 
diện cho các đảo và quần đảo phía Nam nước 
ta (Hình 1). 
2.2. Phương pháp nghiên cứu 
Độ ngập triều và tần suất ngập triều: Theo dõi 
mực nước thủy triều, được thực hiện bằng 
cách ghi chép mực nước trên cột đo thủy triều 
(English et al., 1997), điểm đặt cột đo thủy 
triều tại trung tâm của khu vực nghiên cứu. 
Thời gian ghi chép là 12 tháng (tháng 1 đến 
tháng 12 năm 2011). Phân chia mức độ ngập 
triều ở khu vực nghiên cứu được phân chia 
theo cách phân chia độ ngập của 
(Watson,1928; de Haan, 1931). 
Độ mặn nước biển: Đo độ mặn được thực hiện 
bằng cách thu mẫu nước vào các ngày 5, 15, 
25 hàng tháng; thời gian thu mẫu 12 tháng 
(tháng 1 đến tháng 12 năm 2011). Độ mặn 
được đo bằng máy khúc xạ kế. Số liệu được 
tính trung bình cho tháng. 
Đặc điểm thể nền: Thể nền được mô tả theo 
mặt cắt ngang và mặt cắt dọc. Mặt cắt ngang 
xác định theo hướng từ bờ (điểm ngập triều 
cao nhất) ra đến điểm ngập triều thấp nhất 
(triều kiệt). Mặt cắt dọc của thể nền xác định 
đến độ sâu 1m. Xác định thể nền bằng cách đo 
đếm ô đại diện, ô 1m3 (kích thước 1 × 1 × 1m). 
Ghi chép tỷ lệ chiếm cứ của từng loại vật liệu 
trên ô đại diện. Thu thập các mẫu đất đá trên 
mỗi vùng điều tra, theo tầng (0 - 10cm và 40 - 
50cm). Chỉ tiêu phân tích đặc điểm thể nền 
gồm thành phần cơ giới, pH, N, P, K, độ mặn 
đất, vv và được phân tích theo sổ tay phân tích 
đất, nước, phân bón, cây trồng của Viện Thổ 
nhưỡng Nông hóa (1998) và ISRIC (1995). 
Phân chia lập địa: Phân chia lập địa trên cơ sở 
các yếu tố chính là thể nền, độ ngập triều và 
độ mặn bằng phương pháp tổ hợp các yếu tố 
trên. Ngoài ra, tác động của sóng, gió biển 
như độ cao, tần suất, năng lượng sóng và gió 
biển được thu thập từ các trạm thủy - hải văn 
gần nhất. 
Tạp chí KHLN 2017 Hoàng Văn Thơi, Chuyên san/2017 
 82 
Hình 1. Sơ đồ vị trí các địa điểm nghiên cứu lập địa 
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 
3.1. Đặc điểm thủy triều khu vực các đảo 
vùng biển phía Nam 
Kết quả khảo sát về thủy triều đại diện cho các 
đảo vùng biển phía Nam trong năm 2011, 
được thể hiện tại hình 2. 
Hình 2. Biến động của biên độ triều theo các vùng biển, đảo phía Nam 
H, m 
Tháng 
QĐ.Trường Sa, Việt Nam 
QĐ. Hoàng Sa, 
Việt Nam 
Hoàng Văn Thơi, Chuyên san/2017 Tạp chí KHLN 2017 
 83 
Số liệu cho thấy thủy triều tại vùng biển phía 
Nam có độ lớn rất khác nhau, vùng biển phía 
Đông có độ lớn triều trung bình lớn nhất, đạt 
3,51m; trong khi vùng biển miền Trung và các 
đảo xa bờ đều có trung bình cao nhất là 1,57m; 
thấp nhất là vùng biển phía Tây, với trung bình 
cao nhất chỉ đạt 0,95m. Theo đó, mực nước 
ròng thấp nhất ở vùng biển phía Đông (Côn 
Đảo làm đại diện) tương đương với mực nước 
lớn nhất tại vùng biển đảo miền Trung và các 
đảo thuộc quần đảo Trường Sa. Tương tự, mức 
nước dòng thấp nhất ở vùng biển, đảo miền 
Trung và các đảo thuộc quần đảo Trường Sa 
lại tương đương với mực nước lớn nhất tại 
vùng biển phía Tây. 
Như vậy, chế độ triều khu vực biển, đảo phía 
Nam rất phức tạp, vùng duyên hải miền 
Trung từ Quy Nhơn trở vào đến Phan Thiết 
và vùng biển từ mũi Cà Mau đến Hà Tiên là 
nhật triều không đều, trong khi vùng phía 
Đông từ Bà Rịa đến Mũi Cà Mau là bán nhật 
triều không đều. 
Mực nước triều cao nhất tại ven bờ biển 
Đông Nam Bộ có xu thế tăng dần từ Bắc 
(Vũng Tàu) xuống Nam (Gành Hào). Tương 
tự, mực nước triều cao nhất ở vùng ven biển 
miền Trung và các đảo ngoài khơi có xu 
hướng cũng tăng theo hướng từ Bắc xuống 
Nam. Trong khi đó, tại vùng ven bờ biển 
phía Tây Nam Bộ, mực nước cực đại giảm 
theo hướng từ Nam (mũi Cà Mau) lên Bắc 
(Rạch Giá, Hà Tiên). Mực nước triều cao 
nhất năm thường xuất hiện vào các tháng X, 
XI và mực nước triều thấp nhất vào các 
tháng VI và VII. Như vậy, căn cứ vào độ lớn 
của mực nước triều và chế độ triều, có thể 
phân chia vùng ven biển, các đảo ven bờ và 
ngoài khơi phía Nam nước ta, thành 3 vùng 
triều khác nhau, đó là (i) Vùng ven biển, đảo 
ven bờ khu vực miền Trung và các đảo xa 
bờ; (ii) Vùng ven biển, đảo ven bờ phía 
Đông và; (iii) Vùng ven, đảo ven bờ phía 
Tây. Sự khác nhau này ảnh hưởng rất lớn 
đến việc phân chia lập địa, phục vụ công ... Sa (phải) 
Phân bố của các dạng thể nền trên các đảo khảo sát được thể hiện trong bảng 2. 
Bảng 2. Phân bố của các dạng thể nền tại các đảo VBPN 
TT Loại thể nền 
Thể nền đá 
(Đ) 
Thể nền sỏi 
(So) 
Thể nền cát 
(C) 
Thể nền san 
hô(Sh) 
1 Phú Quốc, Kiên Giang 0 0 +++ 0 
2 Hòn Tre, Kiên Giang +++ 0 + 0 
3 Hòn Khoai, Cà Mau ++ + + ++ 
4 Hòn Côn Sơn, Côn Đảo ++ ++ ++ +++ 
5 Bảy Cạnh, Côn Đảo ++ ++ ++ +++ 
6 Hòn Bà, Côn Đảo ++ ++ ++ +++ 
7 Phú Quý, Bình Thuận +++ + ++ +++ 
8 Trường Sa Lớn, Trường Sa + + + +++ 
9 Sinh Tồn, Trường Sa + + + +++ 
10 Song Tử Tây, Trường Sa + + + +++ 
11 Hòn Tre, Nha Trang ++ +++ + ++ 
12 Hòn Lớn, Vạn Ninh ++ +++ + ++ 
13 Nhất Tự Sơn, Sông Cầu, PY ++ ++ + ++ 
14 Nhơn Châu, Quy Nhơn, BĐ ++ + ++ ++ 
Ghi chú: 0 - Không có, + không phổ biến; ++ phổ biến; +++ Rất phổ biến 
Theo bảng 2 thì dạng thể nền đá gặp ở hầu hết 
các đảo khảo sát, nhiều nhất là ở các đảo Hòn 
Tre - Kiên Giang và Phú Quý - Bình Thuận. 
Dạng thể nền sỏi gặp ở Côn Đảo, Hòn Tre, 
Hòn Lớn - Khánh Hòa, Nhất Tự Sơn - Phú 
Yên. Dạng thể nền san hô cũng gặp ở đa số 
các đảo khảo sát, tập trung nhiều ở các đảo 
ngoài khơi Trường Sa, Song Tử Tây, Sinh 
Tồn, Côn Sơn, Bảy Cạnh, Hòn Bà, Phú Quý... 
Dạng thể nền cát gặp nhiều ở đảo Phú Quốc - 
Hoàng Văn Thơi, Chuyên san/2017 Tạp chí KHLN 2017 
 87 
Kiên Giang, các đảo chìm thuộc quần đảo 
Trường Sa... dạng cát cũng thay đổi về màu 
sắc và kích thước hạt, đặc điểm lý và hóa tính 
của đất. 
Bảng 3 chỉ ra một số đặc điểm cơ bản của 
đất tại các địa điểm khảo sát, bao gồm các 
đảo ven bờ như Hòn Tre - Kiên Giang, Hòn 
Tre - Khánh Hòa, Hòn Nhất Tự Sơn - Phú 
Yên đến các đảo xa bờ như Phú Quốc, Côn 
Đảo, Phú Quý hay các đảo ngoài khơi như 
Trường Sa... đều có cùng tính chất như thành 
phần cơ giới chủ yếu là cát (trên 80%), chỉ 
số pH cao (hơn 8), độ mặn cao, trong khi rất 
nghèo về dinh dưỡng. 
Bảng 3. Một số đặc điểm lý và hóa tính của đất tại các điểm khảo sát 
TT Địa điểm 
Độ sâu 
(cm) 
Sỏi 
(%) 
pH - 
H2O 
pH - 
KCl 
N 
(%) 
P2O5 
(%) 
Thịt 
(%) 
Sét 
(%) 
Cát 
(%) 
1 
Phú Quốc - 
Kiên Giang 
0 - 20 - 7,78 7,46 0,01 0,01 0,85 - 99,15 
40 - 50 - 7,63 7,65 0,01 0,01 0,55 - 99,45 
2 
Hòn Tre - 
Kiên Giang 
0 - 20 - 8,87 8,70 0,01 0,01 6,00 - 94,00 
40 - 50 - 8,85 8,66 0,01 0,01 5,70 - 94,30 
3 Hòn Khoai 
0 - 20 68,60 8,50 8,59 0,04 0,07 10,40 1,25 88,35 
40 - 50 40,38 8,46 8,57 0,04 0,06 9,35 1,25 89,40 
4 
Hòn Bảy Cạnh - 
Côn Đảo 
0 - 20 76,47 8,61 8,59 0,04 0,05 12,18 2,38 85,45 
40 - 50 75,27 8,60 8,56 0,03 0,04 13,00 2,50 84,50 
5 
Hòn Côn Sơn 
Côn Đảo 
0 - 20 55,27 8,74 8,83 0,02 0,03 5,80 0,40 93,80 
40 - 50 45,87 8,78 8,86 0,02 0,02 9,05 1,15 89,80 
6 
Hòn Bà 
- Côn Đảo 
0 - 20 60,23 8,54 8,41 0,05 0,12 10,23 0,73 89,05 
40 - 50 66,05 8,58 8,47 0,03 0,09 8,08 0,05 91,88 
7 
Phú Quý 
0 - 20 70,39 8,68 8,72 0,02 0,08 3,60 0,55 95,85 
40 - 50 61,75 8,72 8,81 0,02 0,06 3,45 0,15 96,40 
8 
Trường Sa - 
Khánh Hòa 
0 - 20 68,37 8,56 8,89 0,01 0,07 0,20 0,90 98,90 
9 Sinh Tồn 0 - 20 72,16 8,60 8,82 0,01 0,07 0,23 0,93 98,83 
10 Song Tử Tây 0 - 20 82,47 8,53 8,72 0,03 0,07 1,05 3,5 95,45 
11 
Hòn Tre 
- Khánh Hòa 
0 - 20 68,60 8,50 8,59 0,04 0,07 10,40 1,25 88,35 
40 - 50 40,38 8,46 8,57 0,04 0,06 9,35 1,25 89,40 
12 
Hòn Lớn (VN) - 
Khánh Hòa 
0 - 20 75,34 8,45 8,38 0,06 0,11 15,35 2,35 82,30 
40 - 50 95,70 8,63 8,56 0,08 0,12 14,15 2,30 83,55 
13 
Nhất Tự Sơn - 
Phú Yên 
0 - 20 84,57 8,52 8,55 0,04 0,10 8,13 1,60 90,27 
40 - 50 80,56 8,64 8,69 0,03 0,10 8,17 1,53 90,30 
14 
Cù Lao Xanh - 
Bình Định 
0 - 20 90,00 8,50 8,58 0,02 0,05 1,40 0,50 98,10 
40 - 50 80,58 8,81 8,92 0,02 0,06 2,00 0,40 97,60 
Tạp chí KHLN 2017 Hoàng Văn Thơi, Chuyên san/2017 
 88 
Thành phần cơ giới các mẫu phân tích chủ yếu 
là cát. Ở một số địa điểm lượng cát chiếm tới 
99%, dạng thịt và sét không đáng kể. Hàm 
lượng dinh dưỡng cực kỳ hạn chế nhất là mùn, 
đạm và lân; trong khi đó hàm lượng muối cao, 
phản ứng đất dạng kiềm. Nhìn chung, điều 
kiện lập địa các khu vực này là cực kỳ khắc 
nghiệt cho việc gây trồng rừng do các yếu tố 
bất lợi về thể nền, thành phần cơ giới đất, môi 
trường kiềm, hàm lượng dinh dưỡng... đặc biệt 
tác động rất mạnh của sóng, gió biển và mức 
độ ngập triều sâu và thường xuyên. 
3.4. Xây dựng bảng phân chia lập địa cho 
vùng ven các đảo phía Nam 
3.4.1. Phân chia vùng lập địa 
Từ kết quả theo dõi thủy triều ở mục 3.1 cho 
thấy có sự biến động rất lớn về độ lớn của thủy 
triều sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến việc lựa chọn 
loại cây trồng và kỹ thuật trồng rừng tại các 
khu vực nghiên cứu; do vậy, tác giả đã chọn 
tiêu chí về độ lớn của thủy triều để phân chia 
thành các vùng lập địa. Kết quả phân vùng 
ngập mặn ven các đảo vùng biển phía Nam 
được chia thành 3 vùng lập địa với các đặc 
điểm nêu tại bảng 4. 
Bảng 4. Phân chia vùng lập địa ven các đảo vùng biển phía Nam theo tiêu chí độ ngập triều 
TT Vùng lập địa 
Tiêu chí phân chia 
Loài cây chủ yếu Độ ngập triều (m) 
Cao nhất Trung bình Thấp nhất 
1 
Các đảo ven bờ miền 
Trung và ngoài khơi 
2,3 1,3 0,2 
Mắm biển, Đâng, Đước, Cóc Trắng, Giá, Đưng, 
Sú đỏ, Mắm trắng, Bần trắng và Sú cong 
2 
Các đảo ven bờ 
phía Đông 
4,1 2,6 0,1 
Đâng, Sú đỏ, Đưng, Đước, Dà vôi, Vẹt dù, Xu 
ổi, Xu rumphii, Cui, Bần trắng 
3 
Các đảo ven bờ 
phía Tây 
1,4 0,8 0,4 Giá, Đước, Đưng, Xu ổi, Cui, Mắm trắng, Vẹt dù 
3.4.2. Phân chia dạng lập địa 
Từ kết quả theo dõi độ mặn ở mục 3.2, thể nền 
ở mục 3.3, phân chia vùng lập địa ở mục 3.4, 
cho thấy có sự khác biệt rất lớn về mức độ 
ngập triều, độ mặn, thể nền giữa các đảo trên 
vùng biển phía Nam so với vùng duyên hải lục 
địa. Trong mỗi vùng lập địa tùy theo kết quả 
khảo sát về mức độ ngập triều, độ mặn nước 
biển và thể nền để xây dựng bảng phân chia 
lập địa đó là: 
Dạng thể nền: Đất ngập mặn ven các đảo qua 
phân tích và quan sát phẫu diện đất được chia 
thành 4 dạng chính đó là: i) Cát thô lẫn vỏ sò, 
vụn san hô - Ký hiệu là C; ii) Đá có kích thước 
lớn, xen một lượng nhỏ cát, vụn san hô trên 
nền san hô tảng. Hoặc đá có kích thước trung 
bình hoặc nhỏ hơn, xen lẫn cát, vun san hô 
trên nền san hô tảng - Ký hiệu là Đ; iii) Sỏi 
trên nền đá san hô - Ký hiệu là So; và iv) San 
hô cứng, phía trên lẫn cát mịn mỏng 5 - 10mm 
- Ký hiệu là Sh. 
Ngập triều (mức độ ngập): Tùy theo từng 
vùng lập địa mà độ sâu ngập khác nhau được 
thể hiện trong bảng 5. 
Hoàng Văn Thơi, Chuyên san/2017 Tạp chí KHLN 2017 
 89 
Bảng 5. Phân chia mức độ ngập triều theo 3 vùng lập địa 
Kí 
hiệu 
Mức độ ngập 
triều 
Độ cao (m) 
Đặc điểm thủy triều 
Cao nhất Thấp nhất 
A Các đảo ven biển miền Trung và ngoài khơi (NTB) 
Tt Ngập triều thấp 1,1 0,2 
Ngập triều thường xuyên, độ ngập triều cao từ 1,2 - 2,1m, 
không có thực vật sinh sống. 
Ttb 
Ngập triều 
trung bình 
1,4 1,1 
Ngập bởi triều trung bình, có số ngày ngập từ 9 - 19 
ngày/tháng. Độ ngập cao nhất từ 0,9 - 1,2m. 
Tc Ngập triều cao 2,3 1,4 
Ngập bởi triều cao, số ngày ngập từ 2 - 8 ngày/tháng, ngập 
từ 0 - 0,9m. 
B Các đảo ven bờ phía Đông 
Tt Ngập triều thấp 2,0 0,1 
Ngập triều thường xuyên, độ ngập triều cao từ 2,1 - 4,0m, 
không có hoặc có rất ít thực vật sinh sống. 
Ttb 
Ngập triều trung 
bình 
2,9 2,0 
Ngập bởi triều trung bình, có số ngày ngập từ 9 - 19 
ngày/tháng. Độ ngập triều từ 1,2 - 2,1m. 
Tc Ngập triều cao 4,1 2,9 
Ngập bởi triều cao có số ngày ngập từ 2 - 8 ngày/tháng, 
ngập 0 - 1,2m, 
C Các đảo ven bờ phía Tây 
Tt Ngập triều thấp 0,6 0,4 
Ngập triều thường xuyên, độ ngập triều cao từ 0,8 - 1,0m, có 
ít hoặc không có thực vật sinh sống. 
Ttb 
Ngập triều trung 
bình 
0,8 0,6 
Ngập bởi triều trung bình, có số ngày ngập từ 9 - 19 
ngày/tháng. Độ ngập 0,6 - 0,8m. 
Tc Ngập triều cao 1,4 0,8 
Ngập bởi triều cao có số ngày ngập từ 2 - 8 ngày/tháng, độ 
ngập triều 0 - 0,6m. 
Theo bảng 5 cho thấy có tồn tại 3 dạng độ 
ngập với tần suất ngập triều là ngập triều 
thấp - ký hiệu Tt; dạng ngập triều trung bình 
- ký hiệu là Ttb và dạng ngập triều cao - ký 
hiệu là Tc. 
Độ mặn nước biển: Căn cứ vào kết quả phần 
3.2, độ mặn nước biển tại các đảo khảo sát 
biến động trong khoảng từ 15 - 36‰ tùy theo 
từng vùng lập địa, kết hợp với đặc điểm sinh 
thái của loài cây ngập mặn, nhất là đặc điểm 
chịu mặn của loài... là cơ sở để phân chia. Độ 
mặn được chia làm 2 cấp là: i) Mặn nặng: ký 
hiệu là Mn (> 30‰); và ii) Mặn trung bình: ký 
hiệu là Mtb (15 - 30‰). Độ mặn nặng phân bố 
ở các đảo xa bờ, các đảo ven biển khu vực 
NTB; trong khi đó độ mặn trung bình (Mtb) 
gặp ở các đảo vùng ĐBSCL 
Xây dựng bảng phân chia lập địa: Dạng lập 
địa được tổng hợp từ 3 yếu tố phân chia lập địa 
là thể nền, độ mặn và mức độ ngập triều nêu 
trên. Kết quả phân chia lập địa được thể hiện ở 
bảng 6. 
Tạp chí KHLN 2017 Hoàng Văn Thơi, Chuyên san/2017 
 90 
Bảng 6. Bảng phân chia lập địa cho các đảo VBPN 
TT Thể nền Độ mặn 
Phân chia các dạng lập địa 
Mức độ ngập triều 
Loài thực vật phân bố 
Tt Ttb Tc 
1 
C 
Mn CMnTt * CMnTtb * CMnTc Bằng phi, Dà vôi 
2 Mtb CMtbTt * CMtbTtb* CMtbTc Cóc trắng, Cui, Giá 
3 
Đ 
Mn ĐMnTt ĐMnTtb ĐMnTc Dà vôi, Sú đỏ, Đâng 
4 Mtb ĐMtbTt ĐMtbTtb ĐMtbTc Đước, Vẹt dù, Xu ổi 
5 
So 
Mn SoMnTt SoMnTtb SoMnTc Bần trắng, Mắm biển 
6 Mtb SoMtbTt SoMtbTtb SoMtbTc Đước, Đưng, Mắm 
7 
Sh 
Mn ShMnTt ShMnTtb ShMnTc Đâng, Mắm biển 
8 Mtb ShMtbTt ShMtbTtb ShMtbTc Vẹt dù, Xu ổi 
Kết quả phân chia ở bảng 6 đã chia mỗi vùng 
lập địa ra 24 dạng lập địa dựa trên tổ hợp 3 
nhân tố cơ bản là chế độ ngập triều, thể nền và 
độ mặn. Tuy nhiên, 4 dạng (*) không tồn tại 
trên thực tế, do cát luôn luôn bị sóng và gió 
đẩy vào bờ. 
Như vậy, theo kết quả phân chia lập địa đất 
ngập mặn ven đảo cho vùng biển phía Nam 
cho thấy mỗi vùng có 20 dạng lập địa, trong 
đó đất ngập mặn thấp có 6 dạng lập địa, đất 
ngập mặn trung bình có 6 dạng và dạng lập địa 
ngập mặn cao là 8 dạng. 
IV. KẾT LUẬN 
Có sự khác nhau về độ ngập triều trung bình 
cao nhất tại các đảo vùng biển phía Đông là 
3,51m, kế đến là 1,57m ở vùng miền Trung và 
các đảo xa bờ ngoài khơi và thấp nhất là 
0,95m ở các đảo vùng biển phía Tây. Độ mặn 
nước biển bình quân tăng dần từ các đảo ven 
bờ ra phía ngoài, các đảo xa bờ có độ mặn rất 
cao 34 - 35‰ và khá đồng đều ở các tháng 
trong năm, các đảo ven bờ có độ mặn thấp hơn 
và chỉ cao vào tháng 3 và tháng 4. 
Ven các đảo vùng biển phía Nam bao gồm 4 
dạng thể nền chính là thể nền đá, dạng sỏi, 
dạng san hô và dạng cát. Đặc tính cơ bản của 
thể nền ven các đảo có thành phần cơ giới chủ 
yếu là cát (trên 80%), chỉ số pH cao (hơn 8), 
độ mặn cao, nghèo về dinh dưỡng. 
Các đảo vùng biển phía Nam được chia thành 
3 vùng lập địa gồm: (1) các đảo ven biển Nam 
Trung Bộ và các đảo ngoài khơi, (2) các đảo 
ven bờ vùng biển phía Đông và, (3) các đảo 
ven bờ vùng biển phía Tây. 
Mỗi vùng lập địa được chia ra 20 dạng lập địa, 
gồm nền cát, mặn nặng, ngập triều cao 
(CMnTc); nền cát, mặn trung bình, ngập triều 
cao (CMtbTc); nền đá, mặn nặng, ngập triều 
thấp (ĐMnTt); nền đá, mặn nặng, ngập triều 
trung bình (ĐMnTtb); nền đá, mặn nặng, ngập 
triều cao (ĐMnTc); nền đá, mặn trung bình, 
ngập triều thấp (ĐMtbTt); nền đá, mặn trung 
bình, ngập triều trung bình (ĐMtbTtb); nền đá, 
mặn trung bình, ngập triều cao (ĐMtbTc); nền 
sỏi, mặn nặng, ngập triều thấp (SoMnTt); nền 
sỏi, mặn nặng, ngập triều trung bình 
(SoMnTtb); nền sỏi, mặn nặng, ngập triều cao 
(ĐMnTc); nền sỏi, mặn trung bình, ngập triều 
thấp (SoMtbTt); nền sỏi, mặn trung bình, ngập 
triều trung bình (SoMtbTtb); nền sỏi, mặn 
trung bình, ngập triều cao (SoMtbTc); nền san 
hô, mặn nặng, ngập triều thấp (ShMnTt); nền 
san hô, mặn nặng, ngập triều trung bình 
(ShMnTtb); nền san hô, mặn nặng, ngập triều 
cao (ShMnTc); nền san hô, mặn trung bình, 
ngập triều thấp (ShMtbTt); nền san hô, mặn 
trung bình, ngập triều trung bình (ShMtbTtb) 
và nền san hô, mặn trung bình, ngập triều cao 
(ShMtbTc); 
Hoàng Văn Thơi, Chuyên san/2017 Tạp chí KHLN 2017 
 91 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bộ Lâm nghiệp, 1984. Quy phạm kỹ thuật trồng, nuôi dưỡng và bảo vệ rừng Đước (QPN7 - 84). 
2. Chan, H.T. & Baba, S., 2009. Manual on Guidelines for Rehabilitation of Coastal Forests damaged by Natural 
Hazards in the Asia - Pacific Region. International Society for Mangrove Ecosystems (ISME) and International 
Tropical Timber Organization (ITTO), 66 pp. 
3. Chapman. V. J., 1975. Mangrove vegetation, Auckland University NewZealand. 
4. DeHaan, J. H.1931. Het een en ander over de Tjilatjap’sche vloedbosschen. Tectona24:39 - 76. 
5. Ding Hou, 1958. Rhizophoraceae. Flora Malesiana, Ser.I, 5: 429 - 493. 
6. English, S., C. Wilkinson and V. Basker, 1997. Survey Manual for Tropical Marine Resources (2nd Ed). 
Austrlian Institute of Marine Science. Townsville, p 119 - 195. 
7. Gillespie, R.G., 2007. Oceanic islands: models of diversity. In: Levin, S.A. (Ed.) Encyclopedia of Biodiversity, 
2007 Elsevier Inc., pp 1 - 13. 
8. ISRIC, 1995. Procedures for soil analysis. Wageningen, Netherlands. 
9. Mimura, N., 1999. Vulnerability of island countries in the South Pacific to sea level rise and climate change. 
Climate Research 12: 137 - 143. 
10. Ngô Đình Quế và Ngô An, 2001. Tiêu chuẩn phân chia lập địa cho vùng ngập mặn ven biển Việt Nam và thuyết 
minh xây dựng bản đồ lập địa vùng ngập mặn ven biển huyện Thạch Phú tỉnh Bến Tre, Báo cáo chuyên đề, 
Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam, Hà Nội. 
11. Ngô Đình Quế, 2003. Khôi phục và phát triển rừng ngập mặn, rừng Tràm ở Việt Nam, NXB Nông nghiệp, 
Hà Nội. 
12. Đỗ Đình Sâm, Ngô Đình Quế, Vũ Tấn Phương, 2005. Hệ thống đánh giá đất lâm nghiệp. Nhà xuất bản Khoa 
học và Kỹ thuật - Hà Nội: 116 trang 
13. Seanger, P.,Hegerl,E.J. and David, J.D.S.,1983. Global status of Mangrove ecosystems. IUCN Commission on 
Ecology Papers (3): 1 - 88. 
14. Solomon, S.M. & Forbes, D.L., 1999. Coastal hazards and associated management issues on South Pacific 
Islands. Ocean & Coastal Management 42: 523 - 554. 
15. Đoàn Đình Tam, 2011. Nghiên cứu kỹ thuật trồng rừng ngập mặn trên các điều kiện lập địa khó khăn góp 
phần chắn sóng vùng ven biển miền Bắc Việt Nam. Trong: Kết quả nghiên cứu khoa học công nghệ lâm 
nghiệp giai đoạn 2006 - 2010. Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam. Nhà xuất bản Nông nghiệp - Hà Nội: 
599 trang (221 - 229). 
16. Tomlinson, P.B., 1986.The Botany od Mangroves, Cambridge University Press. 
17. UNEP, 2005. After the tsunami. Rapid environment assessment. UNEP Nairobi, Keynia. 
18. Viện Thổ nhưỡng Nông hóa, 1998. Sổ tay phân tích đất, nước, phân bón, cây trồng. Nhà xuất bản Nông nghiệp, 
Hà Nội. 
19. Tô Văn Vượng, 2009. Nghiên cứu một số cơ sở khoa học nhằm đề xuất các giải pháp kỹ thuật gây trồng rừng 
ngập mặn cho vùng bãi bồi ven biển huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình. Luận văn Thạc sỹ lâm nghiệp Trường Đại 
học Nông Lâm Thái Nguyên: 81 trang. 
20. Watson, J.G. 1928. Mangrove forests of the the Malay Peninsula. Malayan Forest Records (6):1 - 275. 
Người thẩm định: TS. Vũ Tấn Phương 

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_dac_diem_lap_dia_va_phan_chia_lap_dia_trong_rung.pdf