Nghệ thuật âm nhạc truyền thống tại Quảng Nam - Đà Nẵng

Âm nhạc truyền thống Quảng Nam - Đà Nẵng mang đặc trưng của nghệ thuật âm nhạc cổ

truyền Việt Nam cũng như của phương Đông. Vượt qua thử thách của không gian và thời gian, những

loại hình âm nhạc truyền thống tại đây vẫn giữ được những nét riêng, nét độc đáo. Đó là vốn quý, là di

sản văn hóa phi vật thể của bao thế hệ cha ông đã gìn giữ và lưu truyền. Trách nhiệm bảo tồn và phát

huy giá trị của những loại hình âm nhạc truyền thống này là vấn đề cấp thiết đặt ra không chỉ cho ngành

văn hóa mà còn cho cả xã hội. Bài viết này sẽ tập trung làm rõ lịch sử, bản sắc và giá trị của nghệ thuật

âm nhạc truyền thống Quảng Nam - Đà Nẵng; đồng thời, đề xuất một số giải pháp nhằm bảo tồn và phát

huy những giá trị của nghệ thuật âm nhạc truyền thống tại đây.

pdf 7 trang phuongnguyen 160
Bạn đang xem tài liệu "Nghệ thuật âm nhạc truyền thống tại Quảng Nam - Đà Nẵng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghệ thuật âm nhạc truyền thống tại Quảng Nam - Đà Nẵng

Nghệ thuật âm nhạc truyền thống tại Quảng Nam - Đà Nẵng
UED Journal of Social Sciences, Humanities & Education – ISSN 1859 - 4603 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI, NHÂN VĂN VÀ GIÁO DỤC 
 Tạp chí Khoa học Xã hội, Nhân văn & Giáo dục, Tập 7, số 3 (2017), 77-83 | 77 
 * Liên hệ tác giả 
Tăng Chánh Tín 
Trường Đại học Sư phạm - Đại học Đà Nẵng 
Email: tctin@ued.udn.vn 
Nhận bài: 
 22 – 06 – 2017 
Chấp nhận đăng: 
 25 – 09 – 2017 
NGHỆ THUẬT ÂM NHẠC TRUYỀN THỐNG TẠI QUẢNG NAM - ĐÀ NẴNG 
Tăng Chánh Tín 
Tóm tắt: Âm nhạc truyền thống Quảng Nam - Đà Nẵng mang đặc trưng của nghệ thuật âm nhạc cổ 
truyền Việt Nam cũng như của phương Đông. Vượt qua thử thách của không gian và thời gian, những 
loại hình âm nhạc truyền thống tại đây vẫn giữ được những nét riêng, nét độc đáo. Đó là vốn quý, là di 
sản văn hóa phi vật thể của bao thế hệ cha ông đã gìn giữ và lưu truyền. Trách nhiệm bảo tồn và phát 
huy giá trị của những loại hình âm nhạc truyền thống này là vấn đề cấp thiết đặt ra không chỉ cho ngành 
văn hóa mà còn cho cả xã hội. Bài viết này sẽ tập trung làm rõ lịch sử, bản sắc và giá trị của nghệ thuật 
âm nhạc truyền thống Quảng Nam - Đà Nẵng; đồng thời, đề xuất một số giải pháp nhằm bảo tồn và phát 
huy những giá trị của nghệ thuật âm nhạc truyền thống tại đây. 
Từ khóa: nghệ thuật; âm nhạc truyền thống; Quảng Nam - Đà Nẵng; bản sắc; giá trị. 
1. Đặt vấn đề 
Một trong những con đường đi thẳng vào tâm hồn 
con người là âm nhạc. Chính loại hình nghệ thuật được 
diễn tả bằng âm thanh này đã góp phần quan trọng trong 
việc giữ gìn mạch nguồn truyền thống của văn hoá dân 
tộc qua bao thăng trầm của lịch sử. Các loại hình âm 
nhạc truyền thống với sức sống mãnh liệt của mình đã 
luôn đồng hành cùng dân tộc, vượt qua bao thử thách, 
những âm mưu đồng hoá của ngoại bang để giữ gìn bản 
sắc và phát huy giá trị ngay ở thời đại công nghiệp hoá, 
hiện đại hoá hiện nay. 
Nghệ thuật âm nhạc truyền thống Quảng Nam - Đà 
Nẵng nằm trong tổng thể văn nghệ dân gian xứ Quảng, 
được hình thành và phát triển gắn liền với quá trình định 
cư, lập nghiệp của người Việt trên mảnh đất này. Đa 
phần các thể loại âm nhạc truyền thống ra đời gắn liền 
với quá trình lao động sản xuất, chinh phục thiên nhiên 
và giao lưu cộng cảm của con người. Trong thời đại hội 
nhập và phát triển hiện nay, yêu cầu giữ gìn, bảo tồn và 
phát huy những giá trị văn hóa truyền thống, trong đó có 
nghệ thuật âm nhạc là vấn đề cấp thiết. 
2. Âm nhạc truyền thống tại Quảng Nam - Đà Nẵng 
Âm nhạc truyền thống là các thể loại âm nhạc được 
hình thành, tồn tại và nuôi dưỡng gắn liền với quá trình 
lịch sử của mỗi quốc gia, dân tộc; tồn tại không tách rời 
cuộc sống nhân dân, có tính đa dạng về thể loại. Âm 
nhạc truyền thống Việt Nam bao gồm bộ phận âm nhạc 
trong dân gian và bộ phận âm nhạc chuyên nghiệp 
(được hiểu là bộ phận âm nhạc cung đình). 
Xứ Quảng là mảnh đất sản sinh và nuôi dưỡng 
nhiều loại hình âm nhạc truyền thống. Tính cách chân 
thành, bộc trực của cư dân chốn “đầu biển cuối sông” 
cùng sự sáng tạo nghệ thuật, ý thức bảo tồn văn hoá dân 
tộc đã khiến cho mảnh đất này trở thành một trong 
không nhiều không gian văn hoá tạo dựng được một bản 
sắc riêng trong nghệ thuật âm nhạc truyền thống. 
Âm nhạc truyền thống Quảng Nam - Đà Nẵng nằm 
trong tổng thể âm nhạc truyền thống Nam Trung Bộ, mà 
cụ thể hơn là âm nhạc truyền thống xứ Quảng. Sự hình 
thành, tồn tại và phát triển của nghệ thuật âm nhạc 
truyền thống tại đây tất nhiên không thể tách rời khỏi 
tiến trình lịch sử của mảnh đất này. 
Hiện nay, vẫn chưa có một tài liệu nào đưa ra mốc 
thời gian cụ thể cho sự xuất hiện của âm nhạc truyền 
thống tại Quảng Nam - Đà Nẵng. Tuy nhiên, những dấu 
tích của nền văn hoá Sa Huỳnh được tìm thấy tại đây 
 Tăng Chánh Tín 
78 
với một vài di vật có thể là nhạc cụ đã chứng minh từ rất 
sớm, con người tại vùng đất này đã biết chế tác và sử 
dụng nhạc cụ trong cuộc sống và các hoạt động tín 
ngưỡng, tâm linh. 
So với các địa phương khác, Quảng Nam - Đà 
Nẵng có một lịch sử khá thăng trầm. Trước khi thuộc về 
Đại Việt, nơi đây từng là đất của Chămpa. Theo sách 
Đại Nam nhất thống chí, quyển 5, thì Quảng Nam - Đà 
Nẵng “nguyên xưa là đất Việt Thường Thị, đời Tần (246 
-207 TCN) thuộc về Tượng quận, đời Hán (205-1 TCN) 
thuộc quận Nhật Nam. Hán thư chép rằng: quận Nhật 
Nam có huyện Lư Dung và Châu Ngô. Ở Lư Dung có 
bến nước Lượm Vàng, thế truyền tại sông Tranh và 
sông Tu thuộc đạo Trà Nô phủ Thăng Bình thường có 
sản xuất vàng” [7, tr.15]. Đất Lư Dung bấy giờ nay là 
Quảng Nam, trong đó bao gồm cả phần đất Đà Nẵng. 
Lúc bấy giờ, Quảng Nam - Đà Nẵng được xem là 
trung tâm của vương quốc Chămpa. Trong suốt quá 
trình tồn tại và phát triển của mình, Chămpa đã xây 
dựng một nền văn hoá bản địa độc đáo, tiếp thu ảnh 
hưởng của văn hoá Ấn Độ, đồng thời có sự giao lưu với 
văn hoá Trung Hoa, Đại Việt. Chămpa đã để lại một nền 
văn hoá nghệ thuật đặc sắc. Trong đó, âm nhạc Chămpa 
được đánh giá là một nền âm nhạc khá phát triển. Đặc 
tính của âm nhạc Chămpa là chất thiêng nghiêng về triết 
lý nội suy, cố gắng chắt lọc cái tinh tế nhất của con 
người để tìm hiểu những bí mật tâm linh. Âm nhạc 
truyền thống Chămpa là hệ thống những làn điệu dân 
ca, dân vũ, nhạc cụ đa dạng. 
Âm nhạc Chămpa được xem như cơ sở ban đầu 
quan trọng của âm nhạc truyền thống Quảng Nam - Đà 
Nẵng. Trước khi thuộc về Đại Việt, và cả những thế kỉ 
tiếp sau, chắc hẳn tại Quảng Nam - Đà Nẵng đã có một 
nền âm nhạc truyền thống độc đáo mang dấu ấn 
Chămpa. Không thể phủ nhận vai trò quan trọng và ảnh 
hưởng to lớn của âm nhạc Chămpa đến sự định hình và 
hoàn thiện của âm nhạc truyền thống tại đây ở thời gian 
sau, khi âm nhạc Việt ở phía Bắc truyền vào theo dấu 
chân của đoàn người khai phá phương Nam. 
Năm 1471, vua Lê Thánh Tông thân chinh đánh thành 
Trà Bàn, bắt Trà Toàn, lấy đất Chămpa lập nên đạo Thừa 
tuyên Quảng Nam gồm 3 phủ là Thăng Hoa, Tư Nghĩa và 
Hoài Nhơn. Phần đất phía Bắc phủ Thăng Hoa cho đến sát 
đèo Hải Vân, bao gồm cả Đà Nẵng, thuộc huyện Điện Bàn, 
phủ Triệu Phong của Thuận Hoá [7, tr.12]. 
Với nền tảng âm nhạc Chămpa từ trước đó, từ thế 
kỉ XV, khi những đoàn lưu dân từ đồng bằng Thanh - 
Nghệ - Tĩnh vượt đèo Hải Vân vào khai cư lập nghiệp 
ngày càng đông thì những thành tựu âm nhạc cổ truyền 
người Việt đã theo chân họ vào Nam. 
Quảng Nam - Đà Nẵng thời ấy được xem như vị trí 
‘tiền tiêu”, “trạm trung chuyển”, “bàn đạp” quan trọng 
cho các luồng di dân từ Bắc bộ và Bắc Trung bộ tiến 
vào mở cõi phương Nam nên cư dân xứ Quảng có ý 
thức rất cao trong việc giữ gìn những vốn quý của văn 
hoá Đại Việt, họ đã “lận lưng” không ít những làn điệu 
dân ca, câu hò, điệu hát, những điệu chèo, câu ví giặm 
thân thương mà mẹ, bà họ đã từng hát ru con, hay 
những ấn tượng khó phai của câu hát cửa đình ở buổi 
hội làng. Nơi đất là quê người, nỗi niềm thương nhớ cố 
hương đã được họ gửi gắm qua những câu ca dao, dân 
ca chứa chan tình cảm: 
“Tới đây lạ cảnh lạ quê 
Anh em cũng lạ bốn bề người dưng 
Người thương không thấy người thương 
Quanh đi quẩn lại nhớ cố hương thêm sầu” 
Có thể nói, các thể loại dân ca, hò, vè, các điệu lý, 
hát bài chòi đã dần hình thành và phát triển phổ biến 
tại xứ Quảng vào những thế kỉ XV - XVI khi những 
lưu dân dần ổn định cuộc sống tại vùng đất mới. Từ 
vốn liếng âm nhạc cổ truyền mang theo, kết hợp với 
những yếu tố âm nhạc Chămpa từ trước đó như những 
điệu dân ca, dân vũ, những nhạc cụ, đã thành tạo nên 
một nghệ thuật âm truyền thống có bản sắc riêng của 
Quảng Nam - Đà Nẵng. Các điệu lý, câu hò, điệu hát, 
sau này là các nghệ thuật tuồng, hát bài chòi, bả trạo, 
sắc bùa... đều có chất đậm đà, chứa chan tình cảm và 
mang âm điệu, tiết tấu đặc sắc xứ Quảng, vừa có cái 
vui tươi, rộn rã của không khí lao động ngày mùa, vừa 
có cái sâu lắng, thiết tha của tình yêu đôi lứa hay trăn 
trở cho cuộc sống mưu sinh. 
Tại các lễ hội đình làng, lễ cầu ngư, cầu an đầu năm 
thường diễn ra các hoạt động sinh hoạt âm nhạc cổ 
truyền sôi nổi, tạo nên không khí sôi nổi, háo hức của 
toàn dân “Rủ nhau xem hội bài chòi - Để cho con khóc 
đến lòi rún ra”. Có thể nói, thế kỉ XVIII, XIX là thời 
điểm phát triển mạnh mẽ của nhiều thể loại âm nhạc 
truyền thống tại Quảng Nam - Đà Nẵng. Điểm đặc biệt 
của âm nhạc truyền thống trong tổng thể âm nhạc đất 
Quảng đó là sự hoà quyện sâu sắc giữa các yếu tố âm 
 ISSN 1859 - 4603 - Tạp chí Khoa học Xã hội, Nhân văn & Giáo dục, Tập 7, số 3 (2017), 77-83 
 79 
nhạc dân gian và cung đình bác học, làm nên một sức 
sống lâu bền trong nhân dân. Một trong những minh 
chứng sinh động cho nhận định trên chính là sự lên ngôi 
và phát triển mạnh mẽ của nghệ thuật tuồng và hát bài 
chòi. Đặc biệt, nghệ thuật tuồng thời kỳ này chịu ảnh 
hưởng khá lớn của tuồng cung đình Huế nên đã biết 
khai thác sâu sắc những yếu tố cung đình như âm nhạc, 
trang phục, điệu bộ, lời văn, tuồng tích bên cạnh những 
yếu tố dân gian. 
Từ cuối thế kỉ XIX, đất nước chiến tranh, loạn lạc 
triền miên. Ngày 01/9/1858, thực dân Pháp nổ súng xâm 
lược Đà Nẵng, mở đầu cho quá trình xâm lăng và bình 
định nước ta. Các phong trào kháng chiến, cách mạng 
nổ ra rồi lần lượt thất bại. Trong không khí ngột ngạt 
của kiếp nô lệ, nhiều thành tựu âm nhạc truyền thống bị 
mai một nhưng cũng có không ít những thể loại âm nhạc 
cổ truyền đã kịp thời phản ánh ý chí đấu tranh của nhân 
dân, trở thành một vũ khí lợi hại chống kẻ thù. 
Sau năm 1975, nhất là sau năm 1986, với chính 
sách đổi mới của Đảng và Nhà Nước, các thế hệ lãnh 
đạo Quảng Nam - Đà Nẵng đã quan tâm đến việc bảo 
tồn, sưu tầm và phát huy các giá trị của nghệ thuật âm 
nhạc truyền thống của thành phố với vai trò tiên phong 
của Hội văn nghệ dân gian và các nhạc sĩ, nghệ sĩ, nhà 
nghiên cứu lão thành. Hiện nay, đứng trước bối cảnh hội 
nhập, đổi mới của đất nước, nghệ thuật âm nhạc truyền 
thống đang đối mặt với không ít thách thức để có thể 
tồn tại và phát triển. 
3. Bản sắc và giá trị của nghệ thuật âm nhạc 
truyền thống Quảng Nam - Đà Nẵng 
3.1. Bản sắc và các thể loại 
Quảng Nam - Đà Nẵng là một trong số ít những địa 
phương còn bảo lưu được một nền âm nhạc truyền thống 
có giá trị. Nằm trong tổng thể văn hóa xứ Quảng, nghệ 
thuật âm nhạc truyền thống tại đây phong phú về thể loại, 
đa dạng về phong cách và có thể phân loại thành các 
nhóm chính là các điệu lý, hò, vè; tuồng, bài chòi và các 
thể loại gắn với tín ngưỡng, lễ hội truyền thống. 
Nghệ thuật âm nhạc truyền thống Quảng Nam - Đà 
Nẵng, xét cho cùng cũng hướng tới mục đích phản ánh 
cuộc sống lao động với tinh thần lạc quan, yêu đời và 
tin tưởng vào tương lai của người dân. Những câu hò, 
điệu lý, bài chòi, vè... thường vang lên trên những cánh 
đồng, bãi biển với khí thế hăng say lao động, vượt lên 
khó khăn với những sắc màu rất đa dạng. Cùng với đó 
là những chủ đề về tình yêu đôi lứa, tình yêu với quê 
hương đất nước, xóm làng thân thuộc. 
 Nghệ thuật âm nhạc truyền thống đã phản ánh 
được bản sắc của một vùng đất có trầm tích văn hóa lâu 
đời, chuyển tải tình đất, tình người xứ Quảng vào trong 
các thể loại âm nhạc truyền thống. Điều đó góp phần 
làm nên nét đặc trưng của “Đất Quảng Nam chưa mưa 
đà thấm - Rượu Hồng đào chưa nhấm đà say”. 
Ngoài ra, âm nhạc truyền thống cũng mang sứ 
mệnh lịch sử ghi lại cuộc đấu tranh kiên cường, anh 
dũng của nhân dân Quảng Nam - Đà Nẵng trong những 
cuộc kháng chiến trường kỳ. Đó là niềm cổ vũ, động 
viên lớn lao với mỗi người dân, vững niềm tin vào ngày 
mai chiến thắng. 
- Các điệu lý 
Quảng Nam Đà Nẵng là xứ sở của nhiều điệu lý. 
Nếu như các điệu lý ở đồng bằng sông Cửu Long 
thường mang tính vui nhộn, tươi vui thể hiện sự phóng 
khoáng, cởi mở của người Nam bộ thì các điệu lý xứ 
Quảng thường đa dạng trong việc biểu hiện các sắc thái 
tình cảm, từ trữ tình, duyên dáng đến hài hước, trào lộng 
rồi trong sáng, vui tươi. Các điệu lý thường không mang 
tiết tấu, nhịp điệu của lao động mà có độ dài ngắn khác 
nhau thể hiện trọn vẹn các cung bậc cảm xúc. Chúng ta 
có thể nhắc đến một số điệu lý quen thuộc của Quảng 
Nam - Đà Nẵng như lý năm canh, lý con sáo, lý chơi 
xuân, lý vọng phu... với âm điệu trữ tình; lý Đồng Nai, 
lý con quạ, lý ngựa ô... vui nhộn hay lý thương nhau, lý 
thiên thai, lý thượng du mượt mà trong trẻo. 
 - Hò 
Các điệu hò trong gia tài âm nhạc truyền thống của 
xứ Quảng khá phong phú. Bao gồm các điệu hò trên 
cạn, hò trên sông nước, hò khoan đối đáp và một số điệu 
hò theo ngành nghề. Các điệu hò thường bắt nguồn từ 
các câu thơ lục bát, gồm có hai phần là phần Xướng: 
dành cho người có giọng tốt và phần Xô: phần của tập 
thể, hưởng ứng theo khi lao động. Điệu hò xứ Quảng 
được nhiều người ưa thích chính là Hò ba lý. 
Hò khoan đối đáp cũng là một đặc sản âm nhạc cổ 
truyền xứ Quảng, xuất phát từ lối hát giao duyên nam nữ 
đã có cơ sở tự lâu đời. Hò khoan đối đáp thường diễn ra 
khi có dịp tụ hội đông người, thường là khi giã gạo, giã 
vôi, chèo thuyền, kéo lưới... Một đêm hát hò khoan 
 Tăng Chánh Tín 
80 
thường có ba chặng là hát chào, chặng vào cuộc (gồm hát 
đố, hát đối, hát xạo, hát nhân ngãi) và chặng giã bạn. 
Bên cạnh đó, mỗi ngành nghề cũng có những câu hò 
riêng của mình như hò đốn củi, hò kéo chài, hò đan lưới... 
- Đồng dao 
Một thể loại khá độc đáo gắn liền với sinh hoạt của 
trẻ em xứ Quảng chính là đồng dao. Ở nông thôn, mỗi 
khi lên năm, lên bảy, trẻ em thường hát những câu đồng 
dao để vui chơi với nhau. Tuổi thơ của các em gắn liền 
với những khúc đồng dao được cất lên trong những buổi 
chăn trâu, cắt cỏ hay thả diều, bắt cá cùng lũ bạn, hay 
trong những đêm trăng sáng tụ tập dưới mái hiên nhà 
chơi trốn tìm, nhảy dây... Theo Võ Văn Hoè trong “Tập 
tục xứ Quảng theo một vòng đời” thì “Đồng dao có khi 
do người mẹ, người chị, người bà sáng tác, nhưng nhiều 
trường hợp do trẻ em tự sáng tác những bài hát riêng 
cho lứa tuổi của mình. Xét về mặt thể loại, đồng dao 
thuộc những bài ca dân gian” [2, tr.75]. 
Điểm nổi bật của hát đồng dao là tính diễn xướng, 
cộng đồng rất cao, vừa hát vừa vỗ tay theo nhịp. Để phù 
hợp với tâm lý, tâm hồn của trẻ thơ, lời ca của đồng dao 
thường ngắn gọn, dễ hiểu, dễ thuộc. Đồng dao thường 
gắn liền với những trò chơi dân gian như kéo cưa lừa 
xẻ, rồng rắn lên mây. Nội dung của lời đồng dao khá đa 
dạng nhưng đơn giản, cung cấp những tri thức, thế giới 
quan tự nhiên như cây cỏ, sông ngòi, vạn vật, phê phán 
thói hư tật xấu trong làng trong xóm, ca ngợi việc làm 
tốt đẹp. 
- Hát ru 
Mỗi một giai đoạn của trẻ thơ từ khi còn ẵm ngửa 
tới lúc bập bẹ tập nói, tập đi, những câu hát ru luôn theo 
sát bước trưởng thành của trẻ. Hát ru xứ Quảng chuyên 
chở một nền văn hoá đậm đà của xứ sở, chất chứa tâm 
tư, tình cảm và cả những hoài mong cho tương lai con 
trẻ. Từ trong câu hát ru, một tình yêu quê hương nồng 
cháy đã tự nhiên truyền vào đứa trẻ. 
Về phần âm điệu, hát ru con của Quảng Nam - Đà 
Nẵng âm điệu dứt khoát, mạnh mẽ, nhiều chỗ nhấn rõ 
nét hơn so với các địa phương khác. Mặc dù không phải 
là một thể loại âm nhạc chuyên nghiệp nhưng hát ru xứ 
 ... g của Quảng Nam 
Đà Nẵng gắn liền với các tên tuổi của danh nhân Nguyễn 
Hiển Dĩnh (1853-1926), NSND Nguyễn Nho Tuý, NSND 
Nguyễn Lai, NSND Nguyễn Phẩm, NSND Trần Đình 
Sanh, Nhà soạn tuồng Tống Phước Phổ 
- Nghệ thuật bài chòi 
 Bài chòi là sản phẩm tinh thần độc đáo của cư dân 
miền Nam Trung Bộ. Đây là một hình thức sinh hoạt 
vui chơi, vừa đánh bài, vừa ca hát rất phổ biến trong 
nhân dân mỗi độ Tết đến xuân về. Có thể xếp bài chòi 
vào thể loại dân ca sinh hoạt. 
Bài chòi đầu tiên ra đời để thoả mãn nhu cầu vui chơi, 
giải trí của người nông dân sau những ngày làm việc vất 
vả. Về sau, khi thường thức thẩm mĩ của nhân dân được 
nâng cao, người ta đã lồng ghép các làn điệu dân ca vào trò 
chơi để thêm phần hấp dẫn, họ đã “biến cuộc đỏ đen thành 
một trò chơi văn chương tao nhã” [5, tr.26]. 
Nội dung lời ca của bài chòi khá phong phú, từ ca 
ngợi tình yêu lao động, ca ngợi quê hương đất nước, ca 
ngợi nhân nghĩa, đức hạnh, tình yêu lứa đôi đến thể hiện 
lập trường đấu tranh giai cấp, chống xâm lược, tình yêu 
đối với quê hương xứ Quảng, với những xóm làng yên 
vui, trù phú. 
- Các thể loại âm nhạc gắn với tín ngưỡng, lễ hội 
truyền thống 
Đời sống tín ngưỡng, tâm linh của cư dân Quảng 
Nam - Đà Nẵng rất phong phú. Đó là sự hoà quyện độc 
đáo giữa tín ngưỡng truyền thống của người Việt từ phía 
bắc truyền vào với nền văn hoá bản địa Chăm cùng 
những yếu tố biển độc đáo. Điều đó làm cho Quảng 
Nam - Đà Nẵng là vùng đất có nhiều lễ hội, sinh hoạt tín 
ngưỡng, tâm linh gắn chặt với cuộc sống con người. 
Trong các lễ hội, sinh hoạt đó, có một số loại hình âm 
nhạc cổ truyền không thể thiếu, trở thành một phần quan 
trọng. Hát bả trạo và hát sắc bùa là một trong số đó. 
- Hát bả trạo 
 ISSN 1859 - 4603 - Tạp chí Khoa học Xã hội, Nhân văn & Giáo dục, Tập 7, số 3 (2017), 77-83 
 81 
Hát bả trạo là hình thức diễn xướng dân gian tổng 
hợp gắn với các hình thức sinh hoạt tín ngưỡng tâm linh 
của cư dân ven biển miền Trung. Tại Quảng Nam - Đà 
Nẵng, thể loại âm nhạc cổ truyền này thường được tổ 
chức tại lễ tế cô hồn và đặc biệt là lễ hội cầu Ngư gắn 
với tục thờ cá Ông. Theo cách lí giải của những ngư dân 
cao tuổi thì bả có nghĩa là bạn; còn trạo có nghĩa là 
chèo; bả trạo có nghĩa là bạn chèo. Cũng có một cách lí 
giải khác, bả tức là cầm chắc, còn trạo có nghĩa là mái 
chèo; bả trạo có nghĩa là cầm chắc mái chèo. 
Trước khi hát bả trạo thường có phần đọc văn tế, 
các điệu hát bả trạo thường kết hợp giữa các điệu 
Nam ai, ca Huế, hát bội với lời văn lục bát, phú... 
được chọn lọc kĩ từng câu từ để có thể gây xúc động 
cho người xem. Các điệu múa bả trạo là sự hình 
tượng hoá các sinh hoạt thường nhật của ngư dân như 
giăng câu, bủa lưới, chèo thuyền lúc sóng êm hay lúc 
có phong ba bão tố. 
- Hát sắc bùa 
Đầu năm nghe hát sắc bùa đã trở thành một nét đẹp 
trong ngày Tết truyền thống xứ Quảng. Đây là một hình 
thức nghệ thuật âm nhạc cổ truyền dân gian rất phổ biến 
tại Nam Trung Bộ và được nhân dân yêu thích từ đầu 
thế kỉ XX. 
Giải thích tên gọi “Sắc bùa”, nhạc sĩ Trần Hồng 
trong tác phẩm “Hát sắc bùa”, đã lí giải “Sắc” là lệnh 
của nhà vua ban ra, như ban chức tước cho quân thần, 
“Bùa” là lá bùa để trừ ma quỷ, chúc mừng năm mới an 
khang thịnh vượng, “Sắc bùa” nghĩa là một sắc lệnh 
ban ra bằng lá bùa viết, vẽ trên giấy nhằm trừ ma yểm 
quỷ, độ trì, hộ mạng cho con cháu, cầu chúc cho gia 
đình luôn mạnh khoẻ, thịnh vượng [3]. 
Một gánh hát sắc bùa thường cha truyền con nối. 
Hát sắc bùa gồm rất nhiều bài chúc phù hợp với mỗi gia 
đình, từ nghề biển, nghề mộc, nghề nuôi tằm dệt vải đến 
nghề rèn, thầy thuốc, nghề nông... làm vừa lòng tất cả 
gia chủ. Đội hát sắc bùa thường được gia chủ thưởng 
tiền, bánh trái, đầu heo để chúc mừng. Hát sắc bùa là 
một hình thức âm nhạc cổ truyền độc đáo, tổng hợp của 
âm nhạc, trang phục, lời hát, lời chúc, bùa chú... với ý 
nghĩa tốt đẹp gắn liền với ngày Tết truyền thống của dân 
tộc. 
3.2. Giá trị 
Một trong những chiếc cầu nối tâm hồn con người 
lại với nhau chính là âm nhạc. Âm nhạc như một tri kỉ, 
nơi con người có thể tìm thấy một phần tâm hồn mình 
hiện hữu trong từng lời ca tiếng nhạc. Với nghệ thuật 
âm nhạc truyền thống, để có thể hiểu, để gắn bó với nó 
đòi hỏi ở con người một sự đam mê khám phá, tìm hiểu 
không ngừng. Trong đó, giá trị về văn hoá, nghệ thuật 
được xem là kênh giao tiếp hữu hiệu của một người khi 
bước vào môi trường của âm nhạc cổ truyền. 
Không thể phủ nhận giá trị to lớn về văn hoá, lịch sử 
của các thể loại âm nhạc truyền thống. Đến với âm nhạc 
truyền thống tức là đến với những tinh hoa văn hoá nghệ 
thuật của dân tộc. Âm nhạc truyền thống Quảng Nam - 
Đà Nẵng không chỉ là tấm gương phản ánh tiến trình lịch 
sử của mảnh đất quê hương qua những cung bậc thăng 
trầm mà còn là cội nguồn chuyển tải bao tình cảm, tâm 
tư, quan niệm sống của các bậc tiền nhân. Những sự kiện 
lịch sử quan trọng gắn liền với mảnh đất này như sự kiện 
Pháp nổ súng xâm lược ngày 01/9/1858, phong trào 
chống thuế ở Trung kì năm 1908 hay cuộc vận động 
Duy Tân những năm đầu thế kỉ XX đã được phản ánh 
sinh động qua nhiều câu ca dao, điệu hò, điệu lý ở xứ 
Quảng. Nhiều vở dân ca kịch, bài chòi, tuồng trong thời 
kỳ kháng chiến của Đoàn Tuồng giải phóng Quảng Nam 
(nay là nhà hát tuổng Nguyễn Hiển Dĩnh) đã thể hiện 
tinh thần yêu nước và ý chí đấu tranh bất khuất của nhân 
dân Quảng Nam - Đà Nẵng. 
Nghệ thuật âm nhạc truyền thống ở đây vốn có nền 
tảng vững chắc qua quá trình hình thành và phát triển, 
chung tay của nhiều thế hệ. Nó gắn liền với chặng 
đường phát triển về nam của âm nhạc truyền thống theo 
chân những người lưu dân Việt, sự tiếp thu ảnh hưởng 
của âm nhạc Chămpa trên cơ sở văn hoá bản địa. Lễ hội 
cầu ngư của cư dân ven biển gắn với loại hình hát bả 
trạo, hò đưa linh được xem là sự thể hiện sinh động của 
sự giao lưu giữa văn hóa, âm nhạc giữa người Việt với 
tín ngưỡng của người Chăm bản địa. 
Cùng với quá trình lập làng, lập ấp và định cư của 
những bậc tiền bối hữu công, các loại hình âm nhạc 
truyền thống tại Quảng Nam - Đà Nẵng đã luôn theo sát 
và phản ánh sinh động nhịp sống của nhân dân. Những 
nét đẹp trong văn hoá Việt như trọng tình, trọng phụ nữ, 
trọng văn, yêu lao động sản xuất, lạc quan yêu đời... đã 
được thể hiện rõ nét trong âm nhạc truyền thống Việt 
Nam nói chung và ở xứ Quảng nói riêng. 
 Tăng Chánh Tín 
82 
Các điệu hò, điệu lý, đồng dao, bài chòi... trong kho 
tàng âm nhạc truyền thống Quảng Nam - Đà Nẵng gắn 
liền với quá trình lao động, sản xuất của nhân dân, kịp 
thời phản ánh tâm tình, ước vọng của quần chúng. Từ 
trong những giọng hò, điệu lý, sức sống văn hoá làng 
quê xứ Quảng đã được nuôi dưỡng và mãi mãi trường 
tồn trong dòng chảy bất tận của văn hoá Việt. 
Cùng với đó, những nét đẹp trong phong tục tập 
quán, tín ngưỡng, sinh hoạt văn hoá của người xứ 
Quảng cũng được thể hiện đậm nét trong âm nhạc cổ 
truyền, đó trở thành một giá trị tự thân không thể phủ 
nhận. Ngày Tết truyền thống xứ Quảng sẽ mất đi không 
khí tươi vui, nhộn nhịp nếu vắng hội sắc bùa, cũng như 
lễ hội Cầu ngư sẽ lạc lõng biết nhường nào nếu không 
có hát bả trạo, hò đưa linh, hát bội (tuồng)... Âm nhạc 
truyền thống đã trở thành một bộ phận hữu cơ không thể 
tách rời trong tổng thể của các lễ hội, sinh hoạt văn hoá 
tín ngưỡng. 
Trong số các giá trị âm nhạc truyền thống, bên cạnh 
giá trị về văn hoá, lịch sử được chuyển tải qua nội dung 
phong phú, đa sắc màu của âm nhạc, các giá trị về mặt 
nghệ thuật cũng có vai trò quan trọng. 
Giá trị nghệ thuật của âm nhạc truyền thống được 
biểu hiện thông qua các bài bản, thể thức âm nhạc được 
sử dụng, kết hợp với trang phục, đạo cụ, vũ điệu, động 
tác cùng không gian diễn xướng của âm nhạc. Tất cả đã 
kết hợp hài hoà để tạo nên một giá trị nghệ thuật tổng 
hợp sinh động, hấp dẫn. Nghệ thuật tuồng không thể 
tách rời khỏi sân khấu biểu diễn, hát bài chòi phải gắn 
liền với không gian sinh hoạt cộng đồng hay hát bả trạo 
gắn liền với không gian lễ hội của cư dân ven biển... 
Một điển hình về giá trị nghệ thuật là nghệ thuật 
tuồng. Giá trị của nghệ thuật tuồng được thể hiện đậm 
nét từ trong các bài bản biểu diễn, trang phục, mặt nạ 
của diễn viên tuồng cho đến các đạo cụ, tác phong, động 
tác biểu diễn. Tất cả đều toát lên tính chuyên nghiệp và 
đạt đến một trình độ cao trong nghệ thuật biểu diễn. 
Ngoài ra, nghệ thuật âm nhạc truyền thống Quảng 
Nam - Đà Nẵng còn mang giá trị thẩm mỹ, giáo dục sâu 
sắc, nó hướng con người đến những giá trị chân - thiện - 
mỹ, ca ngợi tình yêu nước, yêu dân tộc, lòng thủy chung 
son sắt, ý chí đấu tranh kiên cường. Thông qua những 
câu hò, điệu lý, những câu hát bài chòi, hát sắc bùa... 
tình cảm của nhân dân với khát khao có được một cuộc 
sống no đủ, hạnh phúc đã được thể hiện rõ nét. Những 
đạo lí ngàn đời của dân tộc như "Uống nước nhớ 
nguồn", "Tôn sư trọng đạo",... cùng các điều hay lẽ phải 
ở đời đã nhẹ nhàng đi vào cuộc sống từ những âm điệu 
cổ truyền. 
4. Nghệ thuật âm nhạc truyền thống Quảng Nam 
- Đà Nẵng trong tình hình mới 
Trong bối cảnh hội nhập, mở cửa của đất nước, 
cũng như nhiều loại hình văn hóa cổ truyền khác, âm 
nhạc truyền thống đang đứng trước những thách thức 
cũng như thời cơ to lớn. Bên cạnh nguy cơ mai một, thất 
truyền trước làn sóng âm nhạc ngoại lai thì cơ hội để 
tiếp tục phát triển và phát huy bản sắc, giá trị của âm 
nhạc truyền thống cũng rất lớn. 
Trên phạm vi cả nước, nhận thức rõ tầm quan trọng 
của công tác nghiên cứu, tôn vinh âm nhạc truyền thống, 
văn hoá, văn nghệ dân gian trong chiến lược xây dựng 
nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc 
theo tinh thần Nghị quyết TW V khoá VIII, năm 2008, 
Ban Bí thư và Thủ tướng Chính phủ đã thông qua và 
ban hành Dự án “Công bố và phổ biến tài sản văn hoá - 
văn nghệ dân gian các dân tộc Việt Nam” với vai trò 
chủ chốt của Hội văn nghệ dân gian Việt Nam. Trong 
thời gian 10 năm, Dự án sẽ chọn lọc khoảng 2000 công 
trình trong số bản thảo của các hội viên Hội văn nghệ 
dân gian để xuất bản dưới dạng các tác phẩm nghiên 
cứu, sưu tầm [2, tr.10]. 
Tại Quảng Nam - Đà Nẵng, từ năm 2008 đến nay, 
nhiều tác phẩm có giá trị nghiên cứu về âm nhạc truyền 
thống dưới sự hỗ trợ của Dự án đã được xuất bản với sự 
nỗ lực của nhiều nhà nghiên cứu có tâm huyết. Nhiều 
công trình đặc khảo chuyên sâu về từng thể loại âm 
nhạc truyền thống đã được xuất bản như hát bài chòi, 
hát bả trạo, hò đưa linh, nghệ thuật tuồng, hò, vè, lý, 
đồng dao... Những công trình này đã góp phần làm sáng 
tỏ diện mạo tổng thể của âm nhạc truyền thống Quảng 
Nam - Đà Nẵng với nhiều giá trị đặc sắc. Trong thời 
gian đến, chắc hẳn nhiều công trình sẽ tiếp tục được 
xuất bản, tiếp tục khẳng định chỗ đứng của âm nhạc 
truyền thống. 
Về phía UBND thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng 
Nam, nhiều chủ trương, chính sách ưu tiên đầu tư cho 
công tác nghiên cứu, bảo tồn âm nhạc truyền thống đã 
được ban hành. Thành phố đã tiến hành thống kê các di 
sản phi vật thể trên địa bàn, trong đó có âm nhạc truyền 
thống để có biện pháp bảo tồn, tôn vinh đúng hướng. 
 ISSN 1859 - 4603 - Tạp chí Khoa học Xã hội, Nhân văn & Giáo dục, Tập 7, số 3 (2017), 77-83 
 83 
Một hướng đi khá độc đáo của chính quyền địa 
phương trong ứng xử với nghệ thuật âm nhạc truyền 
thống là khai thác vào phát triển du lịch. Đây là một 
hướng đi không mới, bởi lẽ việc khai thác âm nhạc 
truyền thống vào du lịch đã được nhiều nước trên thế 
giới cũng như một số địa phương trong nước tiến hành 
khá hiệu quả. Tại Quảng Nam, nghệ thuật âm nhạc 
truyền thống được khéo léo đưa vào các chương trình 
phục vụ du khách tại Di sản thế giới Hội An và Mỹ Sơn. 
Đặc biệt, tại Hội An, các chương trình bài chòi, tuồng 
phục vụ du khách trên các tuyến phố đi bộ đêm đã thu 
hút được đông đảo du khách. 
Tại Đà Nẵng, thành phố đã nhận thức đúng đắn và 
có sự đầu tư hệ thống, bài bản vào lĩnh vực khai thác âm 
nhạc truyền thống vào phát triển du lịch. Chương trình 
nghệ thuật âm nhạc truyền thống phục vụ du khách tại 
nhà hát Nguyễn Hiển Dĩnh vẫn đều đặn phục vụ du 
khách. Các chương trình nghệ thuật trên tàu du lịch 
sông Hàn, tại các khách sạn, resort ở Đà Nẵng được du 
khách đón nhận nhiệt tình. 
5. Kết luận, đề xuất 
Trong bức tranh tổng thể của nghệ thuật âm nhạc 
truyền thống Việt Nam, âm nhạc truyền thống Quảng 
Nam - Đà Nẵng mang một sắc màu đặc biệt. Sắc màu ấy 
được tạo nên từ sự hoà quyện, đan xen của các yếu tố 
âm nhạc truyền thống theo chân ông cha ta trong bước 
đường lập nghiệp ở phương Nam, vừa có những yếu tố 
âm nhạc Chămpa mang trong mình những hào quang 
quá khứ cùng những yếu tố văn hoá của mảnh đất nơi 
đầu biển cuối sông. 
Quảng Nam - Đà Nẵng đang từng ngày từng giờ đổi 
khác, du lịch thực sự đã mang đến cho mảnh đất này sự 
chuyển mình to lớn. Để khẳng định những tiềm năng 
vốn có của mình, cũng như đáp ứng yêu cầu đặt ra trong 
thời đại mới, vấn đề đa dạng hoá các sản phẩm du lịch 
đã, đang và sẽ được lãnh đạo các cấp đặc biệt quan tâm. 
Những giải pháp về nghiên cứu, tôn vinh các giá trị 
âm nhạc truyền thống; giải pháp về nguồn vốn, nguồn 
nhân lực, quảng bá cho việc khai thác vào phát triển du 
lịch; xây dựng các chương trình nghệ thuật, sản phẩm 
lưu niệm cũng như hợp tác, liên kết giữa các công ty du 
lịch lữ hành đang được triển khai có hiệu quả. 
Với những giải pháp đó, chắc chắn rằng, nghệ thuật 
âm nhạc truyền thống sẽ trở thành một sản phẩm du lịch 
độc đáo không thể lẫn lộn của mảnh đất Quảng Nam - 
Đà Nẵng này. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Đào Duy Anh (2006). Việt Nam văn hoá sử 
cương. NXB Văn hoá Thông tin, Hà Nội. 
[2] Võ Văn Hòe (2010). Tập tục xứ Quảng theo một 
vòng đời. NXB ĐHQG Hà Nội. 
[3] Trần Hồng (2011). Hát sắc bùa. NXB Văn hoá 
Thông tin, Hà Nội. 
[4] Phan Ngọc Liên (chủ biên, 1976). Thời đại Hùng 
Vương. NXB KHXH, Hà Nội. 
[5] Trần Thuỳ Mai (2003). Dân ca Thừa Thiên - Huế. 
NXB Thuận Hoá, Thừa Thiên Huế. 
[6] Tô Ngọc Thanh, Hồng Thao (1985). Tìm hiểu âm 
nhạc dân tộc cổ truyền. NXB Văn hoá, Hà Nội. 
[7] Lưu Trang (2005). Phố cảng Đà Nẵng. NXB Đà 
Nẵng, Đà Nẵng. 
TRADITIONAL MUSIC ART IN QUANG NAM - DA NANG 
Abstract: Quang Nam - Da Nang traditional music is characterized by the traditional music art of Vietnam as well as of the 
Orient. Overcoming the challenges of space and time, types of traditional music in Quang Nam - Da Nang still retain their own unique 
and original features, which are the precious assets of the intangible cultural heritage preserved and handed down by generations of 
ancestors. It is highly urgent for both the cultural sector and the whole society to take responsibility for preserving and promoting the 
values of this traditional kind of music. This article focuses on clarifying the identity and values of the traditional music art in Quang 
Nam - Da Nang, and at the same time, proposes some solutions to preserve and promote the values of this traditional music art. 
Key words: art; traditional music; Quang Nam - Da Nang; identity; value. 

File đính kèm:

  • pdfnghe_thuat_am_nhac_truyen_thong_tai_quang_nam_da_nang.pdf