Nghệ nhân “Cò ke ôống kháo” trong đời sống cộng đồng Mường ở Hòa Bình

Âm nhạc dân gian Mường hiện còn lưu truyền một thể loại dàn nhạc có tên gọi “Cò ke ôống kháo”.

Các thành viên của dàn nhạc này là những người có năng khiếu bẩm sinh, có đam mê nghệ thuật và

phải trải qua một quá trình nỗ lực rèn luyện, tu dưỡng để trở thành nghệ nhân. Cộng đồng Mường kính

trọng họ, coi họ là những người tài giỏi, hiểu biết về phong tục tập quán. Nghệ nhân “Cò ke ôống kháo”

thuộc tầng lớp tinh hoa trong xã hội Mường, giữ vai trò quan trọng trong bảo tồn, phát huy và giáo dục

truyền thống văn hóa tộc người

pdf 8 trang phuongnguyen 180
Bạn đang xem tài liệu "Nghệ nhân “Cò ke ôống kháo” trong đời sống cộng đồng Mường ở Hòa Bình", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghệ nhân “Cò ke ôống kháo” trong đời sống cộng đồng Mường ở Hòa Bình

Nghệ nhân “Cò ke ôống kháo” trong đời sống cộng đồng Mường ở Hòa Bình
25Số 28 - Tháng 6 - 2019
DI SẢN VĂN HÓA
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
NGHỆ NHÂN “CÒ KE ÔỐNG KHÁO” 
TRONG ĐỜI SỐNG CỘNG ĐỒNG MƯỜNG Ở HÒA BÌNH
 TRẦN BẠCH DƯƠNG
Tóm tắt
Âm nhạc dân gian Mường hiện còn lưu truyền một thể loại dàn nhạc có tên gọi “Cò ke ôống kháo”. 
Các thành viên của dàn nhạc này là những người có năng khiếu bẩm sinh, có đam mê nghệ thuật và 
phải trải qua một quá trình nỗ lực rèn luyện, tu dưỡng để trở thành nghệ nhân. Cộng đồng Mường kính 
trọng họ, coi họ là những người tài giỏi, hiểu biết về phong tục tập quán. Nghệ nhân “Cò ke ôống kháo” 
thuộc tầng lớp tinh hoa trong xã hội Mường, giữ vai trò quan trọng trong bảo tồn, phát huy và giáo dục 
truyền thống văn hóa tộc người. 
Từ khóa: Cò ke ôống kháo, người Mường, âm nhạc dân gian, nghệ nhân dân gian
Abstract
Folk music of Muong ethnic minority circulates an orchestra called “Cò ke ôống kháo”. The members 
of this orchestra are innate gifted people who have a passion for art and must go through a process 
of training and attempting to become artisans. Muong community respects them, considers them as 
talented people, understanding customs and habits. The artisans of “Cò ke ôống kháo” belong to the 
elite class of Muong society, playing an important role in preserving, promoting and educating ethnic 
cultural traditions.
Keywords: Cò ke ôống kháo, Muong people, folk music, folk artisans
Đặt vấn đề
Người Mường - tộc người bản địa ở vùng núi Tây Bắc Việt Nam, sinh sống tập trung nhiều nhất tại tỉnh 
Hòa Bình, nơi bắt đầu của địa hình núi đá kéo 
dài và cao dần về phía các tỉnh Sơn La, Điện 
Biên, Lai Châu, tạo nên một miền Tây Bắc hùng 
vĩ. Người Mường coi Hòa Bình là quê hương, 
là vùng đất khởi sinh tộc người, kể cả người 
Mường sinh ra và lớn lên ở nơi khác cũng xem 
Hòa Bình như đất tổ của mình. 
Văn hóa Mường có nhiều điểm tương đồng 
với văn hóa Kinh, vì thế các nhà nghiên cứu tin 
vào giả thuyết rằng hai tộc người này chung 
một nguồn gốc, gọi là người tiền Việt - Mường. 
Theo giả thuyết này, vào khoảng thế kỷ VI - 
VIII, một bộ phận người tiền Việt - Mường di 
chuyển xuống sinh sống ở đồng bằng Bắc Bộ, 
tại đây họ liên tục tiếp xúc, giao lưu với các tộc 
người khác nên có sự biến đổi về văn hóa và 
trở thành người Kinh hiện nay [4, tr.29]. Người 
Mường là bộ phận tộc người ở lại vùng núi, ít 
tiếp xúc giao lưu nên vẫn còn giữ một số nét 
văn hóa cổ xưa từ thời tiền Việt - Mường. Ngày 
nay văn hóa Mường với bản sắc độc đáo trở 
nên đầy hấp dẫn đối với các nhà nghiên cứu và 
khách du lịch, người ta biết tới văn hóa Mường 
với nghệ thuật cồng chiêng, diễn xướng Mo,... 
hoặc chỉ đơn giản qua câu nói: “Cơm đồ, nhà 
gác, nước vác, lợn thui, ngày lui, tháng tới ”.
Âm nhạc dân gian Mường hiện còn lưu 
truyền một thể loại dàn nhạc có tên gọi “Cò 
ke ôống kháo”. Xét theo Luật di sản văn hóa 
Số 28 - Tháng 6 - 201926
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
Việt Nam thì đây là một trường hợp thuộc di 
sản văn hóa phi vật thể [3]. Nó tồn tại trong 
mối liên hệ không tách rời giữa nghệ thuật 
âm nhạc và người trình diễn. Những người 
trình diễn đồng thời giữ vai trò bảo lưu và trao 
truyền nghệ thuật đó qua các thế hệ, họ được 
gọi là Nghệ nhân dân gian “Cò ke ôống kháo”. 
Bàn về yếu tố con người trong di sản văn 
hóa, GS.TS. Hoàng Vinh đã viết: “Di sản văn hóa 
phi vật thể bao gồm các thể loại văn hóa nghệ 
thuật chủ yếu sau đây: Âm nhạc, ca múa, sân 
khấu, ngôn ngữ, truyền thuyết, huyền thoại, 
lễ hội, nghi lễ, phong tục, tập quán, y học dân 
tộc, nghệ thuật nấu ăn, bí quyết trong sản xuất 
đồ thủ công mỹ nghệ. Có thể ghi nhận vào đây 
cả “nghệ nhân dân gian”, người đang nắm các 
bí quyết này, cũng được xem là tài sản văn hóa. 
Trong đạo luật “Bảo tồn các tài sản văn hóa” 
của nước Nhật Bản, lớp nghệ nhân dân gian 
kể trên được gọi là “Kho báu sống” [5, tr.110]. 
Cách gọi “Kho báu sống” đã cho thấy đặc trưng 
của nghệ nhân dân gian dưới góc nhìn văn 
hóa, những con người đang sống, vừa là chủ 
thể vừa là thành phần của một di sản văn hóa. 
Điều đó cũng cảnh báo sự khó khăn trong việc 
chọn cách tiếp cận và phương pháp nghiên 
cứu phù hợp.
Bài viết giới thiệu một cái nhìn tổng thể về 
các nghệ nhân “Cò ke ôống kháo”, qua khảo 
sát, nghiên cứu ở 03 điểm thuộc tỉnh Hòa 
Bình: 1) Xã Sủ Ngòi, thành phố Hòa Bình; 2) Xã 
Phong Phú, huyện Tân Lạc; 3) Xã Nhân Nghĩa, 
huyện Lạc Sơn. Thông tin được tổng hợp từ 
các quan sát về thân phận và cuộc sống hàng 
ngày, những ý kiến từ phía cộng đồng và lời 
bộc bạch của bản thân các nghệ nhân “Cò ke 
ôống kháo”. 
1. Vài nét về dàn nhạc “Cò ke ôống kháo”
 “Cò ke ôống kháo” hiểu theo nghĩa đen là từ 
ghép của tên gọi hai nhạc khí: “Cò ke” và “ôống 
kháo” (đàn nhị và sáo trúc). Đây là hai nhạc khí 
chủ chốt không thể thiếu trong dàn nhạc này, 
vì chúng diễn tấu giai điệu chính. Bên cạnh đó, 
người ta thường bổ sung thêm các nhạc khí 
khác như: trống con, chũm chọe, đàn tam, đàn 
bầu,... tùy theo điều kiện cho phép1. 
“Cò ke ôống kháo” được trình diễn trong 
đám tang và lễ hội, tại đây nó phục cho các 
nghi lễ tín ngưỡng2. Ngoài ra, người Mường 
còn dùng nó để giải trí ở những dịp vui như: 
gặp mặt ngày xuân, sau tiệc rượu, các cuộc trò 
chuyện trong đêm khuya. Cách đây vài chục 
năm, người ta còn thấy “Cò ke ôống kháo” xuất 
hiện tại đám cưới ở Kim Bôi và Lạc Thủy, tuy 
nhiên hiện nay không còn thấy nữa. 
Biên chế một dàn nhạc “Cò ke ôống kháo” 
khá linh hoạt, thông thường tại tang lễ chỉ từ 
3 - 5 người, vào các dịp vui hoặc tham gia lễ 
hội thì số lượng thường nhiều hơn, có thể lên 
đến hơn 10 người. Mỗi dàn nhạc có một người 
trưởng nhóm, người này sẽ đại diện cho nhóm 
nhạc để làm các công việc chung như: tiếp 
nhận và xếp lịch công việc, thương thảo tiền 
công, tổ chức họp nhóm, phân công nhiệm vụ 
cho các thành viên khác. Người trưởng nhóm 
được lựa chọn, suy tôn với hai tiêu chí: Thứ 
nhất là người giỏi chuyên môn, sử dụng được 
nhiều nhạc khí và thông thạo các bài bản âm 
nhạc “Cò ke ôống kháo”; thứ hai phải là người 
trung thực, có uy tín trong cộng đồng3. 
 Hiện nay, “Cò ke ôống kháo” khá phổ biến 
trong cộng đồng Mường ở Hòa Bình, mỗi xã 
thường có từ 1 - 3 dàn nhạc. Thông tin cụ thể 
tại 03 xã mà chúng tôi chọn khảo sát: Xã Sủ 
Ngòi có 1 dàn nhạc, số lượng nghệ nhân là 
5 người; xã Phong Phú có 3 dàn nhạc ở xóm 
Lầm, xóm Ải và xóm Mận, tổng số nghệ nhân 
là 10 người; xã Nhân Nghĩa có 03 dàn nhạc ở 
xóm Vó trên, Vó giữa và xóm Bưng, tổng số 
nghệ nhân là 12 người. 
Số nghệ nhân ở mỗi xã có lẽ còn nhiều hơn, 
thống kê trên là những người thường xuyên 
tham gia dàn nhạc “Cò ke ôống kháo”, còn lại 
một số nghệ nhân khác ít tham gia, vì những 
lý do như: bận công việc, hoặc sức khỏe yếu do 
tuổi đã cao
27Số 28 - Tháng 6 - 2019
DI SẢN VĂN HÓA
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
2. Quá trình trở thành nghệ nhân “Cò ke 
ôống kháo”
 Trình diễn “Cò ke ôống kháo” không phải là 
nghề gia truyền, chỉ có một vài nghệ nhân kế 
tục nghề từ những người ruột thịt. Trong thực 
tế thì ai cũng có thể trở thành nghệ nhân “Cò 
ke ôống kháo” nếu có đủ các điều kiện: Năng 
khiếu, niềm đam mê, đạo đức tốt và lối ứng xử 
đúng mực. Đó là những yếu tố lần lượt xuất 
hiện qua từng giai đoạn để một người bình 
thường trở thành nghệ nhân “Cò ke ôống 
kháo”. 
 Trước tiên, người học phải có năng khiếu 
âm nhạc, đây là tố chất mà mỗi người có được 
từ bẩm sinh, thể hiện qua khả năng cảm nhận 
cao độ, tiết tấu và ghi nhớ giai điệu âm nhạc. 
Các nghệ nhân vốn là những người chân chất, 
mộc mạc, họ giải thích về tố chất này bằng từ 
khéo: “Cái món này không phải cứ thích là làm 
được đâu, người khéo thì chỉ cần nghe, nhìn đã 
làm theo được rồi! Anh nào không khéo thì dù 
có chỉ tận tay, gí vào đầu, học cả đời vẫn làm sai, 
không theo nghề được” (PVS Nghệ nhân Bùi 
Văn N, ở Tân Lạc). Vì vậy, trước khi nhận học 
trò để truyền dạy, các nghệ nhân bao giờ cũng 
chú ý tới yếu tố này. Nếu người học không có 
năng khiếu, họ sẽ thẳng thắn từ chối, vì “cứ nể 
nang mà nhận dạy, rồi cũng chẳng học được 
thành nghề đâu” (PVS Nghệ nhân Bùi Văn T, ở 
Sủ Ngòi).
Trường hợp nghệ nhân Bùi Văn X, trưởng 
nhóm “Cò ke ôống kháo” ở Sủ Ngòi, có con 
trai là Bùi Văn H (sinh 1992), hiện đang thất 
nghiệp, ở nhà giúp cha mẹ làm việc đồng áng. 
Mặc dù ông X đang dạy “Cò ke ôống kháo” 
cho một người cùng xóm, nhưng ông không 
truyền nghề cho con trai mình. Lý do rất đơn 
giản: “Cháu không có năng khiếu nên không học 
được”.
Nếu năng khiếu âm nhạc là yếu tố đầu tiên 
phải có, thì niềm đam mê đối với âm nhạc “Cò 
ke ôống kháo” là yếu tố thứ hai, nó là động lực 
xuyên suốt giúp cho người học vượt qua quá 
trình khổ luyện, tu dưỡng. Nghệ nhân Bùi Văn 
T (ở Tân Lạc, sinh năm 1943) cho biết, ông đã 
“mê” âm nhạc “Cò ke ôống kháo” ngay từ lần 
đầu được nghe, khi mới 12 tuổi. Ông về nhà 
tự làm cò ke (đàn nhị), cắt đoạn tre làm thùng 
đàn, dùng da ếch căng mặt đàn, làm xong còn 
chẳng biết lên dây cho đúng. Với chiếc đàn 
tự tạo đó, ông hăng hái theo các đàn anh để 
học “Cò ke ôống kháo” và trở thành một nghệ 
nhân giỏi. Nay tuổi đã cao, ông vẫn thường 
xuyên tham gia dàn nhạc “Cò ke ôống kháo”, 
ông nói: “cái này nó ngấm vào máu rồi, nếu 
không được chơi thường xuyên, tôi cảm thấy 
thiêu thiếu gì đó”.
Cuối cùng, sau khi học đủ các bài bản “Cò 
ke ôống kháo”, để có một vị trí chính thức 
trong dàn nhạc “Cò ke ôống kháo” và được 
cộng đồng công nhận, người học “Cò ke ôống 
kháo” phải đạt tiêu chuẩn thứ ba, đó là có lối 
sống lành mạnh, biết ứng xử đúng chuẩn mực 
tại các không gian tôn nghiêm như lễ hội, lễ 
tang. Vì tiêu chuẩn này mà có người từng bị 
“thử thách” đến hàng chục năm, cũng có người 
vì liên tiếp cư xử sai mà bị loại bỏ. Chẳng hạn 
như trường hợp của nghệ nhân Bùi Văn K ở Sủ 
Ngòi. Ông có tật hay uống rượu say và quấy 
nhiễu, nhiều lần giữa lễ tang ông lè nhè trêu 
chọc mọi người (chọc cả dùi trống vào người 
đến viếng), vì thế bị cộng đồng chê trách, 
những người cùng nhóm nhạc cũng dần tránh 
né không mời tham gia nữa.
3. Cuộc sống hàng ngày của nghệ nhân “Cò 
ke ôống kháo”
Đời sống kinh tế
Chơi nhạc “Cò ke ôống kháo” là công việc 
không thường xuyên, nguồn thu nhập đến 
từ phục vụ lễ tang rất ít ỏi và không ổn định. 
Nghệ nhân Bùi Văn T ở Tân Lạc cho biết: “Thời 
gian trước, tại đám tang thầy Mo được chia 1 vai 
thịt lợn (tức là ¼ con lợn), người thổi kèn nhận 
được chiếc thủ lợn, nghệ nhân “Cò ke ôống kháo” 
chỉ được chia một phần thịt nhỏ khoảng 1kg, 
thay cho lời cảm ơn của tang chủ”.
Số 28 - Tháng 6 - 201928
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
Nguyên tắc trả công này được giải thích 
như sau: Thứ nhất, thầy và thợ là hai vị trí khác 
nhau4, thầy Mo nhận công nhiều hơn thợ kèn, 
thợ đàn; Thứ hai, thợ kèn được trả công cao 
hơn thợ đàn (tức “Cò ke ôống kháo”), vì công 
việc của người thổi kèn được cho là nặng nhọc, 
vất vả hơn. Người Mường quan niệm rằng các 
bản nhạc được trình bày bằng âm sắc của chiếc 
kèn mới là âm nhạc nghi lễ và chỉ dành riêng 
cho nghi lễ5. Dàn nhạc “Cò ke ôống kháo” mặc 
dù xuất hiện ở đám tang, nhưng có vai trò hỗ 
trợ cho giai điệu của kèn, hoặc chơi độc lập các 
bài bản “Cò ke ôống kháo” khi chiếc kèn tạm 
nghỉ (đêm khuya, hoặc lúc gia đình tang chủ 
dùng bữa). 
Ngày nay, việc trả công được thay bằng 
tiền mặt, thầy Mo: 1,5 - 2 triệu; thợ kèn: 700 
- 800 ngàn; nghệ nhân “Cò ke ôống kháo” chỉ 
được nhận khoảng 400 - 500 ngàn cho một lần 
phục vụ tang lễ. Tất nhiên đó không thể là một 
khoản thu nhập thường xuyên, cũng chẳng đủ 
để duy trì cuộc sống, như một nghệ nhân đã 
nói: “Đủ tiền để uống trà, hút thuốc thôi” (PVS 
nghệ nhân Bùi Văn T ở Tân Lạc). 
Nghệ nhân “Cò ke ôống kháo” không nhận 
thù lao khi phục vụ lễ hội, vì đó là nhiệm vụ 
được xem là vinh dự mà cộng đồng lựa chọn 
giao phó, nên họ tự nguyện tham gia với một 
tâm thế nhiệt tình và thành kính. Sau cùng, họ 
sẽ được Ban tổ chức lễ hội mời một bữa cơm 
“thụ lộc” từ những đồ cúng. 
Bởi lý do nêu trên mà “Cò ke ôống kháo” 
không thể trở thành một nghề mưu sinh và 
các nghệ nhân phải mưu sinh bằng một nghề 
khác. Tuy nhiên, khảo sát về nghề mưu sinh 
của họ lại mang cho chúng tôi những kết quả 
rất bất ngờ và thú vị. Hóa ra các nghệ nhân 
“Cò ke ôống kháo” thường làm những nghề 
đòi hỏi có trí thông minh và sự khéo léo. Một 
số người làm việc trí óc như: Chủ tịch xã, cán 
bộ văn hóa, kế toán, giáo viên trung học phổ 
thông, số khác làm những việc cần kỹ năng 
khéo léo, có tay nghề như: Lái máy cẩu chuyên 
dụng, thợ mộc, nhạc công organ, công nhân 
nhà máy Thủy điện Hòa Bình Những nghề 
này giúp họ có đời sống kinh tế khá ổn định so 
với mức sống chung của cộng đồng, thường ở 
mức trung bình trở lên. 
Sở thích và lối sống
Thưởng thức âm nhạc là sở thích chung của 
các nghệ nhân “Cò ke ôống kháo”. Vật dụng phổ 
biến tại nhà riêng của họ là bộ thiết bị nghe 
nhạc, những dàn âm thanh không đắt tiền, công 
suất trung bình (40 - 60W), chúng thường được 
bày đặt ở không gian để tiếp khách, gần bàn 
uống trà. Tất cả ở trong trạng thái hoạt động 
tốt, điều đó chứng tỏ chúng được sử dụng và tu 
sửa thường xuyên. Âm nhạc mà họ thích nghe 
là các ca khúc Việt Nam được sáng tác trong 
nửa cuối thế kỷ XX6. Giai điệu của chúng đôi khi 
còn được họ trình diễn bằng “Cò ke ôống kháo” 
trong những lúc cao hứng. 
Các nghệ nhân “Cò ke ôống kháo” có một 
điểm chung trong lối sống: rất hướng ngoại và 
có nhiều mối quan hệ trong cộng đồng. Điều 
này dễ dàng nhận thấy qua thái độ hiếu khách 
và sự chân thành. Họ cởi mở, thích được làm 
quen với người lạ, sẵn sàng chia sẻ mọi câu 
chuyện đời thường của mình khá thoải mái 
nhưng không “vẽ chuyện làm quà”7. Có lẽ thái 
độ hiếu khách, sự chân thành cùng với công 
việc “Cò ke ôống kháo” khiến họ có nhiều mối 
quan hệ trong cộng đồng. Khảo sát cho thấy 
hầu như mỗi người dân Mường đều biết và 
giao thiệp với một vài nghệ nhân “Cò ke ôống 
kháo” trong vùng.
Họ cùng có thói quen chung phổ biến 
trong cộng đồng Mường là uống rượu. Nhưng 
họ luôn uống có chừng mực, vì hầu như không 
có phản ánh hay than phiền về việc các nghệ 
nhân “Cò ke ôống kháo” say xỉn, có lẽ bởi công 
việc “Cò ke ôống kháo” đòi hỏi sự nghiêm túc 
và tỉnh táo. Tuy nhiên, uống vài chén rượu khi 
gặp mặt nhóm nhạc vẫn là chuyện diễn ra 
29Số 28 - Tháng 6 - 2019
DI SẢN VĂN HÓA
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
thường xuyên. Họ luôn sẵn lòng tổ chức tại 
nhà riêng một bữa cơm rượu đãi khách hay 
họp nhóm “Cò ke ôống kháo”; họ cũng rất vui 
lòng nhận lời mời dùng cơm ở nhà của một 
thành viên trong nhóm. Các bữa ăn này mang 
lại cho họ sự gắn kết và tình thân, hơn nữa sau 
đó thường là những khoảnh khắc ngẫu hứng 
để họ chơi đàn với nhau. 
Tập luyện và truyền dạy nghề
Việc tập luyện và truyền dạy nghề thường 
diễn ra sau bữa ăn tối, khi các công việc hàng 
ngày đã kết thúc. Các nghệ nhân tập hợp tại 
nhà của một thành viên trong nhóm và hòa 
tấu các bản “Cò ke ôống kháo” với nhau. Sau 
mỗi bản nhạc, họ thường dừng lại để trao đổi, 
góp ý cho nhau về ngón đàn, rồi nói chuyện 
tâm tình. Đây cũng là thời gian họ sẽ truyền 
dạy bài bản, ngón đàn cho các học trò. Học trò 
chẳng của riêng ai, họ có thể học ở mỗi người 
một ít. Thầy dạy thì không bao giờ thu học phí, 
thường chỉ thấy học trò tự nguyện chăm lo trà 
thuốc, hoặc biếu thầy vài lít rượu, thế là đủ.
Ngoài ra, học trò còn được đi cùng các 
nghệ nhân để thực tập trong các dịp trình 
diễn “Cò ke ôống kháo”. Việc học có thể kéo dài 
hoặc rút ngắn tùy theo khả năng của học trò, 
những người học giỏi thường thành nghề sau 
2 - 3 năm, có những trường hợp lâu hơn như 
nghệ nhân Bùi Văn L (ở Sủ Ngòi) học hơn 10 
năm mới được hành nghề. Ông L kể lại rằng, 
ngày đó ông rất khéo, học nhanh tiến bộ, 
nhưng ham chơi, không chú tâm tập luyện, vì 
vậy các thầy phải cân nhắc mãi mới cho phép 
ông đi làm nghề. Chuyện này cho thấy đam 
mê với nghề và đạo đức của người học là tiêu 
chí cơ bản để thầy dạy quyết định có truyền 
nghề hay không. Các nghệ nhân luôn dặn học 
trò phải xem đây là việc làm phước, không cầu 
lợi, cần có thành tâm và biết chia sẻ. Người làm 
nghề cần có lối sống giản dị, tránh khoác lác, 
khoa trương và đặc biệt không được gian dối. 
Chúng tôi còn ghi nhận được ở Sủ Ngòi có 2 
người bị thầy “đuổi” không dạy nữa vì thiếu 
thật thà8. 
4. Vị thế của nghệ nhân “Cò ke ôống kháo” 
trong đời sống cộng đồng 
Khi đề cập tới “Cò ke ôống kháo”, chúng tôi 
ghi nhận các ý kiến từ cộng đồng Mường như 
sau:
- “Cò ke ôống kháo” à! Món đó không dễ đâu, 
phải khéo mới làm được!
- Ông ấy khéo đấy! Biết chơi “Cò ke ôống 
kháo” cơ mà!
- Anh ấy thông minh lắm! Việc gì cũng làm 
được, biết chơi cả “Cò ke ôống kháo”!
“Cò ke ôống kháo” gắn bó với đời sống 
cộng đồng Mường. Không ít người dân Mường 
đã từng một lần thử làm quen với các nhạc khí 
“Cò ke ôống kháo”, nhưng phần lớn sẽ nhanh 
chóng bỏ cuộc sau khi nhận ra rằng đó không 
phải là việc dễ dàng. Âm nhạc cần sự khéo léo 
hơn là sức mạnh cơ bắp, hơn nữa, kể cả người 
khéo léo nhất cũng phải trải qua một thời gian 
tập luyện mới có thể thành nghề. Vì thế, việc 
biết chơi “Cò ke ôống kháo” đôi khi trở thành 
một tiêu chí để người ta đánh giá về năng lực 
con người. Và nghệ nhân “Cò ke ôống kháo” 
mặc nhiên được coi là những người thông 
minh, khéo léo. 
Khác với năng lực của ông Mo, ông T’lượng 
hay bà Mỡi (những người thực hành tâm linh 
và được cộng đồng tin rằng có năng lực thần 
bí), nghệ nhân “Cò ke ôống kháo” mang tố 
chất của con người, trở thành tài nghệ qua rèn 
luyện. Quan niệm đó thể hiện qua cách ứng 
xử của cộng đồng với nghệ nhân “Cò ke ôống 
kháo”, người ta không cần phải tỏ ra cung kính, 
thậm chí có chút e sợ như với ông Mo, ông 
T’lượng, song người Mường luôn kính trọng và 
thường có mối quan hệ khá thân mật, gần gũi 
với nghệ nhân “Cò ke ôống kháo”.
Tính chất công việc của nghệ nhân “Cò ke 
ôống kháo” luôn gắn với các sự kiện trong xã 
hội, từ việc thờ cúng chung (lễ hội), hay việc 
Số 28 - Tháng 6 - 201930
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
riêng của mỗi gia đình (lễ tang, đám giỗ). Họ 
không chỉ thường xuyên tham gia mà như đã 
trở thành một phần của các sự kiện ấy, điều đó 
đòi hỏi họ phải biết và tuân thủ đúng theo quy 
tắc và trình tự của các nghi lễ. Trong đám tang, 
mỗi khi ông Mo thực hành một nghi lễ thì dàn 
nhạc “Cò ke ôống kháo” sẽ chơi một bản nhạc 
phù hợp với nghi lễ đó. Thêm nữa, họ phải biết 
cách điều chỉnh để kéo dài hơn hoặc rút ngắn 
bản nhạc tùy theo thời gian của một nghi lễ 
đang diễn ra, sao cho nghi lễ kết thúc thì bản 
nhạc cũng dừng. 
Sự kiêng kỵ trong tang ma được các nghệ 
nhân tuân thủ rất nghiêm cẩn. Ở Mường Vang 
còn lưu truyền một bản nhạc tên là “Mo trâu”, 
được tấu lên khi gia chủ dâng mâm cúng thịt 
trâu cho tinh linh người chết. Thực ra, việc 
dâng cúng thịt trâu là thủ tục phổ biến ở thời 
gian trước, khi mà các trình tự của tang ma 
Mường còn rất rườm rà. Người Mường tin rằng 
nếu tấu bản nhạc này mà không có mâm cúng 
thịt trâu thì sẽ mắc lỗi với người chết. Nhưng 
ở thời điểm hiện nay, không phải gia đình nào 
cũng có điều kiện để cúng thịt trâu, vì vậy bài 
“Mo trâu” ngày càng ít được sử dụng đến nỗi 
đang có nguy cơ thất truyền. Trong quá trình 
sưu tầm tài liệu, chúng tôi đã rất khó khăn để 
thuyết phục các nghệ nhân “Cò ke ôống kháo” 
trình tấu bản nhạc này. Cuối cùng họ miễn 
cưỡng thực hiện sau khi hướng về phía cửa sổ 
(cửa vóng) lầm rầm vài câu xin phép. 
Do tính chất công việc nên họ là những 
người được nhiều người biết đến và có nhiều 
mối quan hệ trong cộng đồng, nhất là với các 
già làng, trưởng bản. Những mối quan hệ đó 
mang lại cho họ nhiều kiến thức về cuộc sống 
và cơ hội trong công việc. Vì vậy, nghệ nhân 
“Cò ke ôống kháo” trở thành người được cộng 
đồng tin tưởng để tham khảo ý kiến về nghi lễ 
hay phong tục tập quán9.
Như vậy có thể thấy, nghệ nhân “Cò ke 
ôống kháo” đã khẳng định được vị thế của 
mình trong đời sống cộng đồng Mường. Họ 
được cộng đồng kính trọng và yêu quý không 
chỉ bởi là những người trực tiếp giữ gìn và 
phát huy di sản âm nhạc dân gian Mường, mà 
còn bởi tư chất thông minh, khéo léo, am hiểu 
phong tục tập quán và hiểu biết xã hội, có kinh 
nghiệm trong đối nhân xử thế...
5. Một số vấn đề đặt ra hiện nay
Nghệ nhân “Cò ke ôống kháo” vừa là chủ 
thể, vừa là thành phần của một di sản văn hóa 
nghệ thuật. Họ đang ngày một già đi theo quy 
luật của cuộc sống, một khi họ từ giã cuộc 
sống này mà chưa kịp trao truyền cho thế hệ 
sau, vốn cổ nghệ thuật đó sẽ theo họ về thế 
giới bên kia. Nhiều nghệ nhân đã bày tỏ với 
chúng tôi sự lo lắng vì không tìm được người 
để truyền nghề, bởi hiện nay giới trẻ người 
Mường không mấy quan tâm đến nghệ thuật 
“Cò ke ôống kháo”.
Bên cạnh đó, ý kiến của các nghệ nhân 
đôi khi còn bị xem nhẹ. Tại lễ hội khai hạ Đình 
Ngòi, xã Sủ Ngòi, ban tổ chức đã yêu cầu các 
nghệ nhân “Cò ke ôống kháo” tập và chơi bản 
nhạc “Lưu thủy” của người Kinh thay thế các 
bản nhạc “Cò ke ôống kháo” truyền thống, mặc 
cho họ phản đối một cách yếu ớt10. Có lễ hội 
thì lại thu thanh sẵn các bản nhạc cồng chiêng 
và “Cò ke ôống kháo”. Điều đó cho thấy nhận 
thức của một số cán bộ văn hóa cấp cơ sở còn 
hạn chế, vô tình làm ảnh hưởng đến sự tồn 
vong của một loại hình nghệ thuật mang bản 
sắc dân tộc Mường.
Để bảo vệ di sản văn hóa này, chúng tôi 
cho rằng giải pháp thiết thực nhất là chú trọng 
nâng cao trình độ nhận thức của các cán bộ 
văn hóa ở cơ sở. Họ, hơn ai hết phải hiểu được 
giá trị của các yếu tố văn hóa bản địa mà họ 
đang tiếp xúc, gần gũi và biết tôn trọng ý kiến 
của các nghệ nhân. Trên nền tảng đó họ sẽ 
có những hành động tuyên truyền hiệu quả 
về giá trị di sản văn hóa, tạo chuyển biến tích 
cực trong nhận thức của cộng đồng Mường. 
31Số 28 - Tháng 6 - 2019
DI SẢN VĂN HÓA
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
Khi thế hệ trẻ người Mường hiểu và biết trân 
trọng văn hóa nghệ thuật dân gian, muốn 
học tập và gìn giữ nó, thì các nghệ nhân “Cò 
ke ôống kháo” sẽ không còn phải lo lắng về 
việc truyền nghề.
Kết luận
Con người là tổng hòa của các mối quan 
hệ xã hội, vì thế muốn làm rõ chân dung một 
nhân vật có vị trí nhất định trong xã hội như 
nghệ nhân “Cò ke ôống kháo”, thì việc xem xét 
một cách tổng thể là điều cần thiết. Từ nhiều 
góc độ mô tả khác nhau, bài viết mong muốn 
nhận diện một cách khách quan, chân thực 
về nghệ nhân “Cò ke ôống kháo” trong xã hội 
Mường ở Hòa Bình. 
Thứ nhất, mặc dù “Cò ke ôống kháo” không 
phải nghề gia truyền, nhưng để trở thành 
nghệ nhân “Cò ke ôống kháo”, người học phải 
có năng khiếu bẩm sinh, có đủ đam mê để khổ 
luyện, và cuối cùng là tu dưỡng đạo đức để 
được xã hội công nhận.
Thứ hai, trong đời sống văn hóa cộng 
đồng Mường, nghệ nhân “Cò ke ôống kháo” 
là những người giản dị, chân thật, am tường 
phong tục tập quán, say mê âm nhạc dân 
gian như một thú vui tao nhã. Nghệ nhân 
“Cò ke ôống kháo” là một kiểu “nhân cách văn 
hóa”, một vị trí ít được chú ý, nhưng luôn hiện 
hữu trong xã hội Mường. Người Mường kính 
trọng họ, coi họ là những người tài giỏi, am 
hiểu về phong tục tập quán và có uy tín trong 
cộng đồng. 
Thứ ba, các nghệ nhân “Cò ke ôống kháo” 
đã tạo nên một tổ chức, có người đứng đầu 
và các thành viên, có các hoạt động cụ thể 
(trình diễn, tập luyện, trao truyền). Trong đó, 
nội dung tập luyện gắn với truyền dạy “Cò ke 
ôống kháo” là một sinh hoạt tinh thần mang 
giá trị văn hóa, giáo dục sâu sắc. Đó chính 
là hiện thực của hoạt động bảo lưu và sáng 
tạo truyền thống từ các nghệ nhân dân gian 
Mường. 
Thứ tư, cùng với những nhân vật khác như: 
thầy Mo, thầy Thường, ông T’lượng, bà Mỡi, 
các nghệ nhân “Cò ke ôống kháo” đã góp phần 
tạo nên một bộ khung của tầng lớp tinh hoa 
trong xã hội, góp phần bảo lưu, phát huy và 
giáo dục truyền thống văn hóa Mường. 
Trong xu hướng biến đổi và hội nhập văn 
hóa hiện nay, rất cần trân trọng và phát huy 
vai trò xã hội của các nghệ nhân dân gian như 
nghệ nhân “Cò ke ôống kháo”, không chỉ ở tài 
năng nghệ thuật mà còn ở vốn văn hóa truyền 
thống mà họ đang lưu giữ, thực hành và giáo 
dục cho cộng đồng, góp phần bảo vệ bản sắc 
văn hóa dân tộc Mường .
T.B.D
(ThS., Khoa Văn hóa học, Trường ĐHVHHN)
Chú thích
1 Không có quy ước, giới hạn cụ thể về 
số lượng nhạc khí tham gia dàn nhạc. Thông 
thường, dàn nhạc “Cò ke ôống kháo” có ít hơn 10 
nhạc khí. Nhưng số lượng người tham gia có thể 
lên tới 15 người hoặc hơn bằng cách tăng gấp 
đôi, gấp ba số người chơi cùng một loại nhạc khí.
2 Jean Cusinier là người có những ghi chép 
sớm nhất về “Cò ke ôống kháo”, trong cuốn Người 
Mường - Địa lý nhân văn và xã hội học, xuất bản lần 
đầu bằng tiếng Pháp năm 1948 [1, tr.679-680].
3 Đã có trường hợp người trưởng nhóm bị 
“khai trừ” do vi phạm các tiêu chuẩn đạo đức, 
đó là câu chuyện của nghệ nhân Bùi Văn T, vốn 
là trưởng nhóm “Cò ke ôống kháo” ở xã Sủ Ngòi. 
Ông rất giỏi nghề, nhưng vì hay bớt xén tiền 
công của các thành viên khác nên đã bị tẩy chay 
và mời ra khỏi nhóm.
4 Người Mường phân biệt rõ qua cách gọi: 
thầy Mo, thợ kèn, thợ đàn.
5 Điều này thể hiện qua sự kiêng kỵ đối với 
chiếc kèn, người Mường cho rằng tiếng kèn đám 
là điềm báo của sự xúi quẩy, một tín hiệu của cái 
chết. Vì thế người học kèn đám thường phải lắp 
dăm kèn vào chiếc ống nứa nhỏ (nhằm giảm âm 
Số 28 - Tháng 6 - 201932
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
lượng và đổi âm sắc) và chọn các nơi vắng vẻ, kín 
đáo để tập luyện, tránh để người khác nghe thấy. 
Trái lại, “Cò ke ôống kháo” hoàn toàn không bị 
ảnh hưởng bởi những sự kiêng kỵ đó, các nghệ 
nhân có thể tập luyện, trình diễn ở bất cứ nơi 
nào mình muốn, gần đây họ còn biểu diễn “Cò 
ke ôống kháo” trên các sân khấu âm nhạc cộng 
đồng (văn nghệ xã, phường). Điều đó cho thấy 
rằng âm nhạc “Cò ke ôống kháo” không bị giới 
hạn trong không gian u buồn của đám tang hay 
chỉ dành riêng cho sự linh thiêng của các nghi lễ.
6 Họ đặc biệt yêu thích các ca khúc được các 
nhạc sĩ miền Bắc sáng tác trong thời kỳ kháng 
chiến (nhạc đỏ) và các ca khúc trữ tình (nhạc 
vàng). 
7 Chúng tôi đã kiểm chứng bằng cách ghi 
chép vài mẩu chuyện họ kể, sau đó 1 năm thì gợi 
lại với họ để đối chiếu, họ đã kể lại đúng như lần 
kể trước, điều đó cho thấy họ rất thật thà.
8 Tư liệu phỏng vấn nghệ nhân Bùi Văn X, Bùi 
Văn L ngày 9/7/2017.
9 Phỏng vấn các nghệ nhân đã gợi cho chúng 
tôi một manh mối rất thú vị, đó là quan hệ giữa 
nghệ nhân “Cò ke ôống kháo” và thầy Mo. Hai 
nhân vật này luôn xuất hiện cùng nhau ở các 
thực hành tín ngưỡng. Nghệ nhân “Cò ke ôống 
kháo” hơn ai hết là người nắm được những 
bí mật mà thầy Mo không muốn để lộ. Đối với 
những người dân Mường, nếu cần một sự phản 
biện thuyết phục với thầy Mo, thì nghệ nhân “Cò 
ke ôống kháo” hẳn là đối tượng có những nhận 
xét khách quan nhất. Nói cách khác, khi người 
ta hoài nghi về sự cần thiết của một thủ tục hay 
một nghi thức mà thầy Mo yêu cầu, họ sẽ kiểm 
chứng bằng cách hỏi ý kiến các nghệ nhân “Cò 
ke ôống kháo”. Như vậy, uy tín của một thầy Mo 
khá bị ảnh hưởng bởi những nhận xét đánh giá 
của các nghệ nhân “Cò ke ôống kháo”. Song vấn 
đề này chỉ xin tạm nêu ở đây mà chưa bàn luận 
hay lý giải thêm.
10 Điều này đã diễn ra liên tục trong hai năm 
gần đây 2018, 2019.
Tài liệu tham khảo
1. Jeanne Cuisinier (1948), Người Mường - Địa 
lý nhân văn và xã hội học, Bản dịch của Sở Văn hóa 
- Thông tin tỉnh Hòa Bình, tái bản lần thứ nhất 
năm 2007, Nxb. Lao động, Hà Nội.
2. Bùi Văn Kín, Mai Văn Trí, Nguyễn Phụng 
(1972), Góp phần tìm hiểu tỉnh Hòa Bình, Ty Văn 
hóa - Thông tin tỉnh Hòa Bình, Hòa Bình.
3. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa 
Việt Nam (2013), Luật di sản văn hóa (văn bản 
hợp nhất), Văn phòng Quốc hội, Hà Nội.
4. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt 
Nam, Nxb. Giáo dục, tái bản lần thứ hai, Hà Nội.
5. Hoàng Vinh (1999), Mấy vấn đề lý luận và 
thực tiễn xây dựng văn hóa ở nước ta, Nxb. Văn 
hóa - Thông tin và Viện Văn hóa, Hà Nội.
Ngày nhận bài: 4 - 4 - 2019
Ngày phản biện, đánh giá: 5 - 6 - 2019
Ngày chấp nhận đăng: 25 - 6 - 2019

File đính kèm:

  • pdfnghe_nhan_co_ke_oong_khao_trong_doi_song_cong_dong_muong_o_h.pdf