Nghiên cứu đặc điểm hình ảnh cắt lớp vi tính ở bệnh nhân tắc ruột

Đặt vấn đề: Tắc ruột là một trong những cấp cứu bụng ngoại khoa thường gặp nhất, xảy ra ở mọi lứa tuổi

và do nhiều nguyên nhân gây ra.Cắt lớp vi tính có giá trị cao trong chẩn đoán tắc ruột, đặc biệt là xác định

nguyên nhân gây tắc. Vì vậy chúng tôi thực hiện nghiên cứu này với mục đích tìm hiểu những nguyên nhân

thường gặp cũng như các dấu hiệu nặng của tắc ruột trên cắt lớp vi tính. Đối tượng và phương pháp nghiên

cứu: Nghiên cứu mô tả 47 trường hợp tắc ruột trên cắt lớp vi tính tại Bệnh viện Trung ương Huế và Bệnh viện

Trường Đại học Y Dược Huế từ 4/2016 đến 5/2017. Các biến số nghiên cứu gồm một số đặc điểm lâm sàng,

nguyên nhân của tắc ruột cũng như một số hình ảnh gợi ý biến chứng của tắc ruột trên cắt lớp vi tính. Kết

quả: Đau bụng là triệu chứng cơ năng phổ biến nhất trong khi chướng bụng là dấu hiệu thực thể gặp ở nhiều

bệnh nhân nhất. Tăc ruột non chiếm 72,3% còn lại là tắc ruột già. Các nguyên nhân thường gặp nhất là dính

(27,7%), u (25,5%), bã thức ăn (12,8%), xoắn ruột (8,5%). Có 4,3% trường hợp không tìm được nguyên nhân

trên cắt lớp vi tính. Dấu hiệu gợi ý biến chứng gặp nhiều nhất là dịch khoang phúc mạc (59,6%). Kết luận: Cắt

lớp vi tính có thể xác định hầu hết nguyên nhân gây tắc ruột cũng như có thể chỉ ra biến chứng của tắc ruột.

pdf 8 trang phuongnguyen 180
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu đặc điểm hình ảnh cắt lớp vi tính ở bệnh nhân tắc ruột", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu đặc điểm hình ảnh cắt lớp vi tính ở bệnh nhân tắc ruột

Nghiên cứu đặc điểm hình ảnh cắt lớp vi tính ở bệnh nhân tắc ruột
29
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế Tập 7, số 4 - tháng 8/2017
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM HÌNH ẢNH CẮT LỚP VI TÍNH 
Ở BỆNH NHÂN TẮC RUỘT
Nguyễn Văn Phương, Lê Văn Ngọc Cường
Trường Đại học Y Dược – Đại học Huế
Tóm tắt
Đặt vấn đề: Tắc ruột là một trong những cấp cứu bụng ngoại khoa thường gặp nhất, xảy ra ở mọi lứa tuổi 
và do nhiều nguyên nhân gây ra.Cắt lớp vi tính có giá trị cao trong chẩn đoán tắc ruột, đặc biệt là xác định 
nguyên nhân gây tắc. Vì vậy chúng tôi thực hiện nghiên cứu này với mục đích tìm hiểu những nguyên nhân 
thường gặp cũng như các dấu hiệu nặng của tắc ruột trên cắt lớp vi tính. Đối tượng và phương pháp nghiên 
cứu: Nghiên cứu mô tả 47 trường hợp tắc ruột trên cắt lớp vi tính tại Bệnh viện Trung ương Huế và Bệnh viện 
Trường Đại học Y Dược Huế từ 4/2016 đến 5/2017. Các biến số nghiên cứu gồm một số đặc điểm lâm sàng, 
nguyên nhân của tắc ruột cũng như một số hình ảnh gợi ý biến chứng của tắc ruột trên cắt lớp vi tính. Kết 
quả: Đau bụng là triệu chứng cơ năng phổ biến nhất trong khi chướng bụng là dấu hiệu thực thể gặp ở nhiều 
bệnh nhân nhất. Tăc ruột non chiếm 72,3% còn lại là tắc ruột già. Các nguyên nhân thường gặp nhất là dính 
(27,7%), u (25,5%), bã thức ăn (12,8%), xoắn ruột (8,5%). Có 4,3% trường hợp không tìm được nguyên nhân 
trên cắt lớp vi tính. Dấu hiệu gợi ý biến chứng gặp nhiều nhất là dịch khoang phúc mạc (59,6%). Kết luận: Cắt 
lớp vi tính có thể xác định hầu hết nguyên nhân gây tắc ruột cũng như có thể chỉ ra biến chứng của tắc ruột.
Từ khóa: Tắc ruột, cắt lớp vi tính
Abstract 
COMPUTED TOMOGRAPHY EVALUATION 
OF BOWEL OBSTRUCTION
Nguyen Van Phuong, Le Van Ngoc Cuong
Hue University of Medicine and Pharmacy – Hue University
Background: Bowel obstruction (intestinal obstruction) is one of the most common surgical emergencies, 
occurring at all ages and for many reasons. Computed tomography (CT) has great value to diagnosis bowel 
obstruction, especially to determine the cause of bowel obstruction. Therefore, we conducted this study to 
investigate the common causes as well as the severe signs of bowel obstruction by CT scan. Materials and 
methods: The study including 47 patients who have image of bowel obstruction on CT at Hue Central Hospital 
and Hue University Hospital from April 2016 to May 2017. These variables were included a number of clinical 
features, the causes and some signs suggesting complications of bowel obstruction. Results: Abdominal 
pain is the most common symptom while abdominal distension is the most common sign. 72.3% of bowel 
obstructions occur in the small intestine; the other 27.7% occur in the colon. Adhesion is the most common 
cause (27.7%), other common causes are: malignant lesion (25.5%), bezoar (12.8%), volvulus (8.5%); 4.3% of 
cases cannot be found cause on CT image. The most common sign suggesting complications are mesenteric 
fluid (59.6%). Conclusion: Computed tomography can determine most of causes of bowel obstruction and 
itcan show complications of bowel obstruction.
Keywords:bowel obstruction , intestinal obstruction, computed tomography
- Địa chỉ liên hệ: Lê Văn Ngọc Cường, email: [email protected] 
- Ngày nhận bài: 8/7/2017, Ngày đồng ý đăng: 4/9/2017, Ngày xuất bản: 18/9/2017
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tắc ruột là cấp cứu bụng ngoại khoa đứng hàng 
thứ hai sau viêm ruột thừa cấp ở người lớn, trong 
đó tắc ruột non chiếm khoảng 80-90%, còn lại là 
tắc ruột già[14].
Tắc ruột là một hội chứng, gặp trong nhiều bệnh 
lý, với cơ chế sinh lý bệnh phức tạp xảy ra sau khi tắc 
ruột, gây nên nhiều biến chứng, thậm chí tử vong. 
Tắc ruột do rất nhiều nguyên nhân gây nên và có sự 
khác biệt khá nhiều giữa ruột non và ruột già, ở ruột 
non phần lớn là do dính còn ở ruột già chủ yếu là do 
u. Tỷ lệ các nguyên nhân gây tắc ruột có sự khác nhau 
rõ rệt giữa các quốc gia có điều kiện kinh tế, xã hội 
khác nhau, cũng như giữa các chủng tộc với nhau. Tỷ 
30
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 7, số 4 - tháng 8/2017
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
lệ biến chứng và tử vong phụ thuộc rất nhiều vào việc 
chẩn đoán sớm và chính xác tắc ruột[14].
Trong khoảng hai thập kỷ trở lại đây, cắt lớp vi tí nh 
đã được xem như là phương tiện chẩn đoán hình ảnh 
hàng đầu trong tắc ruột [10],[11],[12],[16],[20],[30]. 
Bởi sự nhanh chóng cùng độ chính xác cao, cắt lớp vi 
tí nh có khả năng trả lời hầu hết các câu hỏi mà bác 
sĩ lâm sàng cần ở một bệnh nhân đau bụng cấp nghi 
ngờ tắc ruột [18].
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu: Mẫu nghiên cứu gồm 47 
bệnh nhân có hình ảnh tắc ruột trên phim chụp cắt 
lớp vi tí nh (CLVT) tại Bệnh viện Trung ương Huế và 
Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế, từ 4/2016 
đến 5/2017.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt 
ngang.
Đặc điểm chung: Nhóm tuổi, giới. Lâm sàng: Đau 
bụng, nôn ói, bí trung – đại tiện, bụng chướng, dấu 
quai ruột nổi, dấu rắn bò, sờ thấy khối ổ bụng, sốt, 
phản ứng thành bụng.
Đặc điểm hình ảnh CLVT với máy SCT-7800TCA 
của hãng Shimadzu và Hispeed Dual của hãngGE. 
Hình ảnh tắc ruột cơ học trên CLVT với sự giãn các 
quai ruột ở thượng lưu và xẹp các quai ruột ở hạ 
lưu, có hoặc không có vùng chuyển ti ếp. 
Tắc ruột cơ năng hay thấy trên CLVT là hình ảnh 
giãn toàn bộ các quai ruột đến tận trực tràng mà 
không có vùng chuyển ti ếp. Tiêu chuẩn đánh giá 
giãn quai ruột: ruột non: ≥ 25mm, ruột già: ≥ 60 mm; 
đo từ thành ngoài bên này đến thành ngoài bên kia 
của ruột [30]. 
Các biến nghiên cứu: vị trí tắc, vùng chuyển ti ếp, 
thâm nhiễm mỡ mạc treo, dịch khoang phúc mạc, 
hình ảnh dày phù nề thành ruột, hình ảnh giảm 
ngấm thuốc thành ruột, hình ảnh hơi ở các vị trí bất 
thường (thành ruột, mạc treo ruột, tĩ nh mạch cửa, 
khoang phúc mạc), nguyên nhân trên CLVT.
Đối chiếu với phẫu thuật.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Đặc điểm chung và lâm sàng
Trong 47 bệnh nhân có 28 nam (59,6%), tỷ lệ nam/nữ là 1,47. Tắc ruột gặp ở mọi nhóm tuổi nhưng nhiều 
nhất là sau 40 với tỷ lệ 89,4%, tuổi trung bình là 56,53 ± 16,91 tuổi.
Biểu đồ 1. Phân bố tuổi trong nghiên cứu
Đau bụng là triệu chứng cơ năng gặp ở tất cả các bệnh nhân. Tỷ lệ triệu chứng buồn nôn - nôn trong 
nghiên cứu của chúng tôi là 72,3%. Triệu chứng bí trung tiện và bí đại tiện trong nghiên cứu của chúng tôi có 
tỷ lệ lần lượt là 74,5% và 74,5%, trong đó tất cả bệnh nhân bí đại ti ện đều có bí trung ti ện. 
Bụng chướng là dấu thực thể phổ biến nhất, khám được ở 85,1% bệnh nhân. Có 8,5% bệnh nhân có sốt. 
Dấu quai ruột nổi phát hiện ở 19,1% bệnh nhân. Có 14,9% bệnh nhân sờ thấy khối ổ bụng. Tỷ lệ bệnh nhân 
có phản ứng thành bụng là 12,8%. Không có bệnh nhân nào khám thấy có dấu rắn bò.
Bảng 1. Triệu chứng cơ năng và thực thể
Cơ năng Số lượng (n) Tỷ lệ (%) Thực thể Số lượng (n) Tỷ lệ (%)
Đau bụng 47 100 Bụng chướng 40 85,1
Nôn 34 72,3 Dấu rắn bò 0 0
Bí trung ti ện 35 74,5 Dấu quai ruột nổi 9 19,1
31
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế Tập 7, số 4 - tháng 8/2017
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
Bí đại tiện 35 74,5 Sốt 4 8,5
Sờ thấy khối ổ bụng 7 14,9
Phản ứng thành bụng 6 12,8
3.2. Vị trí tắc trên cắt lớp vi tính
Trong nghiên cứu của chúng tôi có 72,3% tắc ở ruột non, 27,7% tắc ở ruột già, tỷ lệ tắc ruột non/tắc ruột 
già là 2,62.
Vị trí vùng chuyển tiếp hay gặp nhất ở hỗng và hồi tràng (59,5%), trong nhóm nghiên cứu không có bệnh 
nhân nào có vùng chuyển tiếp ở manh tràng, đại tràng lên, đại tràng ngang và trực tràng. Tỷ lệ vị trí vùng 
chuyển tiếp theo thứ tự giảm dần là đại tràng sigma – 17,1%, đại tràng góc gan – 6,4%, tá tràng – 4,3%, đại 
tràng xuống – 2,1%, đại tràng góc lách – 2,1%. Có 8,5% bệnh nhân không thấy vùng chuyển tiếp trên CLVT.
Biểu đồ 2. Vị trí vùng chuyển tiếp
3.3. Các dấu hiệu nặng của tắc ruột trên cắt lớp vi tính
Hình ảnh dịch khoang phúc mạc là dấu hiệu thường gặp nhất trong nhóm dấu hiệu nặng (59,6%). Không 
có bệnh nhân nào có hình ảnh khí trong mạc treo ruột, trong tĩnh mạch cửa và trong khoang phúc mạc
Bảng 2. Các dấu hiệu nặng của tắc ruột
Hình ảnh Số lượng (n) Tỷ lệ (%)
Thâm nhiễm mỡ mạc treo 16 34
Có dịch khoang phúc mạc 28 59,6
Dày thành ruột, còn cấu trúc lớp 17 36,2
Giảm ngấm thuốc 7 14,9
Khí trong thành ruột 2 4,3
Khí trong mạc treo 0 0
Khí trong tĩnh mạch cửa 0 0
Khí trong khoang phúc mạc 0 0
Hình 1. Hình A. Khí trong thành ruột (mũi tên đỏ). Hình B. Dày thành ruột kèm giảm ngấm thuốc 
(mũi tên đỏ), khối bã thức ăn lấp kín lòng ruột tại vị trí chuyển tiếp (mũi tên trắng)
32
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 7, số 4 - tháng 8/2017
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
3.4. Nguyên nhân tắc ruột trên cắt lớp vi tính
Các nguyên nhân gây tắc ruột phổ biến nhất là: dính – 27,7% , u – 25,5%, bã thức ăn – 12,8%, xoắn ruột – 
8,5%, lồng ruột – 6,4%.Có 4,3% bệnh nhân không tìm được nguyên nhân trên CLVT.
Đối với ruột non, nhóm nguyên nhân hay gặp là: dính – 38,3%, bã thức ăn – 14,7%, xoắn – 8,9%, u – 8,9%. 
Nguyên nhân gây tắc ruột già phổ biến nhất là u ống tiêu hóa(69,2%). 
Bảng 3. Nguyên nhân tắc ruột trên cắt lớp vi tính
Nguyên nhân Ở ruột non (n) Ở ruột già (n) Tổng Tỷ lệ (%)
Dính – dây chằng 13 0 13 27,7
U 3 9 12 25,5
Xoắn ruột 3 1 4 8,5
Bã thức ăn 5 1 6 12,8
Lao 1 1 2 4,3
Lồng ruột 2 1 3 6,4
Viêm ruột 1 0 1 2,1
Ruột đôi 1 0 1 2,1
Thoát vị 1 0 1 2,1
Crohn 1 0 1 2,1
Dây chằng 1 0 1 2,1
Không rõ 2 0 2 4,3
Tổng 34 13 47 100
Hình 2. Hình ảnh tắc ruột do Crohn: Dày thành ruột nhiều vị trí (mũi tên đỏ), ổ loét thành ruột 
(mũi tên trắng), dấu hiệu lược (cobm sign – đầu mũi tên trắng)
3.5. Đối chiếu với phẫu thuật 
Trong số 19 bệnh được phẫu thuật, tất cả đều ghi nhận có tắc ruột. CLVT có mối tương quan quan chặt 
chẽ với phẫu thuật trong chẩn đoán nguyên nhân.
Bảng 4. Tương quan giữa cắt lớp vi tính và phẫu thuật trong chẩn đoán nguyên nhân
 GPB/PT
CLVT
Dính U Xoắn
Bã 
thức 
ăn
Lao
Ruột 
đôi
Nhồi 
máu
Không 
rõ
Tổng
Dính 3 0 0 0 0 0 1 0 4
U 0 7 0 0 0 0 0 0 7
Xoắn 0 0 3 0 0 0 0 0 3
Bã thức ăn 0 0 0 1 0 0 0 0 1
Lao 0 0 0 0 1 0 0 0 1
33
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế Tập 7, số 4 - tháng 8/2017
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
Ruột đôi 0 0 0 0 0 1 0 0 1
Nhồi máu 0 0 0 0 0 0 0 0 0
Không rõ 1 0 1 0 0 0 0 0 2
Tổng 4 7 4 1 1 1 1 0 19
Kappa = 0.797 p < 0,05
Hình 3. Tắc ruột do xoắn đại tràng sigma: đại tràng sigma giãn lớn, chướng khí (mũi tên vàng), dấu hiệu 
xoáy nước (mũi tên đỏ), dấu hiệu mỏ chim (mũi tên trắng), được khẳng định bằng phẫu thuật.
Hình 4. Tắc ruột do ruột đôi: Khối tỷ choán chỗ trong lòng tá tràng, thành khối (mũi tên trắng) ngấm thuốc 
tương tự thành ống tiêu hóa (tá tràng - mũi tên đỏ), được khẳng định bằng phẫu thuật.
4. BÀN LUẬN
4.1. Đặc điểm chung và lâm sàng
Tắc ruột gặp nhiều nhất là sau 40 tuổi với tỷ lệ 
89,4%. Nghiên cứu của chúng tôi có sự tương đồng 
với tác giả trên thế giới [21],[26],[33]. Điều này có 
thể giải thích là vì các nguyên nhân gây ra tắc ruột 
rất đa dạng nhưng các nguyên nhân thường gặp gây 
tắc ruột hay gặp ở nhóm bệnh nhân lớn tuổi hơn: 
dính, u 
Chúng tôi nhận thấy, ngoài hai triệu chứng là 
đau và chướng bụng nằm trong nhóm tứ chứng lâm 
sàng kinh điển của tắc ruột (đau, nôn, bí, chướng) 
là có tỷ lệ cao và tương tự với nhiều nghiên cứu 
của các tác giả khácthì còn lại các triệu chứng khác 
thì trong nhóm chúng tôi đều có tỷ lệ tương đối 
thấp[3],[4],[6],[21],[26],[33], có thể do sự khác biệt 
trong tỷ lệ các nguyên nhân gây tắc ruột của nhóm 
chúng tôi nghiên cứu so với các tác giả khác.
4.2. Vai trò của X-quang và siêu âm bụng, chỉ 
định của cắt lớp vi tính trong tắc ruột
X – quang bụng đứng không chuẩn bị theo các 
nhà ngoại khoa là kỹ thuật hình ảnh được khuyến 
cáo chỉ định đầu tiên và nên có ở tất cả các bệnh 
nhân nghi tắc ruột [9].Tuy nhiên theo nhiều nghiên 
cứu thì đây là kỹ thuật kém nhạy và ít đặc hiệu để 
chẩn đoán tắc ruột[11],[17],[19],[25],[30],[32].
Từ khi siêu âm trở nên phổ biến, nó đã giúp đỡ 
rất nhiều trong việc chẩn đoán tắc ruột, đặc biệt là 
trong việc loại trừ một số bệnh lý có biểu hiện giống 
tắc ruột cũng như chẩn đoán được một số nguyên 
34
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 7, số 4 - tháng 8/2017
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
nhân gây tắc ruột. Tuy nhiên siêu âm lại bị hạn chế 
bởi hơi trong đường ruột, do bệnh nhân hít vào khi 
đau hoặc sinh ra do tình trạng tắc ruột [2],[7]. Ngoài 
ra siêu âm còn là một kỹ thuật mang tính chủ quan 
cao và khó đánh giá lại độ chính xác của kết quả 
trước đó khi cần, cũng như phụ thuộc vào sự hợp 
tác của bệnh nhân.
Chỉ định CLVT trong tắc ruột hiện tại vẫn còn 
nhiều quan điểm. Về phía các nhà ngoại khoa, CLVT 
được khuyến cáo khi biểu hiện lâm sàng và X quang 
không rõ ràng, hoặc khi nghi ngờ tắc ruột thể thắt 
nghẹt [9]. 
Tuy nhiên về phía các nhà chẩn đoán hình ảnh thì 
họ cho rằng CLVT nên được chỉ định rộng rãi ở các 
bệnh nhân tắc ruột vì nó có độ nhạy và độ đặc hiệu 
cao, và giá trị của X-quang là thấp và gây nhầm lẫn 
trong một tỷ lệ lớn các trường hợp [8]; CLVT được 
xem là kỹ thuật tốt nhất để xác định được những 
bệnh nhân nào nên được điều trị bảo tồn và bệnh 
nhân nào cần phẫu thuật nhờ khả năng chẩn đoán 
sớm biến chứng thiếu máu ruột [29], ngoài ra CLVT 
còn có thể giúp đỡ trong việc lập kế hoạch phẫu 
thuật nhờ vào các kỹ thuật tái tạo hình ảnh.
4.3. Vị trí tắc trên cắt lớp vi tính
Tỷ lệ tắc ruột non/tắc ruột già trong nghiên cứu 
của chúng tôi là 2,62, tương đối thấp.Nghiên cứu 
của Ranjana Gupta và cộng sự (2016) tỷ lệ tắc ruột 
non là 76,67% và tỷ lệ tắc ruột già là 23,33%, tỷ lệ 
tắc ruột non/tắc ruột già là 3,55 [15]. Theo y văn thế 
giới thì tỷ lệ tắc ruột non thường dao động trong 
khoảng 80-90 % và gấp 4 - 5 lần tắc ruột già [14].Có 
thể do tình hình dịch tễ của các nguyên nhân gây tắc 
ruột khác biệt mà mỗi nguyên nhân lại thường định 
khu ở một đoạn ruột khác nhau.
Có 4 bệnh nhân (8,5%) là không tìm được vùng 
chuyển tiếp, các bệnh nhân này đều nằm trong 
nhóm tắc ruột non, điều này thể hiện giới hạn của 
các kỹ thuật không xâm nhập, đặc biệt là các kỹ 
thuật khảo sát cũ.
Ở ruột non vùng chuyển tiếp hầu hết là ở hỗng 
- hồi tràng, điều này là phù hợp vì tắc tá tràng là 
hiếm hơn rất nhiều so với tắc các đoạn còn lại của 
ruột non.
Ở ruột già vùng chuyển tiếp nằm ở đại tràng 
sigma là nhiều nhất, điều này lý giải là vì tắc ruột già 
chủ yếu do ung thư ống tiêu hóa, mà ung thư đại 
tràng sigma chiếm tỷ lệ cao hơn hẳn các đoạn còn 
lại của đại tràng, đây cũng là đoạn hẹp nhất của đại 
tràng; ung thư trực tràng dù chiếm tỷ lệ khoảng 50% 
ung thư ruột già nhưng đây là nơi có khẩu kính lớn 
nên ít gây tắc ruột[1],[5]. Mặt khác đại tràng sigma 
là phần di động có chiều dài tương đối đáng kể nên 
có nguy cơ xảy ra xoắn gây tắc ruột.
4.4. Các dấu hiệu nặng của tắc ruột trên cắt lớp 
vi tính
Hình ảnh thâm nhiễm mỡ là một dấu hiệu ít đặc 
hiệu, thường gặp trong nhóm bệnh lý viêm hoặc u 
các cơ quan trong ổ bụng; trong tình trạng tắc ruột 
nếu không do viêm hoặc u cũng có thể thấy hình ảnh 
thâm nhiễm mỡ mạc treo do tăng áp lực tĩnh mạch 
mạc treo, hoặc trong tình trạng nhồi máu mạc treo 
và hình ảnh này góp phần đánh giá mức độ nghiêm 
trọng của thiếu máu ruột [34]. Cũng như hình ảnh 
thâm nhiễm mỡ, dịch ổ bụng là một dấu hiệu phổ 
biến trong nhiều nguyên nhân. Theo nhiều báo cáo 
thì dấu hiệu này khá nhạy nhưng lại ít đặc hiệu cho 
tình trạng thiếu máu ruột [13],[27],[28]. Giảm ngấm 
thuốc thành ống tiêu hóa được xem là dấu hiệu đặc 
hiệu của thiếu máu ruột[15]; khi tình trạng tưới máu 
của thành ruột giảm thì hiển nhiên lượng thuốc cản 
quang đến được thành đoạn ruột đó cũng giảm đi, 
và biểu hiện trên CLVT là giảm cản quang hơn các 
đoạn ruột khác. Theo nhiều báo cáo, dấu hiệu này là 
ít nhạy nhưng đạt độ đặc hiệu lên đến xấp xỉ 100% 
[13],[28],[34]. Trong bối cảnh tắc ruột, hình ảnh dày 
thành ruộtmà vẫn bảo tồn cấu trúc được đánh giá là 
dấu hiệu nặng do thiếu máu ruột, thường đi kèm với 
hình ảnh giảm ngấm thuốc thành ruột[13],[28],[34].
Cần nói thêm là dấu hiệu này cũng có thể gặp trong 
tình trạng viêm cấp làm phù nề thành ruột, thường 
đi kèm với tăng ngấm thuốc thành ruột kèm triệu 
chứng lâm sàng của viêm ruột, vì vậy cần cân nhắc 
kỹ khi đánh giá dấu hiệu này; trong nghiên cứu của 
chúng tôi có một trường hợp như vậy và được chúng 
tôi đánh giá là tắc ruột do viêm ruột.
Hơi thành ruột là dấu hiệu khi mà ở giai đoạn 
muộn của tắc ruột, thành ruột đã bị hoại tử thực 
sự, khí trong ống tiêu hóa đi vào ổ hoại tử ở thành 
ruột và đọng lại tại đó, dấu này xảy ra chứng tỏ tình 
trạng bệnh nhân đã khá nặng nề. Trong nghiên cứu 
của chúng tôi có 2 bệnh nhân (4,3%) có hình ảnh 
này, 2 bệnh nhân này đều trải qua phẫu thuật và 
đều được đánh giá là nặng nề với các dấu hiệu tổn 
thương thành ruột, đối chiếu với thời gian vào viện 
thì các bệnh nhân này đều được chụp CLVT muộn 
sau khi khởi phát triệu chứng. Theo nghiên cứu của 
Yann Geffroy (2014) dấu hiệu này có độ đặc hiệu 
96% trong đánh gái nhồi máu ruột [13]. 
Nếu tình trạng tắc ruột vẫn không được xử lý thì 
thành ruột có thể bị thủng và hơi trong quai ruột 
có thể đi vào mạch mạch máu mạch treo, từ đó đi 
lên tĩnh mạch cửa, hoặc tràn ra khoang khúc mạc, 
gây ra các biến chứng khác như tắc mạch mạc treo 
do hơi, tràn khí khoang phúc mạc. Trong nghiên cứu 
của chúng tôi không có trường hợp nào xảy ra tình 
trạng này.
35
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế Tập 7, số 4 - tháng 8/2017
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
4.5. Nguyên nhân tắc ruột trên cắt lớp vi tính
Nguyên nhân chính gây tắc ruột là dính và u, 
điều này tương tự như nghiên cứu của tác giả Alec 
J. Megibow (1991) [22], đây là nghiên cứu đầu tiên 
trên thế giới về vai trò của CLVT trong chẩn đoán 
tắc ruột.Có 4,3% bệnh nhân không tìm được nguyên 
nhân trên CLVT dù đã đánh giá cẩn thận trên CLVT 
và kết hợp với lâm sàng, điều này thể hiện mặt hạn 
chế của các kỹ thuật hình ảnh nói chung, đặc biệt là 
những máy CLVT thế hệ cũ.
Trong nhóm chúng tôi có một số nguyên nhân 
mà các nghiên cứu của các tác giả phương Tây 
thường xếp vào nhóm hiếm khi gây tắc ruột là bã 
thức ăn và lao, đặc biệt nguyên nhân bã thức ăn 
chiếm đến 12,8%. Điều này giải thích là do thói quen 
ăn uống ở Việt Nam có phần khác với các nước khác, 
có nhiều món ăn chứa nhiều chất xơ và nhựa như 
quả vả, măngcũng như thói quen uống nước ít làm 
bã thức ăn kết dính cứng hơn, từ đó nguy cơ gây 
tắc ruột cao hơn. Việt Nam cũng là một quốc gia mà 
tình hình dịch tễ bệnh lao còn phổ biến, trong nhóm 
chúng tôi nghiên cứu có một trường hợp được đánh 
giá là tắc ruột do lao với tỷ lệ 4,3%.
Nguyên nhân hàng đầugây tắc ruột non là 
dính(38,3%) và tắc ruột già là u(69,2%), điều này là 
phù hợp với y văn và nghiên cứu của nhiều tác giả 
khác [12],[14],[15],[31].
Dù còn một chút hạn chế nhưng có thể thấy các 
nguyên nhân gây tắc ruột phát hiện được trên CLVT 
là rất đa dạng, điều này thể hiện vai trò vượt trội 
của CLVT so với X-quang bụng đứng, hầu như không 
chẩn đoán được nguyên nhân gây tắc ruột ngoại trừ 
một số rất ít các nguyên nhân có hình ảnh khá điển 
hình trên X-quang như xoắn đại tràng sigma với hình 
ảnh hạt cà phê [24]. Siêu âm bụng tuy cũng có thể 
khảo sát được nguyên nhân gây tắc ruột nhưng đòi 
hỏi người làm siêu âm phải có kỹ năng nhất định 
vàđể tìm được nguyên nhân tắc ruột trên siêu âm 
đòi hỏi người bác sĩ chẩn đoán hình ảnh cần khám 
xét tỉ mỉ mà trong bối cảnh cấp cứu như tắc ruột 
thì thường thời gian không cho phép, và trong tình 
trạng tắc ruột thì hơi trong ống tiêu hóa làm hạn 
chế rất nhiều cuộc khám siêu âm; mặt khác siêu âm 
bụng cũng không thể có trường khảo sát rộng rãi 
như CLVT nên có thể bỏ sót tổn thương.
4.6. Đối chiếu với phẫu thuật 
Có thể thấy CLVT có giá trị rất cao trong chẩn 
đoán tắc ruột và nguyên nhân gây tắc ruột. Theo 
nhiều báo cáo thì CLVT đạt độ nhạy 90-96%, độ đặc 
hiệu khoảng 96% và độ chính xác khoàng 95% trong 
chẩn đoán tắc ruột[29]. Một số nghiên cứu còn cho 
thấy giá trị của CLVT đạt độ nhạy hoặc độ đặc hiệu 
đến 100% [11],[23],[30].
5. KẾT LUẬN
Cắt lớp vi tính là kỹ thuật có nhiều ưu điểm trong 
chẩn đoán tắc ruột, đặc biệt là chẩn đoán nguyên 
nhân gây tắc ruột, điều mà khám lâm sàng và nhiều 
kỹ thuật hình ảnh khác có thể không phát hiện được, 
giúp đưa ra hướng điều trị phù hợp. Cắt lớp vi tính có 
giá trị trong việc chẩn đoán biến chứng tắc ruột, giúp 
bác sĩ lâm sàng xử trí và tiên lượng chính xác hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ môn giải phẫu học Trường đại học y dược 
thành phố Hồ Chí Minh (2014), Bài giảng giải phẫu học, 
Tập 2, Nhà xuất bản Y học, tr. 154-182.
2. Bộ môn ngoại Trường đại học y Hà Nội (2006), 
“Tắc ruột”, Bài giảng bệnh học ngoại khoa, Nhà xuất bản 
y học, tr. 45-63.
3. Bùi Thanh Hải (2008), Nghiên cứu đặc điểm lâm 
sàng, X- quang, siêu âm và chỉ định điều trị tắc ruột sau 
mổ, Luận án tiến sỹ y học, Học viên quân y.
4. Phạm Như Hiệp (1996), Nghiên cứu đặc điểm lâm 
sàng, cận lâm sàng và chỉ định điều trị tắc ruột sau mổ, 
Luận án phó tiến sĩ y học, Học viện quân y.
5. Nguyễn Văn Hiếu (2001), “Ung thư đại trực tràng”, 
Bài giảng ung thư học, Nhà xuất bản y học, tr. 188-195.
6. Đặng Ngọc Hùng (2016), Nghiên cứu chỉ định và 
đánh giá kết quả phẫu thuật nội soi điều trị tắc ruột sau 
mổ, Luận án tiến sĩ y học, Trường đại học Y Dược Huế.
7. Nguyễn Phước Bảo Quân (2013), “Ống tiêu hóa”, 
Siêu âm bụng tổng quát, Nhà xuất bản Thuận Hóa, tr. 391-
494.
8. American College of Radiology (2013), Suspected 
Small-Bowel Obstruction, ACR Appropriateness Criteria.
9. Di Saverio S., Coccolini F., Galati M., et al. (2013), 
“Bologna guidelines for diagnosis and management of 
adhesive small bowel obstruction (ASBO): 2013 update of 
the evidence-based guidelines from the world society of 
emergency surgery ASBO working group”, World J Emerg 
Surg. 8(1), pp. 42.
10. Frager D. H., Baer J. W., Rothpearl A., et al. (1995), 
“Distinction between postoperative ileus and mechanical 
small-bowel obstruction: value of CT compared with 
clinical and other radiographic findings”, AJR Am J 
36
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 7, số 4 - tháng 8/2017
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
Roentgenol. 164(4), pp. 891-894.
11. Frager D., Medwid S. W., Baer J. W., et al. (1994), 
“CT of small-bowel obstruction: value in establishing the 
diagnosis and determining the degree and cause”, AJR Am 
J Roentgenol. 162(1), pp. 37-41.
12. Fukuya T., Hawes D. R., Lu C. C., et al. (1992), 
“CT diagnosis of small-bowel obstruction: efficacy in 60 
patients”, AJR Am J Roentgenol. 158(4), pp. 765-769.
13. Geffroy Yann, Boulay-Coletta Isabelle, Jullès Marie-
Christine, et al. (2014), “Increased unenhanced bowel-
wall attenuation at multidetector CT is highly specific 
of ischemia complicating small-bowel obstruction”, 
Radiology. 270(1), pp. 159-167.
14. Sclabas Guido M., Sarosi George A., Khan Saboor, 
et al. (2013), “Small bowel obstruction”, Michael J Zinner, 
Stanley W Ashley, eds. Maingot’s Abdominal operations 
12th ed, McGraw-Hill Medical, pp. 585-610.
15. Gupta R., Mittal P., Mittal A., et al. (2016), 
“Spectrum of MDCT Findings in Bowel Obstruction in 
a Tertiary Care Rural Hospital in Northern India”, J Clin 
Diagn Res. 10(11), pp. Tc01-tc04.
16. Jabra A. A., Eng J., Zaleski C. G., et al. (2001), “CT 
of small-bowel obstruction in children: sensitivity and 
specificity”, AJR Am J Roentgenol. 177(2), pp. 431-436.
17. Jaffe T., Thompson W. M. (2015), “Large-Bowel 
Obstruction in the Adult: Classic Radiographic and CT 
Findings, Etiology, and Mimics”, Radiology. 275(3), pp. 
651-663.
18. Khurana B., Ledbetter S., McTavish J., et al. (2002), 
“Bowel obstruction revealed by multidetector CT”, AJR 
Am J Roentgenol. 178(5), pp. 1139-1144.
19. Lappas J. C., Reyes B. L., Maglinte D. D. (2001), 
“Abdominal radiography findings in small-bowel 
obstruction: Relevance to triage for additional diagnostic 
imaging”, AJR Am J Roentgenol. 176(1), pp. 167-174.
20. Maglinte D. D., Gage S. N., Harmon B. H., et al. 
(1993), “Obstruction of the small intestine: accuracy and 
role of CT in diagnosis”, Radiology. 188(1), pp. 61-64.
21. Markogiannakis Haridimos, Messaris 
Evangelos, Dardamanis Dimitrios, et al. (2007), “Acute 
mechanical bowel obstruction: clinical presentation, 
etiology, management and outcome”, World Journal of 
Gastroenterology: WJG. 13(3), pp. 432-437.
22. Megibow Alec J., Balthazar E. J., Cho K. C., et 
al. (1991), “Bowel obstruction: evaluation with CT”, 
Radiology. 180(2), pp. 313-318.
23. Mohi J.K., Kajal Sunita, Singh Tejinder, et al. (2017), 
“Role of imaging in evaluation of intestinal obstruction”, 
International Journal of Medical Research and Review. 
5(06), pp. 593-603.
24. Moseley B. D., Bhagra A. (2009), “The coffee bean 
sign”, Int J Emerg Med. 2(4), pp. 267-268.
25. Nicolaou S., Kai B., Ho S., et al. (2005), “Imaging 
of acute small-bowel obstruction”, AJR Am J Roentgenol. 
185(4), pp. 1036-1344.
26. Obaid Kadhim Jawad (2011), “Intestinal 
Obstruction: Etiology, Correlation between Pre-Operative 
and Operative Diagnosis”, International Journal of Public 
Health Research Special Issue 2011, pp. 41-49.
27. Scrima A., Lubner M. G., King S., et al. (2017), 
“Value of MDCT and Clinical and Laboratory Data for 
Predicting the Need for Surgical Intervention in Suspected 
Small-Bowel Obstruction”, AJR Am J Roentgenol. 208(4), 
pp. 785-793.
28. Sheedy S. P., Earnest F. 4th, Fletcher J. G., et al. 
(2006), “CT of small-bowel ischemia associated with 
obstruction in emergency department patients: diagnostic 
performance evaluation”, Radiology. 241(3), pp. 729-736.
29. Silva A. C., Pimenta M., Guimaraes L. S. 
(2009), “Small bowel obstruction: what to look for”, 
Radiographics. 29(2), pp. 423-439.
30. Suri S., Gupta S., Sudhakar P. J., et al. (1999), 
“Comparative evaluation of plain films, ultrasound and 
CT in the diagnosis of intestinal obstruction”, Acta Radiol. 
40(4), pp. 422-428.
31. Taourel P. G., Fabre J. M., Pradel J. A., et al. (1995), 
“Value of CT in the diagnosis and management of patients 
with suspected acute small-bowel obstruction”, AJR Am J 
Roentgenol. 165(5), pp. 1187-1192.
32. Thompson W. M., Kilani R. K., Smith B. B., et al. 
(2007), “Accuracy of abdominal radiography in acute 
small-bowel obstruction: does reviewer experience 
matter?”, AJR Am J Roentgenol. 188(3), pp. W233-238.
33. Tiwari Saurabh J., Mulmule Rajiva, Bijwe Varsha N. 
(2017), “A clinical study of acute intestinal obstruction in 
adults-based on etiology, severity indicators and surgical 
outcome”, International Journal of Research in Medical 
Sciences. 5(8), pp. 3688-3696.
34. Zalcman Marc, Sy Marième, Donckier Vincent, et 
al. (2000), “Helical CT signs in the diagnosis of intestinal 
ischemia in small-bowel obstruction”, American journal of 
roentgenology. 175(6), pp. 1601-1607.

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_dac_diem_hinh_anh_cat_lop_vi_tinh_o_benh_nhan_tac.pdf