Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và mối liên quan giữa nồng độ cytokine với tiên lượng của bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết nặng
TÓM TẮT
Mở đầu: Nhiễm khuẩn huyết (NKH) là bệnh lý thường gặp trong hồi sức. Bên cạnh chẩn đoán sớm và
điều trị tích cực theo đúng phác đồ thì việc đánh giá mức độ nặng, tiên lượng và theo dõi đáp ứng điều trị
cũng rất quan trọng. Các chất chỉ điểm sinh học (biomarker), đặc biệt là cytokine được kỳ vọng sẽ gia tăng
độ chính xác của các tiêu chuẩn lâm sàng trong các vấn đề này. Tuy đã có nhiều nghiên cứu lâm sàng, cận
lâm sàng về NKH nặng nhưng chưa có các nghiên cứu đề cập đến mối liên quan giữa nồng độ cytokine và
đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng với độ nặng và tiên lượng tử vong bệnh nhân NKH nặng. Vì thế, chúng
tôi thực hiện đề tài “Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và mối liên quan giữa nồng độ cytokine
với tiên lượng của bệnh nhân NKH nặng”.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và mối liên quan giữa nồng độ cytokine với tiên lượng của bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết nặng
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – Bệnh Viện Chợ Rẫy ‐ Năm 2013 1 NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG VÀ MỐI LIÊN QUAN GIỮA NỒNG ĐỘ CYTOKINE VỚI TIÊN LƯỢNG CỦA BỆNH NHÂN NHIỄM KHUẨN HUYẾT NẶNG Phạm Thị Ngọc Thảo* TÓM TẮT Mở đầu: Nhiễm khuẩn huyết (NKH) là bệnh lý thường gặp trong hồi sức. Bên cạnh chẩn đoán sớm và điều trị tích cực theo đúng phác đồ thì việc đánh giá mức độ nặng, tiên lượng và theo dõi đáp ứng điều trị cũng rất quan trọng. Các chất chỉ điểm sinh học (biomarker), đặc biệt là cytokine được kỳ vọng sẽ gia tăng độ chính xác của các tiêu chuẩn lâm sàng trong các vấn đề này. Tuy đã có nhiều nghiên cứu lâm sàng, cận lâm sàng về NKH nặng nhưng chưa có các nghiên cứu đề cập đến mối liên quan giữa nồng độ cytokine và đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng với độ nặng và tiên lượng tử vong bệnh nhân NKH nặng. Vì thế, chúng tôi thực hiện đề tài “Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và mối liên quan giữa nồng độ cytokine với tiên lượng của bệnh nhân NKH nặng”. Đối tượng nghiên cứu: bệnh nhân ≥18 tuổi, được chẩn đoán NKH dựa theo tiêu chuẩn của Hội nghị thống nhất các Hội hồi sức thế giới năm 2001 và có bằng chứng vi sinh, nhập khoa HSCC‐ BVCR từ tháng 12/2008 đến tháng 12/ 2010. Phương pháp nghiên cứu: mô tả, tiền cứu, cắt ngang. Bệnh nhân vào nghiên cứu, trong thời gian 24 giờ, được lấy máu định lượng nồng độ TNF‐α, IL‐6 và IL‐10. Kết quả: Có 123 bệnh nhân đủ tiêu chuẩn nhận bệnh tham gia nghiên cứu. Tuổi trung bình 58,2 ± 18,8 tuổi, điểm trung bình APACHE II là 23,3 ± 8,3 và SOFA là 10,6 ± 3,6, tỷ lệ tử vong chung là 61%. Tỷ lệ sốc nhiễm khuẩn là 88,6%, RLCN đa cơ quan chiếm tỷ lệ 82,1%. Thang điểm APACHE II và SOFA có giá trị tiên lượng tử vong khá tốt ở bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết nặng với diện tích dưới đường cong ROC lần lượt là 0,812 (95%CI 0,731‐ 0,877) và 0,703 (95%CI 0,613‐ 0,782). Điểm APACHE II với điểm cắt >25 có độ nhạy là 57,3%, độ đặc hiệu là 97,9%. Điểm SOFA với điểm cắt >10 có độ nhạy là 64,9%, độ đặc hiệu là 69,1%. Nồng độ CRP và Procalcitonin ở bệnh nhân NKH trung bình là 122,7 ± 55,2 (mg/l) và 49,8 ± 98,4 (ng/dl) và có giá trị tiên lượng tử vong kém với diện tích dưới đường cong của lần lượt là 0,528 và 0,604. Nồng độ IL‐6 ở thời điểm T24 tăng trên 97,6 pg/ml có khả năng tiên lượng tử vong trên bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết nặng với diện tích dưới đường cong 0,721. Nồng độ IL‐10 ở thời điểm T24 tăng trên 7,1 pg/ml có khả năng tiện lượng tử vong với diện tích dưới đường cong là 0,766. Tỷ lệ IL‐10/TNF‐α tại thời điểm T24 > 0,73 có khả năng tiên lượng tử vong với diện tích dưới đường cong 0,719. Nồng độ IL‐6 huyết thanh thời điểm T24 giảm 0,81 lần so với thời điểm T0 có khả năng tiên lượng tử vong, diện tích dưới đường cong 0,775. Có liên quan giữa nồng độ IL‐6, IL‐10 và tỷ lệ IL‐10/TNF‐α thời điểm 24 giờ với mức độ nặng của bệnh đánh giá theo thang điểm APACHE II, và nồng độ IL‐ 10 thời điểm 24 giờ với tình trạng RLCN cơ quan. Kết hợp điểm APACHE II và tỉ lệ sự thay đổi nồng độ IL6 thời điểm T24 giờ so với T0 có khả năng tiên đoán tử vong với độ chính xác là 83,1%, diện tích dưới đường cong ROC là 0,857 (95%CI, 0,753 – 0,929). Kết luận: Có sự liên quan giữa nồng độ IL‐6, IL‐10 và tỷ lệ IL‐10/TNF‐α thời điểm 24 giờ với mức độ nặng của bệnh đánh giá theo thang điểm APACHE II, và nồng độ IL‐10 thời điểm 24 giờ với tình trạng suy cơ quan. Vì vậy, có thể kết hợp sử dụng các thang điểm SOFA, APACHE II và nồng độ IL‐ 6, IL‐10 và tỷ lệ IL‐10/TNF‐α để theo dõi diễn tiến và tiên lượng bệnh của bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết nặng. * Bệnh viện Chợ Rẫy Tác giả liên lạc: TS.BSCKII. Phạm Thị Ngọc Thảo ĐT: 0903628016 Email: thaocrh10@yahoo.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – Bệnh Viện Chợ Rẫy ‐ Năm 2013 2 Từ khóa: Nhiễm khuẩn huyết nặng, cytokine, tiên lượng tử vong. ABSTRACT CLINICAL MANIFESTATIONS AND RELATIONSHIP OF CYTOKINES SERUM CONCENTRATIONS AND MORTALITY PROGNOSIS IN PATIENT WITH SEVERE SEPSIS Pham Thi Ngoc Thao * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 2 ‐ 2013: 1 ‐ 6 Introduction: Sepsis (NKH) is common in ICU departments. In addition to early diagnosis and aggressive treatment, assessment of severity, prognosis and monitoring response to treatment is also important. The biomarkers, especially cytokines is expected to increase the accuracy of the clinical standards in this matter. There is still lack of studies on the relationship between cytokine concentrations and clinical manifestations with the severity and prognosis of severe sepsis. Therefore, we carried out this study. Patient and Method: ‐ Patients: over 18‐year‐old patients diagnosed with severe sepsis based on ACCP‐ CCM 2001 criteria and microbiological documented, admission HSCC‐BVCR from 12/2008 to 12/2010. ‐ Methods: descriptive, prospective, cross‐section. Results: There are 123 patients eligible for the study. Mean age 58.2 ± 18.8 years, mean APACHE II was 23.3 ± 8.3 and SOFA, 10.6 ± 3.6, the overall mortality rate was 61%. Septic shock was 88.6%, multiple organ dysfunction accounted for 82.1%. APACHE II and SOFA scores fairly good predictor of mortality in patients with severe sepsis with an area under the curve ROC was 0.812 (95% CI 0.731 to 0.877) and 0.703 (95% CI 0.613 to 0.782 ). APACHE II score cut‐off point> 25 had a sensitivity of 57.3%, specificity of 97.9%. SOFA score cutoff point> 10 had a sensitivity of 64.9%, specificity of 69.1%. CRP and procalcitonin concentrations were122.7 ± 55.2 (mg / l) and 49.8 ± 98.4 (ng / dl) and AUC ROC mortality predict were 0.528 and 0.604, respectively. The concentration of IL‐6 at T24 increased as high as 97.6 pg / ml have the ability to predict mortality in severe sepsis patients with ROC 0.721. The concentration of IL‐10 at T24 was 7.1 pg / ml and ROC 0.766. Ratio IL‐10/TNF‐α at T24 > 0.73 with ROC 0.719. Serum levels of IL‐6 at T24 time reduced 0.81 times compared with T0 be able to predict mortality, with ROC 0.775. There was the relationship between the concentration of IL‐6, IL‐10, and IL‐10/TNF‐α at T24 with the severity of sepsis, eg. APACHE II score, and IL‐ 10 concentrations at T24 and MODS. Combination of APACHE II and IL‐6 T24_0 be able to predict mortality with an accuracy of 83.1%, and ROC was 0.857 (95% CI, 0.753 to 0.929). Conclusion: There is an association between concentrations of IL‐6, IL‐10 and the IL‐10/TNF‐α ratio at T24 with the severity of sepsis, e.g APACHE II, and IL‐10 at T24 with MODS. Combination of SOFA, APACHE II scores and the concentration of IL‐6, IL‐10 and ratio IL‐10/TNF‐α at 24‐hour time‐point for monitoring disease progression and prognosis of patients with severe sepsis. Keywords: severe sepsis, cytokines, mortality predict. MỞ ĐẦU Nhiễm khuẩn huyết (NKH) là một bệnh lý thường gặp trong hồi sức, bên cạnh chẩn đoán sớm và điều trị theo đúng phác đồ thì việc đánh giá mức độ nặng, tiên lượng và theo dõi đáp ứng điều trị cũng rất quan trọng. Đã có nhiều nghiên cứu lâm sàng, cận lâm sàng về NKH nặng nhưng chưa có các nghiên cứu đề cập đến mối liên quan giữa nồng độ cytokine và đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng, độ nặng và tiên lượng tử vong bệnh nhân NKH nặng. Vì thế, chúng tôi thực hiện đề tài “Nghiên cứu lâm sàng, cận lâm sàng và mối liên quan giữa nồng độ cytokine và độ nặng của bệnh nhân NKH nặng”. ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu ‐ Bệnh nhân nặng nhập khoa HSCC‐ BVCR, ≥18 tuổi, từ tháng 12/2008 đến tháng 12/2010. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – Bệnh Viện Chợ Rẫy ‐ Năm 2013 3 Tiêu chuẩn chọn bệnh Theo định nghĩa và tiêu chuẩn chẩn đoán NKH 2001. Phương pháp nghiên cứu ‐ Phương pháp tiến cứu, cắt ngang, phân tích. ‐ BN NKH nặng được thu thập dữ liệu lâm sàng, cận lâm sàng theo mẫu lấy mẫu bệnh án nghiên cứu. TNF‐α, IL‐1a, IL‐1b, IL‐6, IL‐8, IL‐10 ngay sau nhập khoa HSCC, sau 2 giờ, sau 4 giờ và sau 24 giờ, định lượng với công nghệ Biochip array, máy Evidence. Xử lý số liệu Số liệu được xử lý bằng phần mềm thống kê y học Stata 16.0. KẾT QUẢ Từ tháng 12/2008 đến tháng 12/ 2010, có 123 bệnh nhân được chẩn đoán nhiễm khuẩn huyết theo tiêu chuẩn của ACCP/SCCM‐2001 và có bằng chứng vi sinh. Bảng 1: Đặc điểm lâm sàng bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết nặng trong nghiên cứu Số bệnh nhân 123 Tuổi (năm) 58,2 ± 18,8 Nam / nữ 62 / 61 Số ngày khởi phát bệnh trước nhập viện (ngày) 3 (1 ; 7) Thời gian điều trị trước khi vào HSCC (ngày) 2 (1 ; 3) Thời gian điều trị tại khoa HSCC (ngày) 6 (3 ; 12) Thời gian nằm viện (ngày) 11 (5 ; 20) Tỉ lệ bệnh nhân thở máy 98/123 (79,7%) Điểm APACHE II trung bình 23,3 ± 8,3 Điểm SOFA trung bình 10,6 ± 3,6 Tỷ lệ tử vong 75/123 (61%) 4.1% 13.8% 27.6% 25.2% 24.4% 4.9% 0.0% 47.1% 58.8% 64.5% 80.0% 83.3% 0% 20% 40% 60% 80% 100% Biểu đồ 1: Tỷ lệ mắc (%) và tỷ lệ tử vong (%) của NKH nặng, phân tầng theo số lượng cơ quan bị RLCN 56 21 07 07 02 07 67 62 44 25 50 67 0% 20% 40% 60% 80% Tiêu hóa Hô hấp Niệu dục Da Cơ xương Không rõ Tỉ lệ mắc Tỉ lệ tử vong Biểu đồ 2: Tỷ lệ mắc (%) và tỷ lệ tử vong (%) của NKH nặng, phân tầng theo Ngõ vào của nhiễm khuẩn Bảng 2: Các yếu tố lâm sàng liên quan đến tử vong Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – Bệnh Viện Chợ Rẫy ‐ Năm 2013 4 Thông số Tử vong Còn sống Giá trị p Thời gian nằm viện (ngày) 12,7 ± 15,4 21,5 ± 13,8 0,002 Điểm APACHE II (trung bình ± SD) 26, 6 ± 7,9 18,0 ± 5,8 <0,001 Điểm SOFA (trung bình ± SD) 11,6 ± 3,6 9,1 ± 2,9 <0,001 Số cơ quan RLCN 4 ± 1 3 ± 1 <0,001 Bảng 3: Đặc điểm cận lâm sàng của bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết nặng Xét nghiệm Đơn vị Giá trị bình thường Trung bình Độ lệch chuẩn Nhỏ - Lớn (min-max) BC K/ mm3 4-11 19,1 1,36 0,18 - 71,2 BCĐNTT % 45-75 84,5 14,1 12,8 - 99,2 CRP mg/l <6 122,7 55,2 10 – 286 Procalcitonin ng/dl <0,5 49,8 98,4 0,2 – 635 Lactate máu mmol/l 4,5-20 43,6 34,4 0,5 – 186 Bảng 4: Các yếu tố cận lâm sàng liên quan đến tử vong ở bệnh nhân NKH nặng Xét nghiệm TỬ VONG CÒN SỐNG Giá trị P BUN (mg/dl) 45,9 ± 25,1 35,7 ± 21,6 0,019 aPTT (giây) 42,9 ± 20,8 35,9 ± 9,4 0,018 pH 7,28 ± 0,14 7,33 ± 0,11 0,037 HCO3 (mmol/L) 16,4 ± 5,8 19,0 ± 4,4 0,008 Bảng 5. Giá trị tiên lượng của các thông số thang điểm (APACHE II, SOFA) và số cơ quan bị RLCN ở bệnh nhân NKH nặng AUC 95% CI Điểm cắt Độ nhạy Độ đặc hiệu PPV NPV APACHE II 0,810 0,728 – 0,875 >25 57,3% 97,9% 97,7% 59% SOFA 0,703 0,613 – 0,782 >10 64,9% 68,1% 76,2% 55,2% Số cơ quan RLCN 0,668 0,577 – 0,751 >3 65,3% 62,5% 73,1% 53,6% Bảng 6: So sánh nồng độ cytokine tại các thời điểm, giữa 2 nhóm bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết nặng sống và tử vong SỐNG TỬ VONG Giá trị p (Mann-Whitney test) N Trung vị N Trung vị IL-6 giờ thứ 24 32 65,395 46 286,860 0,002 IL-10 giờ thứ 24 32 5,700 46 18,385 < 0,001 IL-6 thời điểm T24 so với T0 27 -5,550 44 -0,220 0,028 IL-10/TNF giờ thứ 24 32 16,805 46 9,495 < 0,001 Bảng 7: Giá trị tiên lượng của nồng độ cytokine ở bệnh nhân NKH nặng AUC 95% CI Điểm cắt Độ nhạy Độ đặc hiệu PPV NPV IL-6_T24 0,721 0,602 - 0,821 > 97,6 84,8% 59,4% 75,0% 73,1% IL-10_T24 0,766 0,651 - 0,859 > 7,1 89,1% 59,4% 75,9% 79,2% IL-10 /TNF (T24) 0,719 0,606 - 0,815 > 0,73 82.6% 53% 71,7% 68,0% IL-6_T24 so với T0 0,775 0,661 - 0,866 > -0,81 86,4% 62,9% 79,2% 73,9% BÀN LUẬN Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết nặng Điểm APACHE II tại thời điểm nhập khoa HSCC khác biệt có ý nghĩa giữa nhóm bệnh nhân tử vong và nhóm bệnh nhân còn sống, với p < 0,001 (Bảng 2). Khi vẽ đường cong ROC liên quan tử vong và điểm APACHE II, chúng tôi tính được diện tích dưới đường cong ROC là 0,81, chứng tỏ điểm APACHE II có khả năng phân biệt tốt bệnh nhân sống và tử vong. Với điểm cắt là >25, độ nhạy và độ đặc hiệu trong tiên đoán tử vong lần lượt là 57,3% và 97,9%. Kết Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – Bệnh Viện Chợ Rẫy ‐ Năm 2013 5 quả nghiên cứu của chúng tôi cũng tương tự các tác giả khác như Peres Bota, Ho, Gursel với diện tích dưới đường cong ROC lần lượt là 0,880; 0,858 và 0,810(5,8,11). Điểm SOFA ngày nhập viện khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai nhóm bệnh nhân còn sống và tử vong. Số cơ quan bị RLCN giữa hai nhóm bệnh nhân tử vong và còn sống cũng khác biệt có ý nghĩa thống kê (Bảng 2). Khả năng tiên lượng tử vong của điểm APACHE II và SOFA tại thời điểm nhập viện là khá tốt, với AUC lần lượt là 0,81 và 0,703, tương tự nhiều nghiên cứu của các tác giả TN Hải, Ferreira, Peres Bota, Timsit(2,11). Theo nghiên cứu của chúng tôi, 82,1% bệnh nhân có biểu hiện RLCN chức năng từ 3 cơ quan trở lên (biểu đồ 1), trung bình số cơ quan bị rối loạn chức năng là 3,53 ± 0,12 cơ quan. Theo LTD Tuyết và cộng sự nghiên cứu tại khoa HSCC ‐ bệnh viện Bạch Mai, ở bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết nặng, trung bình số cơ quan bị RLCN là 3,80 ± 1,06 cơ quan. Về ngõ vào của nhiễm khuẩn huyết, biểu đồ 2 cho thấy nhiễm khuẩn từ đường tiêu hóa và từ đường hô hấp dưới là thường gặp nhất, với tỷ lệ tử vong lần lượt là 66,7% và 61,5%, có liên quan đến đặc thù của khoa HSCC ‐ Bệnh viện Chợ Rẫy, đây là khoa hồi sức nội và ngoại khoa, trong đó bệnh nhân hồi sức sau phẫu thuật tiêu hóa gan mật chiếm số lượng nhiều và thường có bệnh lý nội khoa đi kèm từ các tuyến chuyển về. Nồng độ CRP, Procalcitonin trong huyết tương bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết nặng vào nghiên cứu tăng cao, với nồng độ CRP trung bình là 122,7 mg/l và nồng độ procalcitonin trung bình là 49,8 ng/ml. Tuy nhiên, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nhóm bệnh nhân sống và tử vong với p lần lượt là 0,931 và 0,159. Nồng độ CRP và procalcitonin có khả năng tiên lượng kém với AUC lần lượt là 0,528 và 0,604. Theo nghiên cứu của Nguyễn Nghiêm Tuấn về giá trị của CRP và procalcitonin máu trong chẩn đoán và tiên lượng bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết nặng cũng cho kết quả tương tự, với AUC của CRP, PCT lần lượt là 0,533 và 0,657(10). Hà Tấn Đức nghiên cứu về giá trị của CRP và procalcitonin trên bệnh nhân viêm phổi cũng cho thấy có giá trị chẩn đoán tốt tình trạng nhiễm khuẩn, tuy nhiên, giá trị tiên đoán tử vong thấp(6). Nghiên cứu chúng tôi đã xác định được các yếu tố liên quan tử vong, bao gồm: Về lâm sàng, đó là các yếu tố: Điểm APACHE II, điểm SOFA, số cơ quan bị RLCN. Về cận lâm sàng, đó là các yếu tố: BUN, pH, HCO3 máu động mạch và thời gian đông máu nội sinh aPTT. Mối liên quan giữa nồng độ cytokin va tiên lượng của bệnh nhân NKH nặng Trong nhiễm khuẩn huyết, nồng độ các cytokin TNF‐α, IL‐1, IL‐6, IL‐8, IL‐10 tăng cao. Ghi nhận này phù hợp với các báo cáo của các tác giả khác(1,3,4,7,12) Tại tất cả thời điểm nghiên cứu, ở bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết nặng, trung vị nồng độ của các cytokin TNF‐α, IL‐6, và IL‐10 tăng cao hơn giá trị trung bình ở người bình thường. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê khi so sánh trung vị nồng độ một số cytokin của hai nhóm bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết nặng sống và tử vong tại các thời điểm: IL‐6 ở thời điểm T24; IL‐10 ở thời điểm T24 (Bảng 6). Đánh giá sự thay đổi của nồng độ cytokin vào thời điểm 24 giờ sau vào nghiên cứu so với ngay lúc vào nghiên cứu bằng lấy tỷ số trung vị cytokin (thời điểm T24 ‐ thời điểm T0)/(thời điểm T0). Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ thay đổi của nồng độ cytokin IL‐6 và IL‐10 tại thời điểm T24 so với T0 giữa hai nhóm bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết nặng sống và tử vong. Ngoài ra, tỷ lệ IL‐10/TNF‐ α tại thời điểm T24 cũng có khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa 2 nhóm bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết nặng sống và tử vong. KẾT LUẬN Có sự liên quan giữa nồng độ IL‐6, IL‐10 và tỷ lệ IL‐10/TNF‐α thời điểm 24 giờ với mức độ nặng của bệnh đánh giá theo thang điểm APACHE II, và nồng độ IL‐10 thời điểm 24 giờ với tình trạng suy cơ quan. Vì vậy, có thể kết Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – Bệnh Viện Chợ Rẫy ‐ Năm 2013 6 hợp sử dụng các thang điểm SOFA, APACHE II và nồng độ IL‐ 6, IL‐10 và tỷ lệ IL‐10/TNF‐α để theo dõi diễn tiến và tiên lượng bệnh của bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết nặng. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Damas P, Ledoux D, Nys M, Vrindts Y, De Groote D, Franchimont P, et al. (1992), ʺCytokine serum level during severe sepsis in human IL‐6 as a marker of severityʺ. Ann Surg, 215(4), 356‐362. 2. Ferreira FL, Bota D P, Bross A, Melot C, Vincent JL (2001), ʺSerial evaluation of the SOFA score to predict outcome in critically ill patientsʺ. JAMA, 286(14), 1754‐1758. 3. Gardlund B, Sjolin J, Nilsson A, Roll M, Wickerts CJ, Wretlind B (1995), ʺPlasma levels of cytokines in primary septic shock in humans: correlation with disease severityʺ. J Infect Dis, 172(1), 296‐301. 4. Gogos CA, Drosou E, Bassaris HP, Skoutelis A (2000), ʺPro‐ versus anti‐inflammatory cytokine profile in patients with severe sepsis: a marker for prognosis and future therapeutic optionsʺ. J Infect Dis, 181(1), 176‐180. 5. Gursel G, Demirtas S (2006), ʺValue of APACHE II, SOFA and CPIS scores in predicting prognosis in patients with ventilator‐associated pneumoniaʺ. Respiration, 73(4), 503‐508. 6. Hà Tấn Đức (2006), Giá trị tiên lượng của nồng độ procalcitonin máu trong 72 giờ đầu nhập viện trên bệnh nhân viêm phổi nặng, Luận văn thạc sĩ y học, ĐHYD TP.HCM, 50‐80. 7. Harbarth S, Holeckova K, Froidevaux C, Pittet D, Ricou B, Grau GE, et al. (2001), ʺDiagnostic value of procalcitonin, interleukin‐6, and interleukin‐8 in critically ill patients admitted with suspected sepsisʺ. Am J Respir Crit Care Med, 164(3), 396‐402. 8. Ho KM, Lee KY, Williams T, Finn J, Knuiman M, Webb SA (2007), ʺComparison of Acute Physiology and Chronic Health Evaluation (APACHE) II score with organ failure scores to predict hospital mortalityʺ. Anaesthesia, 62(5), 466‐473. 9. Lê Thị Diễm Tuyết, Trần Minh Tuấn (2009), ʺĐánh giá tác dụng của lọc máu liên tục trong điều trị suy đa tạng tại khoa điều trị tích cực bệnh viện Bạch Maiʺ. Y Học Thực Hành, 668(7), tr. 84‐87. 10. Nguyễn Nghiêm Tuấn (2008), Vai trò của procalcitonin trong chẩn đoán và điều trị nhiễm khuẩn huyết, Luận văn thạc sĩ y học, ĐHYD TP.HCM, 67‐82. 11. Peres BD, Melot C, Lopes FF, Nguyen Ba V, Vincent JL (2002), ʺThe Multiple Organ Dysfunction Score (MODS) versus the Sequential Organ Failure Assessment (SOFA) score in outcome predictionʺ. Intensive Care Med, 28(11), 1619‐1624. 12. Pinsky MR, Vincent JL, Deviere J, Alegre M, Kahn RJ, Dupont E (1993), ʺSerum cytokine levels in human septic shock. Relation to multiple‐system organ failure and mortalityʺ. Chest, 103(2), 565‐575. 13. Timsit JF, Fosse JP, Troche G, De Lassence A, Alberti C, Garrouste‐Orgeas M, et al. (2002), ʺCalibration and discrimination by daily Logistic Organ Dysfunction scoring comparatively with daily Sequential Organ Failure Assessment scoring for predicting hospital mortality in critically ill patientsʺ. Crit Care Med, 30(9),2003 – 2013. 14. Trương Ngọc Hải, Vũ Đình Hùng, Đỗ Tất Cường (2009), ʺNghiên cứu lâm sàng, cận lâm sàng và hiệu quả điều trị của liệu pháp lọc máu liên tục ở bệnh nhân suy đa tạngʺ. Y Dược Học Quân Sự, 34/2009, 63‐69 Ngày nhận bài: 18/04/2013 Ngày phản biện đánh giá bài báo: 2/05/2013 Ngày bài báo được đăng: 27/05/2013
File đính kèm:
- nghien_cuu_dac_diem_lam_sang_can_lam_sang_va_moi_lien_quan_g.pdf