Nghiên cứu các chỉ báo phát triển du lịch bền vững tại các điểm tham quan du lịch thuộc quần thể di tích Huế (Việt Nam)

TÓM TẮT

Nghiên cứu này được thực hiện dựa trên cơ sở các dữ liệu thu thập được thông qua các

cuộc phỏng vấn chuyên gia, điều tra khảo sát ý kiến của nhân viên và 534 khách tham quan

quốc tế và nội địa. Sử dụng phương pháp luận “Giới hạn của những thay đổi chấp nhận được”,

đề tài đã đề xuất xây dựng một hệ thống gồm 18 chỉ báo thuộc 3 nhóm tiêu chí để đo lường và

giám sát việc thực hiện các mục tiêu bền vững về môi trường và xã hội cho di tích Huế. Kết quả

phân tích dựa trên các chỉ báo cho thấy rằng tỷ lệ khách hài lòng về chuyến tham quan, hài

lòng về giá trị điểm tham quan khá cao; ý thức bảo vệ môi trường và tài nguyên của khách quốc

tế được đánh giá tốt, khu vực tham quan đảm bảo an ninh, an toàn. Tuy nhiên, một số chỉ báo

cho biết rằng ý thức về bảo vệ tài nguyên và môi trường của khách nội địa và người dân địa

phương chưa tốt; tỷ lệ khách quay trở lại chưa cao; mức độ hài lòng chung giảm dần với số lần

đến; một số vấn đề vẫn còn tồn tại như: đeo bám khách du lịch; thùng rác và các nhà vệ sinh

chưa đạt tiêu chuẩn; các biển báo chỉ dẫn chưa đầy đủ và hiệu quả

pdf 14 trang phuongnguyen 1820
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu các chỉ báo phát triển du lịch bền vững tại các điểm tham quan du lịch thuộc quần thể di tích Huế (Việt Nam)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu các chỉ báo phát triển du lịch bền vững tại các điểm tham quan du lịch thuộc quần thể di tích Huế (Việt Nam)

Nghiên cứu các chỉ báo phát triển du lịch bền vững tại các điểm tham quan du lịch thuộc quần thể di tích Huế (Việt Nam)
127 
TẠP CHÍ KHOA HỌC, Đại học Huế, Số 62, 2010 
NGHIÊN CỨU CÁC CHỈ BÁO PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG 
TẠI CÁC ĐIỂM THAM QUAN DU LỊCH THUỘC QUẦN THỂ 
DI TÍCH HUẾ (VIỆT NAM) 
Hoàng Thị Diệu Thúy 
 Trường Đại học Kinh tế, Đại học Huế 
TÓM TẮT 
Nghiên cứu này được thực hiện dựa trên cơ sở các dữ liệu thu thập được thông qua các 
cuộc phỏng vấn chuyên gia, điều tra khảo sát ý kiến của nhân viên và 534 khách tham quan 
quốc tế và nội địa. Sử dụng phương pháp luận “Giới hạn của những thay đổi chấp nhận được”, 
đề tài đã đề xuất xây dựng một hệ thống gồm 18 chỉ báo thuộc 3 nhóm tiêu chí để đo lường và 
giám sát việc thực hiện các mục tiêu bền vững về môi trường và xã hội cho di tích Huế. Kết quả 
phân tích dựa trên các chỉ báo cho thấy rằng tỷ lệ khách hài lòng về chuyến tham quan, hài 
lòng về giá trị điểm tham quan khá cao; ý thức bảo vệ môi trường và tài nguyên của khách quốc 
tế được đánh giá tốt, khu vực tham quan đảm bảo an ninh, an toàn. Tuy nhiên, một số chỉ báo 
cho biết rằng ý thức về bảo vệ tài nguyên và môi trường của khách nội địa và người dân địa 
phương chưa tốt; tỷ lệ khách quay trở lại chưa cao; mức độ hài lòng chung giảm dần với số lần 
đến; một số vấn đề vẫn còn tồn tại như: đeo bám khách du lịch; thùng rác và các nhà vệ sinh 
chưa đạt tiêu chuẩn; các biển báo chỉ dẫn chưa đầy đủ và hiệu quả. 
1. Đặt vấn đề 
Theo nhận định của UNESCO và Tổ chức du lịch Thế giới (WTO), các di sản 
thế giới đã và đang trở thành những điểm thu hút khách du lịch đến từ nhiều quốc gia. 
Tuy nhiên, thực trạng hiện nay là tại phần lớn các điểm tham quan di sản này, việc phát 
triển du lịch không theo hoạch định chiến lược và không có sự kiểm soát sát sao đang 
diễn ra. Không nằm ngoài thực trạng chung đó, các điểm tham quan di sản văn hóa thế 
giới của Việt Nam phần lớn cũng chưa có quy hoạch chi tiết về phát triển du lịch. Ở 
nhiều nơi, việc đầu tư phát triển du lịch còn dàn trải, manh mún; năng lực quản lý di sản 
còn hạn chế dẫn tới việc phát triển du lịch kém bền vững (Hải Dương, 2007). Cụ thể 
hơn, đối với Quần thể di tích Huế - một di sản văn hóa thế giới quan trọng của Việt Nam, 
mặc dù đã được UNESCO tuyên bố vượt qua giai đoạn cứu nguy khẩn cấp và chuyển 
sang giai đoạn mới – giai đoạn phát triển bền vững từ năm 1998; tuy nhiên trong giai 
đoạn tiếp theo này, hơn 10 năm đã trôi qua, việc quản lý khai thác các giá trị di sản, đặc 
biệt là phục vụ du lịch chưa được triển khai và giám sát trên quan điểm phát triển bền 
vững. Bên cạnh đó, chưa có công trình nghiên cứu nào đánh giá về tính bền vững của 
hoạt động du lịch tại các di tích Huế để hỗ trợ cho việc ra các quyết định quản lý. 
128 
Xuất phát từ các vấn đề tồn tại nói trên, nhóm tác giả nhận định rằng việc nghiên 
cứu làm thế nào để nâng cao hiệu quả công tác quản lý du lịch tại các di sản để đảm bảo 
phát triển bền vững là điều cần thiết. Bên cạnh đó, mặc dù phát triển du lịch bền vững 
hiện đang là một trong những định hướng ưu tiên của ngành du lịch Việt Nam. Nhưng 
các công trình nghiên cứu chuyên sâu về lĩnh vực này tại Việt Nam hiện đang còn khá 
hạn chế, đặc biệt liên quan đến các phương pháp và công cụ đo lường đánh giá để hỗ trợ 
cho công tác quản lý phát triển du lịch bền vững. Xuất phát từ các nhu cầu đó, nghiên 
cứu này được lựa chọn nhằm góp phần hoàn thiện cơ sở khoa học về du lịch bền vững 
của Việt Nam và đo lường đánh giá, hỗ trợ cho công tác quản lý phát triển du lịch bền 
vững tại các điểm tham quan di tích Huế. 
2. Tổng quan tài liệu về du lịch bền vững và phương pháp “Giới hạn của những 
thay đổi chấp nhận được” 
Theo Tổ chức Du lịch Thế giới, du lịch bền vững là “hoạt động du lịch có suy 
tính đầy đủ đến những ảnh hưởng kinh tế, xã hội và môi trường hiện nay và mai sau, 
đối với nhu cầu của khách du lịch, của ngành du lịch, của môi trường và của sự phát 
triển các cộng đồng” (Tổng cục Du lịch, 2005). Tuy nhiên, trong quá trình lập kế hoạch 
và quản lý du lịch, việc giám sát để đảm bảo tính bền vững của cả ba yếu tố kinh tế - xã 
hội - môi trường là một điều vô cùng không đơn giản. Vì vậy, đòi hỏi cần phải có các 
công cụ đo lường để đánh giá một cách khách quan xem những nguyên tắc của phát 
triển bền vững có được thực sự tôn trọng hay không hay mức độ bền vững đã được tăng 
lên như thế nào. 
Một trong các công cụ đo lường chủ yếu được UNWTO xác định trong nghiên 
cứu của mình trong hơn 10 năm qua đó chính là các giới hạn của du lịch (Tổng cục Du 
lịch, 2005). Để xác định các giới hạn, có nhiều phương pháp tiếp cận khác nhau. Trong 
nghiên cứu này, cách tiếp cận “Giới hạn của những thay đổi chấp nhận được” (Limits of 
Acceptable Changes – LAC) - một trong những cách tiếp cận được Tổ chức Du lịch thế 
giới đánh giá là phù hợp được sử dụng; trong đó, tập trung chủ yếu vào hai giai đoạn 
đầu tiên trong quy trình triển khai cụ thể gồm các nội dung sau (Tổng cục du lịch, 2005) 
- Xác định các tác động sẽ hạn chế phát triển hoặc sử dụng 
- Xác định các chỉ báo liên quan đến những tác động này 
- Xác định phạm vi các giá trị (hay tiêu chuẩn) liên quan đến những chỉ báo này 
(được xem là chấp nhận hay không chấp nhận được) 
- Duy trì một quy trình giám sát để đảm bảo việc thực hiện nằm trong phạm vi 
chấp nhận được 
- Tiến hành các biện pháp quản lý để điều chỉnh các mức độ sử dụng nếu các 
giới hạn bị vượt qua. 
129 
3. Phương pháp nghiên cứu 
Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu đề ra, nhóm tác giả lựa chọn phương pháp 
nghiên cứu hỗn hợp sử dụng cả các kỹ thuật thu thập dữ liệu và phân tích dữ liệu định 
tính và định lượng. Bên cạnh đó, để tăng giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu, đề tài 
sử dụng cách tiếp cận “Giới hạn của những thay đổi chấp nhận được” trong đánh giá 
phát triển bền vững của điểm du lịch để đưa ra các cơ sở khoa học định hướng cho việc 
thu thập dữ liệu cũng như phân tích dữ liệu và thảo luận các kết quả nghiên cứu. 
Cụ thể, các kỹ thuật thu thập dữ liệu định tính được sử dụng trong đề tài bao 
gồm: nghiên cứu tài liệu và phỏng vấn các nhà quản lý, chuyên gia. Bên cạnh đó, để 
đánh giá thực trạng hoạt động khai thác các giá trị di sản phục vụ du lịch từ góc độ phát 
triển bền vững, trong nghiên cứu này còn sử dụng phương pháp điều tra chọn mẫu. Mẫu 
điều tra khách tham quan và nhân viên bảo vệ được lựa chọn theo phương pháp chọn 
mẫu ngẫu nhiên phân tầng tỷ lệ. Bốn điểm tham quan chính thuộc phạm vi nghiên cứu 
bao gồm: Đại Nội, lăng Tự Đức, lăng Khải Định và lăng Minh Mạng. 
Trong phân tích thống kê, mẫu phải đủ lớn để đảm bảo độ tin cậy nhất định. Quy 
mô mẫu của cả hai mẫu ở trên đều được tính theo công thức sau (Cochran, 1977): 
 Trong đó: 
- n: kích thước mẫu 
- Z: giá trị ngưỡng của phân phối chuẩn; Z = 1,96 tương ứng với độ tin cậy là 
95% 
- e: sai số cho phép. Trong nghiên cứu này, e = 5% là tỷ lệ thông thường được sử 
dụng 
- p: tỷ lệ mẫu dự kiến được chọn; trong nghiên cứu này p = 0,5 là tỷ lệ tối đa 
Đối với tổng thể nhân viên bảo vệ, do tỷ lệ n/N > 5% nên chúng tôi sử dụng 
thêm công thức điều chỉnh kích cỡ mẫu (Cochran): 
N
n
nn
1
1 
Theo công thức trên, số lượng mẫu khách tham quan cần phỏng vấn tối đa để đạt 
được độ tin cậy 95% tại các điểm tham quan là: 
n = 1.962 * 0,5 * 0,5/ (0,05)2 = 384 
Tuy nhiên, để tăng tính đại diện của mẫu, nhóm nghiên cứu đã tiến hành phát ra 
600 bảng câu hỏi. Số bảng hỏi thu về là 556 bảng. Sau khi loại 23 bảng hỏi không hợp 
lệ, kích thước mẫu cuối cùng dùng để xử lý là n = 534; trong đó có 268 mẫu là khách 
2
2
2/..

 zqpn 
130 
quốc tế và 265 mẫu là khách trong nước. Để đảm bảo tính đại diện của mẫu so với tổng 
thể, nhóm nghiên cứu đã tiến hành phân chia cơ cấu mẫu theo tỷ lệ tương ứng với số 
lượng khách tham quan tại các điểm được thống kê, cụ thể như sau: 
Bảng 1. Cơ cấu tổng thể nghiên cứu và mẫu điều tra 
 Tổng thể nghiên cứu Mẫu điều tra thực tế 
 Số lượt 
(kh) 
Tỷ 
trọng 
(%) 
Quốc 
tế 
(%) 
Trong 
nước 
(%) 
Số 
lượt 
(kh) 
Tỷ 
trọng 
(%) 
Quốc 
tế (%) 
Trong 
nước 
(%) 
Đại Nội 671268 43,5 50,8 49,2 228 42,7 51,3 48,7 
Tự Đức 364563 23,6 53,6 46,4 130 24,3 53,8 46,2 
Khải Định 335985 21,8 41,5 58,5 117 21,9 41,9 58,1 
Minh Mạng 170326 11,1 56,9 43,1 59 11,1 55,9 44,1 
Tổng 1542142 100 534 100 
Nguồn: Tính toán của nhóm nghiên cứu, từ số liệu tổng hợp giai đoạn 2006-2009. 
Số lượng bảng hỏi thu về hợp lệ và được sử dụng trong phân tích đối với đối 
tượng nhân viên bảo vệ là 61 bảng hỏi. 
Các dữ liệu định lượng sau khi thu thập đã được hiệu chỉnh, làm sạch và được 
xử lý, phân tích trên phần mềm thống kê SPSS sử dụng các biểu đồ, các đại lượng thống 
kê mô tả như tần số, giá trị trung bình và các kiểm định giả thuyết như: Binomial Test, 
one sample t-test, phân tích phương sai một yếu tố (one-way ANOVA). 
4. Kết quả nghiên cứu và thảo luận 
4.1. Xác định hệ thống các chỉ báo 
Việc xây dựng các chỉ báo đo lường và đánh giá theo được thực hiện theo quy 
trình gồm bốn bước (Louise Twining-Ward) bao gồm: rà soát lại các chỉ báo hiện có 
dựa vào các tài liệu của các tổ chức uy tín như Tổ chức Du lịch Thế giới, Trung tâm Di 
sản Thế giới của UNESCO, Viện Nghiên cứu và Phát triển Du lịch Việt Nam. Sau đó, 
phỏng vấn ý kiến của các chuyên gia và các nhà quản lý du lịch để nghiên cứu xây dựng 
các chỉ báo mới. Bước tiếp theo là sàng lọc lại các chỉ báo, phối hợp các chỉ báo dựa 
trên các tiêu chí như: phù hợp với vấn đề quan tâm chính và mục tiêu tương ứng; dễ đo 
lường với nguồn nhân lực và tài chính sẵn có, đơn giản và dễ hiểu, đáp ứng các biện 
pháp quản lý... 
Sau quá trình thực hiện bốn bước trên, nhóm nghiên cứu đã xác định hệ thống 
các chỉ báo dùng để đánh giá, giám sát tính bền vững về môi trường và chất lượng các 
trải nghiệm của du khách tại các điểm tham quan thuộc Quần thể di tích Huế bao gồm: 
131 
Bảng 2. Hệ thống chỉ báo xác định cho các điểm tham quan tại Quần thể di tích Huế 
Vấn đề chính Các chỉ báo xác định Nguồn tham khảo chính 
BẢO VỆ TÀI 
NGUYÊN 
VĂN HÓA 
Tỷ lệ đánh giá rằng ý thức của khách 
tham quan về bảo vệ tài nguyên văn hóa 
là “tốt” và “rất tốt” 
Dựa trên ý kiến chuyên gia 
Tỷ lệ đánh giá rằng ý thức của người 
dân về bảo vệ tài nguyên văn hóa là 
“tốt” và “rất tốt” 
Dựa trên ý kiến chuyên gia 
Tỷ lệ khách phàn nàn vì tác động ảnh 
hưởng của các công trình di tích đang 
trùng tu 
Dựa trên thực tế và tài liệu 
của UNESCO 
Tỷ lệ đánh giá rằng các hành vi tác 
động của du khách đến di tích văn hóa 
là “nhiều” và “rất nhiều” 
Dựa trên ý kiến chuyên gia 
và Luật Di sản văn hóa 
BẢO VỆ 
MÔI 
TRƯỜNG 
TỰ NHIÊN 
VÀ MÔI 
TRƯỜNG 
VĂN HOÁ -
XÃ HỘI 
Tỷ lệ thu gom rác tại chỗ hàng ngày Dựa trên ý kiến chuyên gia 
Tỷ lệ du khách nhận xét nhà vệ sinh 
chưa đạt tiêu chuẩn Dựa trên ý kiến chuyên 
gia, Viện NC&PTDL, Luật 
BVMT, Luật DL Tỷ lệ du khách nhận xét về thùng rác 
chưa đạt tiêu chuẩn 
Tỷ lệ đánh giá rằng ý thức của khách 
tham quan về bảo vệ môi trường là 
“tốt” và “rất tốt” 
SNV, Luật BVMT, Luật 
DL 
Tỷ lệ đánh giá rằng ý thức của người 
dân về bảo vệ môi trường là “tốt” và 
“rất tốt” 
SNV, Luật BVMT, Luật 
DL 
Số lượng các vụ trộm cắp, cướp giật 
liên quan đến khách được báo cáo 
Dựa trên ý kiến chuyên gia 
Số lượng khách phàn nàn về các hiện 
tượng ăn xin, bán hàng rong “đeo bám” 
khách 
Viện NC&PTDL, Luật DL 
Tỷ lệ nhân viên tại điểm tham quan 
được tập huấn hàng năm về bảo vệ môi 
trường, tài nguyên 
Dựa trên tài liệu SNV, 
Luật BVMT, Luật DL 
Tỷ lệ khách tham quan quay trở lại UNWTO, Viện NC&PT 
DL 
Tỷ lệ khách hài lòng về chuyến tham 
quan 
UNWTO 
132 
TRẢI 
NGHIỆM 
CỦA DU 
KHÁCH 
Tỷ lệ khách hài lòng với các giá trị văn 
hóa - lịch sử - kiến trúc của điểm tham 
quan 
UNWTO 
Tỷ lệ khách hài lòng về công tác thuyết 
minh tại chỗ 
UNWTO 
Tỷ lệ khách hài lòng về hệ thống biển 
chỉ dẫn thông tin du lịch 
Dựa trên ý kiến chuyên gia 
và tài liệu của UNESCO 
Số lượng khách phàn nàn về việc tập 
trung quá đông khách trong một ngày 
mùa cao điểm 
Dựa trên tài liệu của 
UNESCO, Hiến chương 
QT 
Nguồn: Đề xuất của nhóm nghiên cứu. 
4.2. Đánh giá hiện trạng tại các điểm tham quan thuộc Quần thể di tích Huế - 
Một số kết quả nghiên cứu chính 
4.2.1. Đánh giá các vấn đề liên quan đến bảo vệ tài nguyên văn hóa 
 Xét từ góc độ bảo vệ tài nguyên là một phần quan trọng để đánh giá tính bền 
vững của hoạt động tham quan du lịch, kết quả kiểm định Binomial Test cho thấy rằng 
tỷ lệ đánh giá của toàn bộ nhân viên về ý thức bảo vệ di tích của khách quốc tế mức độ 
“tốt” trở lên là 99% (p = 0,453) và của khách tham quan nội địa tương ứng chỉ đạt 35% 
(p = 0,085). 
Kết quả kiểm định One-sample T-test (Bảng 3) về ý thức của hai nhóm du khách 
với giá trị p (mức ý nghĩa) đều nhỏ hơn 0,05 cho biết rằng với độ tin cậy 95%, có đủ 
bằng chứng thống kê để bác bỏ giả thuyết H0. Căn cứ vào trung bình mẫu và kết quả 
kiểm định này, có thể nói rằng thực sự khách tham quan quốc tế có ý thức rất tốt đối với 
việc bảo vệ các tài nguyên văn hóa (là các di tích và hiện vật) trong khi ý thức này của 
khách nội địa là chưa cao. 
Bảng 3. Kết quả kiểm định trung bình tổng thể (One-Sample T-test) về ý thức bảo vệ các công 
trình di tích của du khách 
Chỉ báo 
Giá trị kiểm định = 4 
Giá trị 
t 
Trung bình 
mẫu 
Số bậc tự 
do 
Mức ý nghĩa Sig.(2 
phía) 
Ý thức bảo vệ di tích 
của khách quốc tế 7.215 4,5 59 .000 
Ý thức bảo vệ di tích 
của khách nội địa -7.252 3,33 60 .000 
Nguồn: xử lý kết quả điều tra của nhóm nghiên cứu. 
133 
Ghi chú: - Các biến có phân phối xấp xỉ chuẩn 
 - Thang đo sử dụng có 5 mức độ từ 1 - rất kém đến 5 - rất tốt 
 - Giả thuyết Ho: ý thức bảo vệ di tích của khách là tốt (mức điểm 4) 
Về ý thức của người dân đối với vấn đề này, kiểm định Binomial Test với p bằng 
0,066 cho biết rằng có 42% người dân có ý thức bảo vệ di tích từ “tốt” trở lên. Trong đó, 
điểm tham quan Khải Định có ý thức của người dân về vấn đề này là tốt nhất (với 100% 
ý kiến cho rằng người dân có ý thức “tốt”). 
Về các hành vi cụ thể của khách du lịch, có 95% cho rằng việc viết vẽ lên di tích 
hiện nay của du khách là “ít” hoặc “không có” (kiểm định Binomial Test với p= 0,189). 
Đây là một trong những thay đổi theo chiều hướng tích cực rõ nét nhất từ trước đến nay 
mà theo nhận định của TS. Phan Tiến Dũng – Giám đốc Sở Văn hóa - Thể thao - Du 
lịch, nguyên nhân chủ yếu là do ý thức của khách tham quan ngày càng tốt hơn so với 
trước và do các cố gắng nỗ lực đặt các biển báo nhắc nhở du khách của đơn vị quản lý. 
Tuy nhiên, về các hiện tượng như “quay phim, chụp ảnh trong nội thất cấm” và 
“nằm, ngồi, sờ vào hiện vật” hiện đang diễn ra với nhiều mức độ khác nhau; kết quả 
kiểm định tỷ lệ tổng thể Binomial Test cho biết rằng, có 30% đánh giá là “nhiều” đối 
với việc quay phim chụp ảnh nội thất (p=0,057) và 15% đánh giá là nhiều và rất nhiều 
đối với việc “nằm, ngồi, sờ vào hiện vật” của du khách (p= 0,089). Đây là một minh 
chứng rõ ràng cho nhận định rằng việc tác động của khách tham quan vào các công 
trình di tích là điều không thể tránh khỏi và không thể hạn chế được tuyệt đối mặc dù đã 
có cá ... ệ sinh công cộng tại các điểm tham quan. Kết 
quả kiểm định tỷ lệ tổng thể Binomial Test cho biết rằng có 38% khách không đồng ý 
với nhận định “nhà vệ sinh sạch sẽ, không có mùi” (p= 0,082) và 45% không đồng ý với 
nhận định “nhà vệ sinh có đủ nước, giấy và xà phòng rửa” (p= 0,069). Kết quả thống kê 
này cũng phù hợp với kết quả khảo sát thực địa của chúng tôi tại khu vực các điểm tham 
quan: nhà vệ sinh tại các di tích lăng tẩm hầu như không đảm bảo các tiêu chuẩn tối 
thiểu. Đây là một trong những vấn đề bức xúc của du khách cần phải được giải quyết 
ngay vì không chỉ ảnh hưởng đến sự hài lòng của du khách (một yếu tố quan trọng theo 
khái niệm du lịch bền vững) mà các nhà vệ sinh này đang trực tiếp gây ô nhiễm môi 
trường nghiêm trọng. 
4.2.2.2. Đánh giá ý thức và tác động đến môi trường của du khách và người dân 
Từ kết quả cuộc điều tra khảo sát, sử dụng kiểm định Binomial Test để kết luận 
cho tỷ lệ của tổng thể, kết quả cho thấy rằng tỷ lệ đánh giá của toàn bộ nhân viên về ý 
thức bảo vệ môi trường của khách tham quan nội địa là “tốt” và “rất tốt” chỉ đạt 25% (p 
= 0,11) (trong khi tỷ lệ này đối với khách quốc tế là 100%). Một con số để chứng minh 
điều này đó là điểm đánh giá trung bình dành cho khách quốc tế là 4,43/5 (với thang 
điểm từ 1 - rất kém đến 5 - rất tốt); trong khi mức điểm này đối với khách nội địa chỉ là 
2,9/5. 
Bên cạnh đối tượng là khách tham quan, sử dụng kiểm định Binomial Test để kết 
luận cho tỷ lệ của tổng thể, kết quả cho thấy rằng tỷ lệ đánh giá của toàn bộ nhân viên 
về ý thức bảo vệ môi trường cảnh quan tự nhiên (p = 0,086) và văn hóa xã hội (p = 
0,148) của người dân địa phương từ mức độ “tốt” trở lên là 25%. Tỷ lệ này cũng gần 
bằng với tỷ lệ đánh giá đối với khách du lịch nội địa. Giá trị p-value (0,000) nhỏ hơn 
0,05 của kiểm định One-sample t-test cũng góp phần khẳng định điều đó. Nói một cách 
135 
khác, vấn đề về ý thức bảo vệ môi trường của người Việt (bao gồm khách du lịch và cả 
người địa phương) thông qua nghiên cứu này đang là một vấn đề hạn chế, cần thiết phải 
có giải pháp để nâng cao trong thời gian tới. 
Trong số các điểm tham quan thì người dân sống xung quanh lăng Tự Đức được 
đánh giá là có ý thức kém nhất về bảo vệ môi trường văn hóa - xã hội (với tỷ lệ 33,3% 
nhân viên nhận xét ý thức của người dân là kém – cao nhất trong các điểm du lịch). 
Nhận định chung này khá trùng hợp với quan sát thực địa của chúng tôi tại các điểm 
tham quan này với tình trạng đeo bám khách để bán hàng rong của người dân diễn ra tại 
lăng Tự Đức và kể cả lăng Minh Mạng mặc dù đã có Quy chế 1218 nghiêm cấm các 
hành vi này của chính quyền địa phương. Về mức độ thì như một nhận xét của nhân 
viên đó là “ăn xin, đeo bám vẫn còn tồn tại mặc dù ý thức của người dân ngày càng có 
tiến bộ”. 
Tuy nhiên, đánh giá về tình hình an ninh trật tự nói chung tại các điểm tham 
quan, thông qua kết quả khảo sát thực địa của nhóm nghiên cứu và thông tin thu được từ 
việc phỏng vấn một số khách du lịch và thanh tra ngành văn hóa - du lịch, nhóm nghiên 
cứu nhận định rằng hiện tại, vấn đề an ninh trật tự, an toàn cho du khách được bảo đảm 
khá tốt tại bên trong và bên ngoài các điểm tham quan: không có các hiện tượng cướp 
giật, ăn trộm cướp tài sản của du khách hoặc các tệ nạn xã hội như mại dâm, ma túy 
xảy ra, gây ảnh hưởng đến môi trường du lịch. 
Một yếu tố liên quan đến bền vững cần được xem xét nữa đó là công tác đào tạo 
và tập huấn nhân viên phục vụ khách trực tiếp về vấn đề bảo vệ tài nguyên và môi 
trường. Đây là chỉ báo cần thiết vì những nhân viên này đồng thời thực hiện công việc 
bảo vệ môi trường và di tích nên họ phải là những người có ý thức cao nhất để triển 
khai công tác này ở mức tốt nhất. Bên cạnh đó, họ sẽ đóng vai trò hướng dẫn và tuyên 
truyền nâng cao ý thức cho khách tham quan và cả người dân vì đây chính là “gốc rễ” 
của các giải pháp bảo vệ môi trường. Liên quan đến chỉ báo này, mặc dù hiện tại, hàng 
năm, nhân viên của Trung tâm đều được tập huấn về các kỹ năng chuyên môn liên quan 
đến công tác bảo vệ, tuy nhiên, các vấn đề nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường tài 
nguyên và các kỹ năng cần thiết để phục vụ khách du lịch chưa được tổ chức tập huấn 
bài bản với sự phối hợp của các cơ quan chuyên ngành như Sở Tài nguyên – Môi trường, 
Sở Văn hóa - Thể thao - Du lịch. 
4.2.3. Đánh giá các vấn đề liên quan đến trải nghiệm của du khách 
Ngay từ trong khái niệm về du lịch bền vững, Tổ chức Du lịch Thế giới 
(UNWTO) đã nhận định rất rõ rằng “du lịch bền vững là việc phát triển các hoạt động 
du lịch nhằm đáp ứng các nhu cầu hiện tại của khách du lịch”. Như vậy, có thể nói rằng 
sự hài lòng của khách du lịch là một yếu tố quan trọng đối với sự bền vững không chỉ 
của doanh nghiệp du lịch (Louise Twining-Ward) mà còn của một điểm du lịch. 
Trong các cuộc điều tra trước được tiến hành bởi các nhà nghiên cứu độc lập, tỷ 
136 
lệ khách quay trở lại từ 2 lần trở lên dao động trong khoảng 19% - 42,1% và con số 
trung bình là 26,7%, chiếm khoảng ¼ tổng lượt khách tham quan; nhưng con số này đối 
với khách quốc tế có thể ít hơn nhiều. Để chứng minh nhận định này, chúng tôi đã tiến 
hành khảo sát khách về số lần đến tham quan ở cả 4 điểm chính và kết quả kiểm định 
Binomial Test về tỷ lệ của tổng thể chỉ ra rằng tỷ lệ khách tham quan quay trở lại từ lần 
2 trở lên là 27% (p= 0,059); trong đó, tỷ lệ khách quốc tế quay trở lại di tích Huế chỉ là 
7% (p = 0,058). Điều này có thể được lý giải phần nào bởi tác động của cuộc khủng 
hoảng kinh tế toàn cầu làm giảm lượng du khách quốc tế; tuy nhiên, đây vẫn là một con 
số khá thấp, phần nào phản ánh hoạt động du lịch ở đây chưa thực sự hấp dẫn và đáp 
ứng các nhu cầu của du khách. 
Bên cạnh đó, trong số các chỉ tiêu đánh giá mức độ bền vững của hoạt động du 
lịch thì “tỷ lệ về số khách hài lòng” là một trong các chỉ tiêu được đánh giá là quan 
trọng nhất. Chỉ tiêu này càng cao và càng được duy trì sẽ góp phần làm tăng lượng 
khách quay trở lại điểm du lịch một cách lâu dài cũng như giới thiệu cho các khách khác 
tiếp tục đến tham quan. Theo kết quả kiểm định, tỷ lệ của tổng thể du khách hài lòng về 
chuyến tham quan là 89% (p= 0,153); trong đó, tỷ lệ của khách tham quan quốc tế là 
95% (p = 0,107) 
Kết quả kiểm định trung bình tổng thể (kiểm định t một mẫu) cũng cho biết với 
độ tin cậy 95%, có đủ bằng chứng thống kê để bác bỏ giả thuyết H0; kết hợp với giá trị 
trung bình của mẫu, có thể nhận định rằng tổng thể du khách thực sự hài lòng với 
chuyến tham quan (Bảng 4). 
Bảng 4. Kết quả kiểm định trung bình tổng thể (One-Sample T-test) về mức độ hài lòng của du 
khách về chuyến tham quan 
Chỉ tiêu 
Giá trị kiểm định = 4 
Giá trị 
t 
Trung bình 
mẫu 
Số bậc tự do 
df 
Mức ý nghĩa Sig. (2 
phía) 
Mức độ hài lòng 
chung của du 
khách 
4.855 4,17 519 .000 
Nguồn: xử lý kết quả điều tra của nhóm nghiên cứu. 
Ghi chú: - Dữ liệu thu được của biến có phân phối xấp xỉ chuẩn 
 - Thang đo sử dụng có 5 mức độ từ 1 - rất không hài lòng đến 5 - rất hài lòng 
 - Giả thuyết Ho: du khác hài lòng về chuyến tham quan (tương ứng với giá trị 
4) 
Để đánh giá chi tiết hơn, nhóm nghiên cứu sử dụng phân tích phương sai 
ANOVA một yếu tố để xem xét sự khác biệt về trung bình của mức độ hài lòng chung 
137 
giữa ba nhóm du khách có số lần đến tham quan khác nhau. Kết quả cho biết sau khi 
thoả mãn các điều kiện kiểm định (trong đó, phương sai các nhóm đồng đều nhau với p 
của Levene Test bằng 0,219); có sự khác biệt về mức độ hài lòng chung giữa các nhóm 
du khách có số lần đến khác nhau (p=0,000) mà cụ thể hơn là mức độ hài lòng của 
khách đến lần thứ nhất là cao nhất và giảm dần khi số lần đến tăng lên (Bảng 5, kiểm 
định Dunnett với các giá trị p nhỏ hơn 0,05) với độ tin cậy 95%. Nói một cách khác, có 
thể kết luận rằng, các điểm tham quan di tích Huế chưa có sự đổi mới, đa dạng hơn để 
hấp dẫn du khách, làm cho khách hài lòng hơn trong những lần đến tiếp theo. 
Bảng 5. Kết quả phân tích phương sai một yếu tố (one-way ANOVA) về mức độ hài lòng của 
các nhóm khách có số lần đến khác nhau 
Mức độ hài lòng chung 
Biến thiên 
Tổng các chênh 
lệch bình 
phương 
Bậc 
tự do 
Các chênh lệch 
bình phương 
b.quân 
Giá 
trị F 
Mức ý 
nghĩa quan 
sát (Sig.) 
Giữa các nhóm 15.979 2 7.989 13.516 .000 
Trong nội bộ 
nhóm 
304.409 515 .591 
Tổng cộng 320.388 517 
Phân tích sâu ANOVA (kiểm định Dunnett): so sánh sự khác biệt giữa các nhóm 
khách có số lần đến khác nhau 
Biến phụ thuộc: Mức độ hài lòng chung 
Kiểm định Dunnett t (2 phía) 
(I) Số lần đến di 
tích-MH2 
(J) Số lần đến 
di tích-MH2 
Mean Difference 
(I-J) Std. Error 
Mức ý nghĩa 
quan sát 
(Sig.) 
lần 2 lần 1 -.379(*) .106 .001 
Lần 3 trở lên lần 1 -.448(*) .106 .000 
*Sự chênh lệch giữa các giá trị trung bình có ý nghĩa thống kê ở mức ý nghĩa 
0.05 (độ tin cậy 95%) 
a Các kiểm định Dunnett t chọn một nhóm làm nhóm điều khiển và so sánh các 
nhóm mẫu còn lại với nhóm này 
Nguồn: xử lý kết quả điều tra của nhóm nghiên cứu. 
Bên cạnh đó, kết quả kiểm định (Binomial Test) cho thấy rằng tỷ lệ khách tham 
quan đánh giá hài lòng và rất hài lòng về các giá trị văn hóa - lịch sử - kiến trúc trong 
138 
tổng thể chung đạt 94% (p = 0,061); trong đó, khách quốc tế là 94% (p = 0,086) và 
khách tham quan nội địa đạt 95% (p = 0,071). Hai tỷ lệ tổng thể này đối với hai đối 
tượng khách gần tương đương nhau và khá cao chứng tỏ các điểm tham quan di tích 
Huế có sức hấp dẫn lớn, không chỉ thu hút khách quốc tế là đối tượng khách có sự khác 
biệt về nền văn hóa - lịch sử, kiến trúc (do vậy, những gì mới lạ dễ thu hút khách hơn) 
mà còn thu hút cả khách tham quan nội địa là những người không xa lạ với các giá trị 
lịch sử - văn hóa - kiến trúc Việt. Đây là một trong các chỉ tiêu quan trọng phản ánh khả 
năng thu hút khách trong tương lai của các điểm tham quan di tích Huế nếu được giữ 
gìn bảo vệ tốt và khai thác thêm được các giá trị này để đa dạng hóa sản phẩm du lịch, 
hấp dẫn khách tiếp tục quay trở lại. 
Đối với các biển chỉ dẫn thông tin du lịch hỗ trợ cho khách trong quá trình tham 
quan, sử dụng kiểm định Binomial Test cho tỷ lệ tổng thể, kết quả chỉ có 50% khách 
đến tham quan di tích Huế hài lòng về các chỉ dẫn thông tin tại các điểm tham quan (p = 
0,151). Trong số những người không hài lòng, có 18/62 ý kiến (chiếm tỷ lệ 29%) cho 
rằng số lượng các biển chỉ dẫn thông tin liên quan đến du lịch cần phải nhiều hơn, nội 
dung đa dạng hơn, đẹp và cách thể hiện các nội dung rõ ràng, dễ hiểu (nên sử dụng các 
hình vẽ minh họa nếu được). 
5. Kết luận và đề nghị 
Trong nghiên cứu này, một hệ thống 18 chỉ báo (bao gồm 3 nhóm) được thiết lập 
và đề xuất để đánh giá, giám sát tính bền vững về môi trường và chất lượng các trải 
nghiệm của du khách tại các điểm tham quan thuộc Quần thể di tích Huế. Trên cơ sở các 
chỉ báo này, nhóm nghiên cứu đã tiến hành đánh giá tính bền vững của các hoạt động 
hiện nay tại di tích Huế có liên quan đến du khách. Kết quả cho thấy tỷ lệ khách hài 
lòng về chuyến tham quan, hài lòng về giá trị điểm tham quan khá cao; ý thức bảo vệ 
môi trường và tài nguyên của khách quốc tế được đánh giá tốt. Tuy nhiên, bên cạnh đó, 
một số chỉ báo cho biết rằng các công trình trùng tu đang triển khai, ý thức về bảo vệ tài 
nguyên và môi trường của khách nội địa và người dân địa phương chưa tốt, tỷ lệ khách 
quay trở lại chưa cao. Một số vấn đề vẫn còn tồn tại như: đeo bám khách du lịch, thùng 
rác và các nhà vệ sinh chưa đạt tiêu chuẩn, các biển báo chỉ dẫn chưa đầy đủ và hiệu 
quả. 
Để khắc phục những vấn đề trên, nhóm nghiên cứu đề nghị một số giải pháp chủ 
yếu như: 
- Về công tác bảo vệ tài nguyên: cần có biển chỉ dẫn thông tin du lịch tại chỗ về 
ý nghĩa của các hiện vật còn giữ lại để tăng cường ý thức giữ gìn, lồng ghép các thông 
tin về công tác bảo tồn cho thuyết minh viên vào nội dung hướng dẫn nhằm góp phần 
nâng cao nhận thức của du khách, có quy định riêng và tăng thẩm quyền xử phạt tại chỗ 
cho lực lượng bảo vệ đối với các hành vi vi phạm Luật Di sản văn hóa. 
- Về bảo vệ cảnh quan và môi trường văn hóa: lồng ghép nội dung tập huấn về 
139 
bảo vệ môi trường cho các hướng dẫn viên và thuyết minh viên và cả lực lượng bảo vệ 
để yêu cầu nhắc nhở du khách, huy động sự tham gia của chính quyền địa phương và 
người dân, cải thiện hệ thống các công trình vệ sinh tại các lăng xa thành phố, quy 
hoạch hệ thống thùng rác về vị trí và phân loại tại nguồn 
- Bên cạnh đó, nhằm tăng khả năng thu hút khách tham quan, đơn vị quản lý di 
tích cần phối hợp với cơ quan quản lý nhà nước về du lịch để thực hiện các hoạt động 
tuyên truyền, quảng bá các di tích Huế và các sản phẩm văn hoá đã xây dựng được đến 
các công ty du lịch ở trong và ngoài nước, tiến hành triển khai thăm dò ý kiến của du 
khách hàng năm, thành lập các hộp thư góp ý hoặc các đường dây nóng để kịp thời điều 
chỉnh, xây dựng các sản phẩm, dịch vụ mới dựa trên các phản hồi của khách hàng, lắp 
đặt hệ thống các biển báo đầy đủ hơn và hiệu quả hơn 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Hải Dương. Quản lý, bảo tồn và phát triển du lịch tại các di sản thế giới ở Việt Nam. 
Tạp chí Du lịch Việt Nam. Tháng 12/2007. 
[2]. Hội đồng Khoa học kỹ thuật – Tổng cục Du lịch. Bản tin Du lịch: giới thiệu sách 
“Cẩm nang về phát triển du lịch bền vững”, số 1, 2005. 
[3]. Pedersen, A., Năng lực thực hiện và các vấn đề hoạch định kế hoạch liên quan, Tài liệu 
hướng dẫn Quản lý Du lịch tại các khu Di sản thế giới – Tài liệu hướng dẫn thực tiễn 
cho các nhà quản lý khu Di sản thế giới. Trung tâm Di sản thế giới của UNESCO, 2002. 
[4]. Louise Twining-Ward. Bộ công cụ quản lý và giám sát du lịch cộng đồng. SNV Việt 
Nam và Đại học Tổng hợp Hawaii, www.ngocentre.org.vn. 
STUDY ON INDICATORS OF SUSTAINABLE TOURISM DEVELOPMENT 
AT TOURISM SITES OF THE HUE MONUMENTS COMPLEX (VIETNAM) 
Hoang Thi Dieu Thuy 
College of Economics, Hue University 
SUMMARY 
This research paper uses both qualitative and quantitative data obtained from expert 
interviews, staff survey and survey of 534 international and domestic visitors as the main 
sources of input for analysis. In addition, based on the methodology of “Limits of acceptable 
changes”; the research has established a system of 18 indicators divided into three groups and 
used it to assess current environment and resources conditions in Hue heritage sites. The 
findings reveal a high percentage of satisfied visitors about their trips to the Hue heritage sites 
as well as about the sites value and a high perception of environment and resources protection 
of international visitors. However, the analysis of some indicators shows that the environment 
140 
and resources protection perception of domestic visitors and local people is significantly low, 
the percentage of return visitors is small and the satisfaction degree of visitors has reduced 
gradually when they come back; there have been still several problems which need to be solved 
such as insufficient standadized toilets, rubbish bins and uneffective tourism signs. 

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_cac_chi_bao_phat_trien_du_lich_ben_vung_tai_cac_d.pdf