Nghiên cứu ảnh hưởng của sonde JJ đến người bệnh sau tán sỏi niệu quản nội soi ngược dòng tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam Định năm 2020

Mục tiêu: Đánh giá những tác động không mong muốn của sonde JJ đến người bệnh sau tán sỏi niệu quản nội soi ngược dòng.

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả được thực hiện trên 102 người bệnh tán sỏi niệu quản nội soi ngược dòng có đặt sonde JJ. Bộ câu hỏi USSQ (Ureteral Stent Symptom Questionnaire) được sử dụng để đánh giá triệu chứng tiết niệu và đau thực thể tại thời điểm 4 tuần sau khi người bệnh đặt sonde JJ.

Kết quả: Điểm trung bình triệu chứng tiết niệu 28,62 ± 5,87 (tổng 54 điểm ). Có tới 87,3% người bệnh có biểu hiện đái máu từ mức độ thỉnh thoảng đến mức thông thường. Điểm trung bình đau thực thể 18,36 ± 3,44 (tổng 27 điểm ), hầu hết người bệnh có cảm giác đau sau khi đặt sonde JJ (94,1%), vị trí đau hay gặp nhất là vùng thận sau chiếm tới 60,8%.

Kết luận: Sonde JJ sau tán sỏi niệu quản nội soi ngược dòng là nguyên nhân của nhiều tác dụng không mong muốn, nó ảnh hưởng tiêu cực đến tình trạng chung và chất lượng cuộc sống của người bệnh

pdf 8 trang phuongnguyen 660
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu ảnh hưởng của sonde JJ đến người bệnh sau tán sỏi niệu quản nội soi ngược dòng tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam Định năm 2020", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu ảnh hưởng của sonde JJ đến người bệnh sau tán sỏi niệu quản nội soi ngược dòng tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam Định năm 2020

Nghiên cứu ảnh hưởng của sonde JJ đến người bệnh sau tán sỏi niệu quản nội soi ngược dòng tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam Định năm 2020
38
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
7. Daltio C, Attux C, Ferraz M et al 
(2015) . Knowledge in schizophrenia: The 
Portuguese version of KAST (Knowledge 
About Schizophrenia Test) and analysis 
of social-demographic and clinical factors’ 
influence. Schizophrenia research, 168(1-
2), 168-173.
8. Đinh Quốc Khánh (2010). Kiến 
thức-thái độ-thực hành của người chăm 
sóc chính người bệnh tâm thần phân liệt 
tại nhà và một số yếu tố liên quan ở huyện 
Bình Xuyên, Vĩnh Phúc, năm 2010. Luận 
văn thạc sỹ Y tế Công cộng, Đai học Y tế 
Công cộng
9. Bệnh viện Tâm thần Trung ương I 
(2016). Hướng dẫn chẩn đoán, điều trị và 
quản lý một số rối loạn tâm thần tại cộng 
đồng. Hà Nội - 2016.
10. Nguyễn Viết Thiêm (2012). Bệnh 
Tâm thần phân liệt những hiểu biết cơ bản 
về điều tri, chăm sóc, quản lý và phục hồi 
chức năng dựa vào cộng đồng. Chương 
trình quốc gia về chăm sóc sức khỏe tâm 
thần cộng đồng, Hà Nội.
11. Lê Văn Cường (2018). Thực trạng 
quản lý và chăm sóc người bệnh TTPL điều 
trị ngoại trú tại Nam Định. Luận văn Thạc sỹ 
Điều dưỡng, Trường Đại học Điều dưỡng 
Nam Định.
12. Koolaee A.K & Etemadi A (2010). 
The outcome of family interventions for the 
mothers of schizophrenia patients in Iran. 
International Journal of Social Psychiatry, 
56(6), 634-646
13. Smith J.V, & Birchwood M.J 
(1987). Specific and non-specific effects of 
educational intervention with families living 
with a schizophrenic relative. The British 
Journal of Psychiatry, 150(5), 645-652.
NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA SONDE JJ ĐẾN NGƯỜI BỆNH SAU TÁN SỎI NIỆU 
QUẢN NỘI SOI NGƯỢC DÒNG TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TỈNH NAM ĐỊNH NĂM 2020
Đỗ Thu Tình1b, Trần Văn Long1, Vũ Mạnh Độ1
Nguyễn Thị Thanh Huyền1, Nguyễn Thị Thùy1b 
1Đại học Điều dưỡng Nam Định
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá những tác động không 
mong muốn của sonde JJ đến người bệnh 
sau tán sỏi niệu quản nội soi ngược dòng. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 
Nghiên cứu mô tả được thực hiện trên 102 
người bệnh tán sỏi niệu quản nội soi ngược 
dòng có đặt sonde JJ. Bộ câu hỏi USSQ 
(Ureteral Stent Symptom Questionnaire) 
được sử dụng để đánh giá triệu chứng tiết 
niệu và đau thực thể tại thời điểm 4 tuần 
sau khi người bệnh đặt sonde JJ. Kết quả: 
Điểm trung bình triệu chứng tiết niệu 28,62 
± 5,87 (tổng 54 điểm ). Có tới 87,3% người 
bệnh có biểu hiện đái máu từ mức độ thỉnh 
thoảng đến mức thông thường. Điểm trung 
bình đau thực thể 18,36 ± 3,44 (tổng 27 
điểm ), hầu hết người bệnh có cảm giác 
đau sau khi đặt sonde JJ (94,1%), vị trí đau 
hay gặp nhất là vùng thận sau chiếm tới 
60,8%. Kết luận: Sonde JJ sau tán sỏi niệu 
quản nội soi ngược dòng là nguyên nhân 
của nhiều tác dụng không mong muốn, nó 
ảnh hưởng tiêu cực đến tình trạng chung và 
chất lượng cuộc sống của người bệnh. 
Từ khóa: Sonde JJ, tán sỏi niệu quản 
nội soi ngược dòng.
Người chịu trách nhiệm: Đỗ Thu Tình
Email: [email protected]
Ngày phản biện: 28/8/2020
Ngày duyệt bài: 15/9/2020
Ngày xuất bản: 05/11/2020
39
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
STUDY ON THE EFFECTS OF DOUBLE-J STENT ON PATIENTS AFTER 
UPSTREAM ENDOSCOPIC URETERAL LITHOLYSIS 
AT NAM DINH GENERAL HOSPITAL IN 2020
ABSTRACT
Objective: Assessment of undesirable 
effects due to double-J stent after upstream 
endoscopic ureteral litholysis to patients. 
Method: A cross-sectional descriptive 
studies were performed on 102 patients 
after retrograde endoscopic ureteral 
lithotripsy with double-J stent. Patients 
were asked to answer questions about 
urinary symptoms and physical pain at 4 
weeks after a double-J stent. Results: 
Average score for urinary symptoms 28.62 
± 5.87(total 54 points). Up to 87.3% of 
patients with haematuria from occasional 
to most of the time. Average physical pain 
score 18.36 ± 3.44 (total 27 points), most 
patients feel pain after insertion of double-J 
stent (94.1%), the most painful position 
is the kidney back area accounts for 
60.8%. Conclusion: Double-J stent after 
retrograde endoscopic ureterolysis is the 
cause of many undesirable effects, which 
negatively affect the general condition and 
quality of life of the patient.
Keywords: Double-J stent, upstream 
endoscopic ureteral litholysis.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Sỏi niệu quản là một trong những bệnh 
lý thường gặp của hệ tiết niệu. Ở Việt Nam 
sỏi niệu quản chiếm tỷ lệ 28,72% trong các 
bệnh lý niệu khoa [1]. 
Sỏi niệu quản thường gây ra các biến 
chứng tắc đường niệu, nhiễm khuẩn. Nếu 
không được điều trị kịp thời thì chức năng 
thận bị giảm sút do ứ nước, ứ mủ thận. Điều 
trị sỏi tiết niệu đã có những thành tựu đáng 
kể, đặc biệt như: tán sỏi ngoài cơ thể, tán 
sỏi nội soi ngược dòng, lấy sỏi qua da Mỗi 
phương pháp đều có hiệu quả nhất định, 
trong đó phương pháp tán sỏi nội soi ngược 
dòng đã được biết đến từ những năm 1978, 
giải quyết tới 90% các trường hợp sỏi, phẫu 
thuật mở chỉ còn < 10% [2]. Tại Việt Nam 
tán sỏi niệu quản qua nội soi đã được triển 
khai tại rất nhiều bệnh viện chuyên sâu và 
các bệnh viện lớn thu được nhiều thành 
công. Phương pháp điều trị này có ưu điểm 
là không tạo ra vết mổ cho người bệnh và 
rút ngắn thời gian điều trị, tuy nhiên vẫn cần 
phải dẫn lưu đường tiết niệu để tránh các 
biến chứng như sỏi rơi xuống quá nhiều làm 
tắc niệu quản, phù nề niệu quản. Sonde JJ 
giúp dẫn lưu nước tiểu từ thận xuống bàng 
quang, tránh tắc nghẽn sau tán sỏi, đồng 
thời chính sonde JJ là một phương tiện rất 
tốt giúp nong rộng niệu quản tạo điều kiện 
cho các mảnh sỏi dễ rơi xuống.
Mặc dù đặt sonde JJ có nhiều ưu điểm 
tuy nhiên sonde JJ có thể gây ra tác dụng 
phụ đáng kể: đau buốt vùng hông lưng, đau 
tăng khi đi tiểu; kích thích bàng quang: tiểu 
buốt, tiểu nhiều lần, tiểu máu; chảy máu 
đôi khi kéo dài cho đến khi ống thông được 
lấy ra[3]. Những vấn đề này ảnh hưởng 
không tốt đến tình trạng chung và chất 
lượng cuộc sống của người bệnh.
Với mong muốn có số liệu tin cậy về 
những ảnh hưởng bất lợi của sonde JJ trên 
người bệnh tán sỏi niệu quản ngược dòng 
cho việc đề xuất các hoạt động chăm sóc, 
hướng tới mục tiêu nâng cao chất lượng 
chăm sóc cho người bệnh chúng tôi tiến 
hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu ảnh 
hưởng của sonde JJ đến người bệnh sau tán 
sỏi niệu quản nội soi ngược dòng tại Bệnh 
viện Đa khoa tỉnh Nam Định năm 2020” với 
mục tiêu: Đánh giá những tác động không 
mong muốn của sonde JJ đến người bệnh 
sau tán sỏi niệu quản nội soi ngược dòng.
40
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
2.1. Đối tượng nghiên cứu: 
- 102 người bệnh tán sỏi niệu quản nội 
soi ngược dòng có đặt sonde JJ điều trị tại 
Khoa Ngoại thận - tiết niệu Bệnh viện Đa 
khoa Tỉnh Nam Định từ tháng 12/2019 đến 
tháng 04/2020.
2. 2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu: Sử dụng 
thiết kế nghiên cứu mô tả.
2.2.2. Phương pháp chọn mẫu: chọn 
mẫu toàn bộ. 102 người bệnh sau đặt 
sonde JJ, không có tiền sử điều trị nhiễm 
trùng đường tiết niệu tái phát, triệu chứng 
đường tiết niệu dưới, viêm tuyến tiền liệt 
mạn tính, hội chứng đau vùng chậu mạn 
tính, rối loạn tiểu tiện / tiểu không tự chủ.
2.3.3. Phương pháp thu thập số liệu: 
những người bệnh đủ tiêu chuẩn lựa chọn 
và đồng ý tham gia nghiên cứu được phát 
phiếu và tự điền vào bộ câu hỏi USSQ vào 
tuần thứ 4 sau khi đặt sonde JJ. Điểm số 
đã được đánh dấu cho từng câu trả lời, 
tổng số điểm được đánh giá cho từng phần 
riêng biệt. Điểm số càng cao thì các triệu 
chứng càng tồi tệ. Các triệu chứng tiết niệu: 
gồm 11 câu hỏi (U1-U11) với tổng điểm là 
54 điểm. Đau thể xác: gồm 9 câu hỏi (P1-
P9) với tổng điểm là 27 điểm. P1 và P2 
được tính bằng tỷ lệ %. P3 là tổng điểm 
VAS (Visual Analog Scale -Thước đo mức 
độ đau có từ số 0 đến số 10, tương đương 
với mức độ không đau đến đau dữ dội) cho 
tất cả các vị trí của cơn đau.
2.2.4. Phương pháp xử lý số liệu: Số 
liệu được nhập và xử lý bằng phần mềm 
SPSS 20.0. Số liệu định lượng được trình 
bày dưới dạng trung bình; độ lệch chuẩn. 
Số liệu định tính được trình bày dưới dạng 
tần số; tỷ lệ; ngưỡng đảm bảo độ tin cậy 
được chọn là 0,05.
3. KẾT QUẢ 
Sau khi kiểm tra và xử lý số liệu, có 102 
đối tượng nghiên cứu đủ tiêu chuẩn để đưa 
vào phân tích số liệu, kết quả phân tích số 
liệu cụ thể như sau:
3.1. Đặc điểm chung của đối tượng 
nghiên cứu:
Tuổi trung bình của người bệnh là 51,96 
± 11,9. Tỷ lệ Nam/Nữ = 2,64/1. Người bệnh 
có chỉ số BMI trong khoảng 18,5 ≤ 22,9 
chiếm 73,5%, BMI > 22,9 chiếm 17,6%.
3.2. Triệu chứng tiết niệu
Bảng 1. Tần suất đi tiểu của đối 
tượng nghiên cứu
Tần suất đi tiểu SL TL %
Ban 
ngày
Mỗi giờ 11 10,8
Cứ sau hai giờ 67 65,7
Cứ sau ba giờ 24 23,5
Ban 
đêm
Một lần 36 35,3
Hai lần 58 56,9
Ba lần 8 7,8
Nhận xét: Người bệnh có tần suất đi tiểu 
ban ngày chủ yếu ở mức cứ sau 2 giờ/lần 
(65,7%). Ban đêm, chủ yếu người bệnh thức 
dậy đi tiểu trung bình 2 lần chiếm 56,9%.
Bảng 2. Phân bố tỷ lệ đối tượng nghiên cứu theo triệu chứng tiết niệu
Nội dung
Không 
bao giờ
Thỉnh 
thoảng Đôi khi
Thông 
thường
Luôn 
luôn
SL TL % SL TL % SL TL % SL TL % SL TL %
Tiểu gấp 25 22,5 25 24,5 31 30,4 23 22,5 0 0
Tiểu són, tiểu rỉ 3 2,9 82 80,4 14 13,7 3 2,9 0 0
Tiểu không tự chủ 70 68,6 24 23,5 6 5,9 2 2,0 0 0
Tiểu không hết 24 23,5 29 28,4 31 30,4 18 17,6 0 0
Tiểu buốt 4 3,9 39 38,2 24 23,5 35 34,3 0 0
Tiểu máu 13 12,7 54 52,9 20 19,6 15 14,7 0 0
41
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
30,2
32,3
30,2
7,3
0
5
15
25
35
Đau kho hoạt 
động cố gắng
Đau khi nỗ 
lực vừa phải
Đau khi hoạt 
động cơ bản
Đau khi nghỉ 
ngơi
T
ỷ
 l
ệ
2
25,4
40,2
32,4
0
0
5
15
25
35
45
Hoàn toàn
không
Một chút Trung bình Khá tệ Tồi
T
ỷ
 l
ệ
Nhận xét: 77,5% người bệnh có biểu hiện tiểu gấp, 80,4% người bệnh thỉnh thoảng 
có biểu hiện tiểu són, tiểu rỉ. Hầu hết người bệnh có cảm giác nóng rát, buốt khi đi tiểu 
(96,1%). Trong 102 người bệnh sau tán sỏi niệu quản nội soi ngược dòng có đặt sonde 
JJ thì 89 người bệnh (87,3%) có biểu hiện tiểu máu từ mức độ thỉnh thoảng đến thông 
thường.
Biểu đồ 1. Mức độ ảnh hưởng của triệu chứng tiết niệu đến cuộc sống 
của đối tượng nghiên cứu
Nhận xét: Triệu chứng tiết niệu do sonde JJ gây ra ảnh hưởng đến người bệnh ở mức 
độ trung bình 40,2%, có tới 32,4% người bệnh cho rằng nó khá tệ.
3.3. Đau đớn về thể xác
Bảng 3. Đau thể xác và vị trí đau
Nội dung SL TL %
Đau thể xác
Có 96 94,1
Không 6 5,9
Vị trí đau
Vùng thận trước/bên 43 44,8
Vùng háng 45 46,9
Vùng bàng quang 52 54,2
Vùng thận sau 56 60,4
Vùng dương vật 33 43,8
Nhận xét: Sau khi đặt sonde JJ có tới 
94,1% người bệnh có biểu hiện đau. Đau 
thể xác gặp ở tất cả các vị trí tuy nhiên vị 
trí hay gặp nhất là vùng thận sau (60,4%). 
Trong tổng số 73 nam giới có biểu hiện đau 
thì có 33 người bệnh (43,8%) bị đau vùng 
dương vật.
Biểu đồ 2. Đau thể xác ảnh hưởng đến 
hoạt động thể chất của người bệnh
Nhận xét: Có đến 30,2% người bệnh 
cảm thấy đau ngay cả khi thực hiện các 
hoạt động cơ bản (đi bộ trong nhà, thay 
quần áo), 7,3% người bệnh cảm thấy đau 
ngay cả khi nghỉ ngơi.
42
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
Bảng 4. Phân bố đối tượng nghiên cứu theo tiêu chí đau thể xác
Nội dung
Không 
bao giờ
Thỉnh 
thoảng Đôi khi
Thông 
thường
Luôn 
luôn
SL TL % SL
TL 
% SL
TL 
% SL
TL 
% SL
TL 
%
Đau đớn ảnh hưởng đến 
giấc ngủ 3 3,1 34 35,4 47 49,0 12 12,5 0 0
Đau hoặc khó chịu khi đi 
tiểu 7 7,3 46 47,9 38 39,6 5 5,2 0 0
Mức độ sử dụng thuốc 
giảm đau 5 5,2 33 34,4 52 54,2 6 6,3 0 0
Mức độ ảnh hưởng của 
đau đớn và khó chịu đến 
cuộc sống người bệnh
3 3,1 36 37,5 44 45,8 13 13,5 0 0
Nhận xét: Hầu hết cơn đau hoặc khó chịu ảnh hưởng đến các hoạt động của người 
bệnh trong mức độ thỉnh thoảng và đôi khi.
3.4. Mối quan hệ giữa điểm triệu chứng tiết niệu, đau thực thể với một số yếu tố 
liên quan của người bệnh
Bảng 5. Mối liên quan giữa điểm triệu chứng tiết niệu, đau thực thể 
với một số yếu tố liên quan của người bệnh
Đặc điểm Điểm triệu chứng tiết niệu p
Điểm đau thực 
thể p
Giới
Nam 28,72 ± 5,79
>0,05
18,92 ± 3,26
<0,05
Nữ 28,36 ± 6,13 16,61 ± 3,49
BMI
<18,5 27,78 ± 4,32
>0,05
17,89 ± 3,26
<0,0518,5 ≤ 22,9 28,16 ± 6,03 17,58 ± 3,14
> 22,9 30,94 ± 5,53 21,61 ± 2,85
Nhóm tuổi
18 ≤ 40 30,83 ± 5,49
>0,05
18,76 ± 3,3
>0,0540 ≤ 60 27,69 ± 5,83 17,88 ± 3,41
>60 28,5 ± 5,95 18,93 ± 3,6
Tổng điểm
 trung bình 28,62 ± 5,87 18,36 ± 3,44
Nhận xét: Các yếu tố giới, chỉ số BMI không ảnh hưởng đến điểm triệu chứng tiết niệu. 
Nam giới có điểm đau thực thể cao hơn nữ giới, người có chỉ số BMI càng cao thì đau 
thực thể nhiều (p<0,05). Không có sự khác biệt giữa các nhóm tuổi về triệu chứng tiết niệu 
và đau thực thể. Sau khi đặt sonde JJ tổng điểm lĩnh vực triệu chứng tiết niệu là 28,62 ± 
5,87, đau thể xác là 18,36 ± 3,44.
43
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
4. BÀN LUẬN
Đặt sonde JJ sau phẫu thuật nhằm tránh 
hẹp niệu quản, cản trở lưu thông do phù 
nề hay các mảnh sỏi, tăng khả năng đào 
thải các mảnh sỏi và nó được coi như một 
chuẩn trong điều trị. Tuy nhiên đặt sonde 
JJ sau tán sỏi nội soi ngược dòng thường 
làm tăng các triệu chứng kích thích gây 
ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của 
người bệnh. Các triệu chứng kích thích 
bàng quang, đau vùng hông lưng, khó chịu 
vùng bụng dưới và đái máu là biến chứng 
thường gặp ở những người bệnh có đặt 
ống thông niệu quản, nguyên nhân gây ra 
các triệu chứng đường niệu dưới là do đoạn 
dưới của sonde JJ kích thích vào vùng tam 
giác bàng quang.
Đái tăng lần do kích thích cơ học của 
vòng cuốn sonde JJ trong bàng quang. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi ban ngày 
có 10,8% người bệnh cứ mỗi giờ phải đi 
tiểu và 65,7% người bệnh cứ sau hai giờ 
phải đi tiểu. Phần lớn người bệnh phải thức 
dậy 2 lần trong đêm để đi tiểu (56,9%). 
Theo nghiên cứu của Phạm Quang Vinh 
(2015) 100% NB mang ống thông xuất hiện 
triệu chứng đái tăng lần sau tuần thứ 3 [3]. 
Dan Leibovici MD (2005) có tới 50% người 
bệnh có tần suât tiểu tiện cứ sau hai giờ 
một lần [4]. 
Đái gấp do kích thích trực tiếp của sonde 
JJ vào tam giác hoặc vùng cổ bàng quang. 
Đái khó thường vào cuối bãi và nó được 
cho rằng do sonde JJ quá dài nên đầu dưới 
sonde JJ vắt ngang qua đường giữa hoặc 
cuộn lại thành vòng nhưng không kín (dạng 
chữ C) vì vậy kích thích vào vùng tam giác 
bàng quang. Những thực nghiệm lâm sàng 
đã được công bố gần đây cũng đã xác 
nhận rằng triệu chứng đái gấp và đái khó 
gặp nhiều hơn khi sonde JJ dài hơn và 
nó có ảnh hưởng không tốt tới chất lượng 
cuộc sống của người bệnh. Tiểu không tự 
chủ có đặc điểm liên quan tới đái gấp, cũng 
có thể là hậu quả của sự di chuyển sonde 
JJ qua cổ bàng quang tới cơ thắt niệu đạo. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi chỉ có 
22,5% người bệnh không có biểu hiện tiểu 
gấp, 2,9% người bệnh không có tiểu són, 
tiểu rỉ, 3,9% người bệnh không có cảm giác 
nóng rát khi đi tiểu. Nếu đái tăng lần, người 
bệnh dễ chấp nhận hơn, còn triệu chứng 
tiểu gấp, tiểu buốt rất khó để người bệnh 
chấp nhận. Nó ảnh hưởng nghiêm trọng tới 
chất lượng sống của người bệnh.
Đái máu là do hậu quả của phẫu thuật 
điều trị bệnh hoặc do thủ thuật đặt ống 
thông niệu quản, cũng có thể do sonde 
JJ kích thích niêm mạc đường niệu gây 
chảy máu. Có tới 87,3% người bệnh có 
biểu hiện đái máu từ mức độ thỉnh thoảng 
đến mức thông thường. Phần lớn người 
bệnh có biểu hiện đái máu nhẹ, nước tiểu 
màu hồng chiếm 85,3%. Đái máu thường 
làm người bệnh lo lắng và đôi khi khủng 
hoảng nếu không được tư vấn, giải thích 
rõ. 32,4% người bệnh cảm thấy khá tệ với 
các triệu chứng tiết niệu do sonde JJ mang 
lại. 26,5% người bệnh khá không hài lòng 
với các triệu chứng tiết niệu liên quan đến 
sonde JJ. Tổng điểm triệu chứng tiết niệu 
trung bình là 28,62 ± 5,87. Nam giới và nữ 
giới có điểm triệu chứng tiết niệu tương 
đương nhau (28,36 ± 6,13 và 28,72 ± 5,79). 
Kết quả của chúng tôi chỉ ra người có chỉ 
số BMI > 22,9 có điểm triệu chứng tiết niệu 
cao hơn nhóm BMI <18,5 và 18,5 ≤ 22,9 tuy 
nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa 
thống kê (p>0,05). 
Theo Phạm Quang Vinh (2015) 66% 
người bệnh có biểu hiện đái gấp, 12% 
người bệnh có biểu hiện đái buốt, đa số 
người bệnh xuất hiện đái buốt sau mổ 10 
ngày. Triệu chứng này xuất hiện và tăng 
dần về mức độ cùng với thời gian mang 
ống thông của người bệnh. Có 80% (40 NB) 
bị đái máu đại thể; trong đó 35 NB (70%) 
đái máu nhẹ [3]. Dan Leibovici MD (2005) 
44
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
nghiên cứu thấy triệu chứng phổ biến nhất 
là tiểu buốt, tiểu gấp với mức độ ≥3 lần 
lượt ở mức 40% và 55% người bệnh. Ít 
nhất một đợt tiểu máu vĩ mô đã được báo 
cáo ở 41 (33,8%) vào ngày 30 sau khi đặt 
sonde JJ. Tổng điểm triệu chứng tiết niệu 
trung bình 28,57 ± 7,23 [4]. Trong nghiên 
cứu của Joshi HB và cộng sự (2003) đã cho 
thấy tại tuần 4 sau khi đặt sonde JJ điểm 
triệu chứng tiết niệu của người bệnh là 28,3 
điểm [5]. Các kết quả này tương đương với 
nghiên cứu của chúng tôi. 
Bên cạnh triệu chứng rối loạn tiểu tiện do 
sonde JJ mang lại thì dấu hiệu đau thực thể 
cũng là một dấu hiệu khá phổ biến ở người 
bệnh. Trong nghiên cứu của chúng tôi hầu 
hết là người bệnh có cảm giác đau sau khi 
được đặt sonde JJ tỉ lệ là 94,1%, nam giới 
đau nhiều hơn nữ giới, người có chỉ số BMI 
càng cao thì dấu hiệu đau càng nặng nề 
(p<0,05). Tỉ lệ này tương đương với tác 
giả Phạm Quang Vinh (2015) nghiên cứu 
trên 50 người bệnh đặt sonde JJ, sau 21 
ngày đặt ống thông thì có đến 84% người 
bệnh than phiền vì triệu chứng đau có 
ảnh hưởng đến hoạt động hàng ngày [3]. 
Kristina Karin Dötzer (2016) đã chỉ ra rằng 
có 84,2% người bệnh bị đau thực thể sau 
khi đặt ống thông ở thời điểm 4 tuần [6]. 
Joshi và cộng sự cho thấy hơn 80% người 
bệnh trải qua cơn đau liên quan đến ống 
thông niệu quản ảnh hưởng đến các hoạt 
động hàng ngày [5].
Đau vùng hông lưng có thể là do trào 
ngược nước tiểu lên thận làm tăng áp lực 
bể thận quá mức gây đau, mức độ đau từ 
nhẹ tới trung bình, và nó không liên quan 
tới vị trí vòng cuốn đầu trên sonde JJ nằm 
ở bể thận hay đài trên thận. Đau vùng trên 
mu có thể do vòng cuốn bên dưới sonde 
JJ kích thích khu trú bàng quang, hoặc là 
những dấu hiệu thứ phát của nhiều biến 
chứng kết hợp như đóng cặn vôi hoặc 
nhiễm khuẩn. Trong nghiên cứu này chúng 
tôi nhận thấy tỉ lệ người bệnh đau vùng 
thận sau là cao nhất chiếm tới 60,8% 
người bệnh bị đau sau khi đặt ống thông, 
đứng thứ hai là vị trí vùng bàng quang 
chiếm 54,2%, vùng dương vật cũng là một 
vị trí đau tương đối hay gặp đối với nam 
giới chiếm tới 43,8%. Những tỉ lệ này cũng 
tương đương với nghiên cứu của Kristina 
Karin Dötzer (2016) vị trí đau chủ yếu cũng 
là vị trí thận sau (56,5%), sau đó là vùng 
bàng quang với 49,4%. Đau ở người bệnh 
nam giới cũng được báo cáo, vùng dương 
vật có tỉ lệ đau là 43,3% [6]. Các tỷ lệ đau 
hoặc khó chịu do sonde JJ là 80% và các vị 
trí giải phẫu trong đó cơn đau đã xuất hiện 
là vùng thận sau (60%), vùng bàng quang 
(38%), dương vật (32%) được mô tả bởi 
Joshi HB và cộng sự [5].
Những cơn đau thực thể làm ảnh 
hưởng không ít đến các hoạt động hàng 
ngày của người bệnh từ các hoạt động 
cơ bản cho đến các hoạt động gắng sức 
như: chơi thể thao, mang vác vật nặng...
Có 30,2% người bệnh cảm thấy đau khi 
thực hiện các hoạt động đòi hỏi nỗ lực 
vừa phải, nhưng không phải trong các 
hoạt động cơ bản (đi bộ, lái xe); có 7,3% 
người bệnh cảm thấy đau kể cả khi nghỉ 
ngơi. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến 
các hoạt động thể lực của người bệnh. 
Không những thế cơn đau thường xuyên 
sẽ làm ảnh hưởng đến chất lượng giấc 
ngủ của người bệnh và khiến 6,3% người 
bệnh thường xuyên phải sử dụng thuốc 
giảm đau để giảm bớt sự đau đớn và khó 
chịu do sonde JJ mang lại. Đau đớn và 
khó chịu làm chất lượng cuộc sống của 
người bệnh giảm sút, có tới 45,8% người 
bệnh cho rằng đau đớn và khó chịu ảnh 
hưởng đến cuộc sống của họ ở mức 
thông thường, 13,5% người bệnh luôn 
luôn bị ảnh hưởng. Đau đớn và khó chịu 
mà người bệnh gặp phải được cho là ống 
thông đã làm tăng áp lực bể thận và kích 
45
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
thích bàng quang. Những đau đớn và khó 
chịu này gây ảnh hưởng rất nhiều đến 
hoạt động thể chất hàng ngày cũng như 
chất lượng giấc ngủ của người bệnh, tăng 
việc phải sử dụng thuốc giảm đau. Tổng 
điểm ở miền đau đớn thể xác trong nghiên 
cứu của chúng tôi là 18,4 ± 3,4. Mức điểm 
này tương đương với nghiên cứu của 
Mohamed M. Elsaadany (2014) tổng điểm 
miền đau đớn thể xác là 19 (thấp nhất là 
9 điểm, cao nhất là 27 điểm) [7]. Joshi HB 
và cộng sự cho kết quả 22,8 điểm tại thời 
điểm tuần thứ 4 sau khi đặt sonde JJ [5]. 
Những kết quả này cho thấy sonde JJ 
sau nội soi niệu quản ngược dòng tán sỏi 
gây cho người bệnh nhiều tác động không 
mong muốn, hay gặp chủ yếu là triệu chứng 
rối loạn tiểu tiện, đái máu, đau đớn thể xác. 
Để giảm thiểu những ảnh hưởng bất lợi 
trên thì trong công tác chăm sóc người điều 
dưỡng nên hướng dẫn người bệnh có chế 
độ nghỉ ngơi hợp lý, uống nhiều nước liên 
tục trong ngày, tránh vận động nhiều và quá 
sức, hoạt động thể dục thể thao nhẹ nhàng.
5. KẾT LUẬN
Điểm trung bình triệu chứng tiết niệu 
28,62 ± 5,87 (tổng 54 điểm ). Hầu hết người 
bệnh có biểu hiện đái máu từ mức độ thỉnh 
thoảng đến mức thông thường (87,3%). 
32,4% người bệnh cảm thấy khá tệ với các 
triệu chứng tiết niệu mà họ phải trải qua. 
Điểm trung bình đau thực thể 18,36 ± 3,44 
(tổng 27 điểm ), người bệnh có cảm giác 
đau sau khi đặt sonde JJ chiếm tới 94,1%, 
vị trí đau hay gặp nhất là vùng thận sau 
chiếm tới 60,8%. 54,2% người bệnh đôi khi 
phải sử dụng đến thuốc giảm đau, 96,9% 
người bệnh cho rằng đau đớn và khó chịu 
sau khi đặt sonde JJ ảnh hưởng đến cuộc 
sống của họ. Sonde JJ sau tán sỏi niệu 
quản nội soi ngược dòng là nguyên nhân 
của nhiều tác dụng không mong muốn, nó 
ảnh hưởng tiêu cực đến tình trạng chung 
và chất lượng cuộc sống của người bệnh. 
Với kết quả nghiên cứu trên, chúng tôi 
đưa ra khuyến nghị trong công tác chăm 
sóc người bệnh đặt sonde JJ, nhân viên y 
tế nên tư vấn cho người bệnh những biện 
pháp khắc phục, giảm thiểu những ảnh 
hưởng bất lợi của sonde mang lại. Hơn 
nữa cần phải đưa ra các chương trình can 
thiệp nâng cao chất lượng cuộc sống cho 
người bệnh sau tán sỏi niệu quản nội soi 
ngược dòng có đặt sonde JJ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Quán Anh (2001), Sỏi niệu quản, 
Bệnh học ngoại khoa, Nhà xuất bản Y học, 
Hà Nội, 140-145.
2. Trần Văn Hinh (2013), Các phương 
pháp chẩn đoán và điều trị bệnh sỏi tiết 
niệu. Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, tập 1.
3. Phạm Quang Vinh và Nguyễn Phú 
Việt (2015). Nghiên cứu ảnh hưởng của 
sonde JJ đến bệnh nhân sau nội soi niệu 
quản ngược dòng tán sỏi. Tạp chí y - dược 
học quân sự, 5, 141-146.
4. Dan Leibovici MD, Amir Cooper MD, 
Arie Lindner MD et al (2005). Ureteral 
Stents: Morbidity and Impact on Quality of 
Life. Original Articles. 7, 491-494.
5. Joshi HB, Newns N, Stainthorpe 
A (2003). Ureteral stent symptom 
questionnaire: development and validation 
of a multidimensional quality of life measure. 
American Urological Association. 169, 
1060-1064.
6. Kristina Karin Dötzer (2016). 
Deutschsprachige Validierung des Ureteral 
Stent Symptom Questionnaire. Doctor of 
medicine thesis, Regensburg University .
7. Mohamed M. Elsaadany, Ahmed R. 
El-Nahas et al (2014). Validation of the 
Arabic linguistic version of the Ureteral 
Stent Symptoms Questionnaire. Urology, 
12, 290-293.

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_anh_huong_cua_sonde_jj_den_nguoi_benh_sau_tan_soi.pdf