Nghệ nhân “Cò ke ôống kháo” trong đời sống cộng đồng Mường ở Hòa Bình
Âm nhạc dân gian Mường hiện còn lưu truyền một thể loại dàn nhạc có tên gọi “Cò ke ôống kháo”.
Các thành viên của dàn nhạc này là những người có năng khiếu bẩm sinh, có đam mê nghệ thuật và
phải trải qua một quá trình nỗ lực rèn luyện, tu dưỡng để trở thành nghệ nhân. Cộng đồng Mường kính
trọng họ, coi họ là những người tài giỏi, hiểu biết về phong tục tập quán. Nghệ nhân “Cò ke ôống kháo”
thuộc tầng lớp tinh hoa trong xã hội Mường, giữ vai trò quan trọng trong bảo tồn, phát huy và giáo dục
truyền thống văn hóa tộc người
Bạn đang xem tài liệu "Nghệ nhân “Cò ke ôống kháo” trong đời sống cộng đồng Mường ở Hòa Bình", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghệ nhân “Cò ke ôống kháo” trong đời sống cộng đồng Mường ở Hòa Bình

25Số 28 - Tháng 6 - 2019 DI SẢN VĂN HÓA NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA NGHỆ NHÂN “CÒ KE ÔỐNG KHÁO” TRONG ĐỜI SỐNG CỘNG ĐỒNG MƯỜNG Ở HÒA BÌNH TRẦN BẠCH DƯƠNG Tóm tắt Âm nhạc dân gian Mường hiện còn lưu truyền một thể loại dàn nhạc có tên gọi “Cò ke ôống kháo”. Các thành viên của dàn nhạc này là những người có năng khiếu bẩm sinh, có đam mê nghệ thuật và phải trải qua một quá trình nỗ lực rèn luyện, tu dưỡng để trở thành nghệ nhân. Cộng đồng Mường kính trọng họ, coi họ là những người tài giỏi, hiểu biết về phong tục tập quán. Nghệ nhân “Cò ke ôống kháo” thuộc tầng lớp tinh hoa trong xã hội Mường, giữ vai trò quan trọng trong bảo tồn, phát huy và giáo dục truyền thống văn hóa tộc người. Từ khóa: Cò ke ôống kháo, người Mường, âm nhạc dân gian, nghệ nhân dân gian Abstract Folk music of Muong ethnic minority circulates an orchestra called “Cò ke ôống kháo”. The members of this orchestra are innate gifted people who have a passion for art and must go through a process of training and attempting to become artisans. Muong community respects them, considers them as talented people, understanding customs and habits. The artisans of “Cò ke ôống kháo” belong to the elite class of Muong society, playing an important role in preserving, promoting and educating ethnic cultural traditions. Keywords: Cò ke ôống kháo, Muong people, folk music, folk artisans Đặt vấn đề Người Mường - tộc người bản địa ở vùng núi Tây Bắc Việt Nam, sinh sống tập trung nhiều nhất tại tỉnh Hòa Bình, nơi bắt đầu của địa hình núi đá kéo dài và cao dần về phía các tỉnh Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, tạo nên một miền Tây Bắc hùng vĩ. Người Mường coi Hòa Bình là quê hương, là vùng đất khởi sinh tộc người, kể cả người Mường sinh ra và lớn lên ở nơi khác cũng xem Hòa Bình như đất tổ của mình. Văn hóa Mường có nhiều điểm tương đồng với văn hóa Kinh, vì thế các nhà nghiên cứu tin vào giả thuyết rằng hai tộc người này chung một nguồn gốc, gọi là người tiền Việt - Mường. Theo giả thuyết này, vào khoảng thế kỷ VI - VIII, một bộ phận người tiền Việt - Mường di chuyển xuống sinh sống ở đồng bằng Bắc Bộ, tại đây họ liên tục tiếp xúc, giao lưu với các tộc người khác nên có sự biến đổi về văn hóa và trở thành người Kinh hiện nay [4, tr.29]. Người Mường là bộ phận tộc người ở lại vùng núi, ít tiếp xúc giao lưu nên vẫn còn giữ một số nét văn hóa cổ xưa từ thời tiền Việt - Mường. Ngày nay văn hóa Mường với bản sắc độc đáo trở nên đầy hấp dẫn đối với các nhà nghiên cứu và khách du lịch, người ta biết tới văn hóa Mường với nghệ thuật cồng chiêng, diễn xướng Mo,... hoặc chỉ đơn giản qua câu nói: “Cơm đồ, nhà gác, nước vác, lợn thui, ngày lui, tháng tới ”. Âm nhạc dân gian Mường hiện còn lưu truyền một thể loại dàn nhạc có tên gọi “Cò ke ôống kháo”. Xét theo Luật di sản văn hóa Số 28 - Tháng 6 - 201926 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA Việt Nam thì đây là một trường hợp thuộc di sản văn hóa phi vật thể [3]. Nó tồn tại trong mối liên hệ không tách rời giữa nghệ thuật âm nhạc và người trình diễn. Những người trình diễn đồng thời giữ vai trò bảo lưu và trao truyền nghệ thuật đó qua các thế hệ, họ được gọi là Nghệ nhân dân gian “Cò ke ôống kháo”. Bàn về yếu tố con người trong di sản văn hóa, GS.TS. Hoàng Vinh đã viết: “Di sản văn hóa phi vật thể bao gồm các thể loại văn hóa nghệ thuật chủ yếu sau đây: Âm nhạc, ca múa, sân khấu, ngôn ngữ, truyền thuyết, huyền thoại, lễ hội, nghi lễ, phong tục, tập quán, y học dân tộc, nghệ thuật nấu ăn, bí quyết trong sản xuất đồ thủ công mỹ nghệ. Có thể ghi nhận vào đây cả “nghệ nhân dân gian”, người đang nắm các bí quyết này, cũng được xem là tài sản văn hóa. Trong đạo luật “Bảo tồn các tài sản văn hóa” của nước Nhật Bản, lớp nghệ nhân dân gian kể trên được gọi là “Kho báu sống” [5, tr.110]. Cách gọi “Kho báu sống” đã cho thấy đặc trưng của nghệ nhân dân gian dưới góc nhìn văn hóa, những con người đang sống, vừa là chủ thể vừa là thành phần của một di sản văn hóa. Điều đó cũng cảnh báo sự khó khăn trong việc chọn cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu phù hợp. Bài viết giới thiệu một cái nhìn tổng thể về các nghệ nhân “Cò ke ôống kháo”, qua khảo sát, nghiên cứu ở 03 điểm thuộc tỉnh Hòa Bình: 1) Xã Sủ Ngòi, thành phố Hòa Bình; 2) Xã Phong Phú, huyện Tân Lạc; 3) Xã Nhân Nghĩa, huyện Lạc Sơn. Thông tin được tổng hợp từ các quan sát về thân phận và cuộc sống hàng ngày, những ý kiến từ phía cộng đồng và lời bộc bạch của bản thân các nghệ nhân “Cò ke ôống kháo”. 1. Vài nét về dàn nhạc “Cò ke ôống kháo” “Cò ke ôống kháo” hiểu theo nghĩa đen là từ ghép của tên gọi hai nhạc khí: “Cò ke” và “ôống kháo” (đàn nhị và sáo trúc). Đây là hai nhạc khí chủ chốt không thể thiếu trong dàn nhạc này, vì chúng diễn tấu giai điệu chính. Bên cạnh đó, người ta thường bổ sung thêm các nhạc khí khác như: trống con, chũm chọe, đàn tam, đàn bầu,... tùy theo điều kiện cho phép1. “Cò ke ôống kháo” được trình diễn trong đám tang và lễ hội, tại đây nó phục cho các nghi lễ tín ngưỡng2. Ngoài ra, người Mường còn dùng nó để giải trí ở những dịp vui như: gặp mặt ngày xuân, sau tiệc rượu, các cuộc trò chuyện trong đêm khuya. Cách đây vài chục năm, người ta còn thấy “Cò ke ôống kháo” xuất hiện tại đám cưới ở Kim Bôi và Lạc Thủy, tuy nhiên hiện nay không còn thấy nữa. Biên chế một dàn nhạc “Cò ke ôống kháo” khá linh hoạt, thông thường tại tang lễ chỉ từ 3 - 5 người, vào các dịp vui hoặc tham gia lễ hội thì số lượng thường nhiều hơn, có thể lên đến hơn 10 người. Mỗi dàn nhạc có một người trưởng nhóm, người này sẽ đại diện cho nhóm nhạc để làm các công việc chung như: tiếp nhận và xếp lịch công việc, thương thảo tiền công, tổ chức họp nhóm, phân công nhiệm vụ cho các thành viên khác. Người trưởng nhóm được lựa chọn, suy tôn với hai tiêu chí: Thứ nhất là người giỏi chuyên môn, sử dụng được nhiều nhạc khí và thông thạo các bài bản âm nhạc “Cò ke ôống kháo”; thứ hai phải là người trung thực, có uy tín trong cộng đồng3. Hiện nay, “Cò ke ôống kháo” khá phổ biến trong cộng đồng Mường ở Hòa Bình, mỗi xã thường có từ 1 - 3 dàn nhạc. Thông tin cụ thể tại 03 xã mà chúng tôi chọn khảo sát: Xã Sủ Ngòi có 1 dàn nhạc, số lượng nghệ nhân là 5 người; xã Phong Phú có 3 dàn nhạc ở xóm Lầm, xóm Ải và xóm Mận, tổng số nghệ nhân là 10 người; xã Nhân Nghĩa có 03 dàn nhạc ở xóm Vó trên, Vó giữa và xóm Bưng, tổng số nghệ nhân là 12 người. Số nghệ nhân ở mỗi xã có lẽ còn nhiều hơn, thống kê trên là những người thường xuyên tham gia dàn nhạc “Cò ke ôống kháo”, còn lại một số nghệ nhân khác ít tham gia, vì những lý do như: bận công việc, hoặc sức khỏe yếu do tuổi đã cao 27Số 28 - Tháng 6 - 2019 DI SẢN VĂN HÓA NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA 2. Quá trình trở thành nghệ nhân “Cò ke ôống kháo” Trình diễn “Cò ke ôống kháo” không phải là nghề gia truyền, chỉ có một vài nghệ nhân kế tục nghề từ những người ruột thịt. Trong thực tế thì ai cũng có thể trở thành nghệ nhân “Cò ke ôống kháo” nếu có đủ các điều kiện: Năng khiếu, niềm đam mê, đạo đức tốt và lối ứng xử đúng mực. Đó là những yếu tố lần lượt xuất hiện qua từng giai đoạn để một người bình thường trở thành nghệ nhân “Cò ke ôống kháo”. Trước tiên, người học phải có năng khiếu âm nhạc, đây là tố chất mà mỗi người có được từ bẩm sinh, thể hiện qua khả năng cảm nhận cao độ, tiết tấu và ghi nhớ giai điệu âm nhạc. Các nghệ nhân vốn là những người chân chất, mộc mạc, họ giải thích về tố chất này bằng từ khéo: “Cái món này không phải cứ thích là làm được đâu, người khéo thì chỉ cần nghe, nhìn đã làm theo được rồi! Anh nào không khéo thì dù có chỉ tận tay, gí vào đầu, học cả đời vẫn làm sai, không theo nghề được” (PVS Nghệ nhân Bùi Văn N, ở Tân Lạc). Vì vậy, trước khi nhận học trò để truyền dạy, các nghệ nhân bao giờ cũng chú ý tới yếu tố này. Nếu người học không có năng khiếu, họ sẽ thẳng thắn từ chối, vì “cứ nể nang mà nhận dạy, rồi cũng chẳng học được thành nghề đâu” (PVS Nghệ nhân Bùi Văn T, ở Sủ Ngòi). Trường hợp nghệ nhân Bùi Văn X, trưởng nhóm “Cò ke ôống kháo” ở Sủ Ngòi, có con trai là Bùi Văn H (sinh 1992), hiện đang thất nghiệp, ở nhà giúp cha mẹ làm việc đồng áng. Mặc dù ông X đang dạy “Cò ke ôống kháo” cho một người cùng xóm, nhưng ông không truyền nghề cho con trai mình. Lý do rất đơn giản: “Cháu không có năng khiếu nên không học được”. Nếu năng khiếu âm nhạc là yếu tố đầu tiên phải có, thì niềm đam mê đối với âm nhạc “Cò ke ôống kháo” là yếu tố thứ hai, nó là động lực xuyên suốt giúp cho người học vượt qua quá trình khổ luyện, tu dưỡng. Nghệ nhân Bùi Văn T (ở Tân Lạc, sinh năm 1943) cho biết, ông đã “mê” âm nhạc “Cò ke ôống kháo” ngay từ lần đầu được nghe, khi mới 12 tuổi. Ông về nhà tự làm cò ke (đàn nhị), cắt đoạn tre làm thùng đàn, dùng da ếch căng mặt đàn, làm xong còn chẳng biết lên dây cho đúng. Với chiếc đàn tự tạo đó, ông hăng hái theo các đàn anh để học “Cò ke ôống kháo” và trở thành một nghệ nhân giỏi. Nay tuổi đã cao, ông vẫn thường xuyên tham gia dàn nhạc “Cò ke ôống kháo”, ông nói: “cái này nó ngấm vào máu rồi, nếu không được chơi thường xuyên, tôi cảm thấy thiêu thiếu gì đó”. Cuối cùng, sau khi học đủ các bài bản “Cò ke ôống kháo”, để có một vị trí chính thức trong dàn nhạc “Cò ke ôống kháo” và được cộng đồng công nhận, người học “Cò ke ôống kháo” phải đạt tiêu chuẩn thứ ba, đó là có lối sống lành mạnh, biết ứng xử đúng chuẩn mực tại các không gian tôn nghiêm như lễ hội, lễ tang. Vì tiêu chuẩn này mà có người từng bị “thử thách” đến hàng chục năm, cũng có người vì liên tiếp cư xử sai mà bị loại bỏ. Chẳng hạn như trường hợp của nghệ nhân Bùi Văn K ở Sủ Ngòi. Ông có tật hay uống rượu say và quấy nhiễu, nhiều lần giữa lễ tang ông lè nhè trêu chọc mọi người (chọc cả dùi trống vào người đến viếng), vì thế bị cộng đồng chê trách, những người cùng nhóm nhạc cũng dần tránh né không mời tham gia nữa. 3. Cuộc sống hàng ngày của nghệ nhân “Cò ke ôống kháo” Đời sống kinh tế Chơi nhạc “Cò ke ôống kháo” là công việc không thường xuyên, nguồn thu nhập đến từ phục vụ lễ tang rất ít ỏi và không ổn định. Nghệ nhân Bùi Văn T ở Tân Lạc cho biết: “Thời gian trước, tại đám tang thầy Mo được chia 1 vai thịt lợn (tức là ¼ con lợn), người thổi kèn nhận được chiếc thủ lợn, nghệ nhân “Cò ke ôống kháo” chỉ được chia một phần thịt nhỏ khoảng 1kg, thay cho lời cảm ơn của tang chủ”. Số 28 - Tháng 6 - 201928 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA Nguyên tắc trả công này được giải thích như sau: Thứ nhất, thầy và thợ là hai vị trí khác nhau4, thầy Mo nhận công nhiều hơn thợ kèn, thợ đàn; Thứ hai, thợ kèn được trả công cao hơn thợ đàn (tức “Cò ke ôống kháo”), vì công việc của người thổi kèn được cho là nặng nhọc, vất vả hơn. Người Mường quan niệm rằng các bản nhạc được trình bày bằng âm sắc của chiếc kèn mới là âm nhạc nghi lễ và chỉ dành riêng cho nghi lễ5. Dàn nhạc “Cò ke ôống kháo” mặc dù xuất hiện ở đám tang, nhưng có vai trò hỗ trợ cho giai điệu của kèn, hoặc chơi độc lập các bài bản “Cò ke ôống kháo” khi chiếc kèn tạm nghỉ (đêm khuya, hoặc lúc gia đình tang chủ dùng bữa). Ngày nay, việc trả công được thay bằng tiền mặt, thầy Mo: 1,5 - 2 triệu; thợ kèn: 700 - 800 ngàn; nghệ nhân “Cò ke ôống kháo” chỉ được nhận khoảng 400 - 500 ngàn cho một lần phục vụ tang lễ. Tất nhiên đó không thể là một khoản thu nhập thường xuyên, cũng chẳng đủ để duy trì cuộc sống, như một nghệ nhân đã nói: “Đủ tiền để uống trà, hút thuốc thôi” (PVS nghệ nhân Bùi Văn T ở Tân Lạc). Nghệ nhân “Cò ke ôống kháo” không nhận thù lao khi phục vụ lễ hội, vì đó là nhiệm vụ được xem là vinh dự mà cộng đồng lựa chọn giao phó, nên họ tự nguyện tham gia với một tâm thế nhiệt tình và thành kính. Sau cùng, họ sẽ được Ban tổ chức lễ hội mời một bữa cơm “thụ lộc” từ những đồ cúng. Bởi lý do nêu trên mà “Cò ke ôống kháo” không thể trở thành một nghề mưu sinh và các nghệ nhân phải mưu sinh bằng một nghề khác. Tuy nhiên, khảo sát về nghề mưu sinh của họ lại mang cho chúng tôi những kết quả rất bất ngờ và thú vị. Hóa ra các nghệ nhân “Cò ke ôống kháo” thường làm những nghề đòi hỏi có trí thông minh và sự khéo léo. Một số người làm việc trí óc như: Chủ tịch xã, cán bộ văn hóa, kế toán, giáo viên trung học phổ thông, số khác làm những việc cần kỹ năng khéo léo, có tay nghề như: Lái máy cẩu chuyên dụng, thợ mộc, nhạc công organ, công nhân nhà máy Thủy điện Hòa Bình Những nghề này giúp họ có đời sống kinh tế khá ổn định so với mức sống chung của cộng đồng, thường ở mức trung bình trở lên. Sở thích và lối sống Thưởng thức âm nhạc là sở thích chung của các nghệ nhân “Cò ke ôống kháo”. Vật dụng phổ biến tại nhà riêng của họ là bộ thiết bị nghe nhạc, những dàn âm thanh không đắt tiền, công suất trung bình (40 - 60W), chúng thường được bày đặt ở không gian để tiếp khách, gần bàn uống trà. Tất cả ở trong trạng thái hoạt động tốt, điều đó chứng tỏ chúng được sử dụng và tu sửa thường xuyên. Âm nhạc mà họ thích nghe là các ca khúc Việt Nam được sáng tác trong nửa cuối thế kỷ XX6. Giai điệu của chúng đôi khi còn được họ trình diễn bằng “Cò ke ôống kháo” trong những lúc cao hứng. Các nghệ nhân “Cò ke ôống kháo” có một điểm chung trong lối sống: rất hướng ngoại và có nhiều mối quan hệ trong cộng đồng. Điều này dễ dàng nhận thấy qua thái độ hiếu khách và sự chân thành. Họ cởi mở, thích được làm quen với người lạ, sẵn sàng chia sẻ mọi câu chuyện đời thường của mình khá thoải mái nhưng không “vẽ chuyện làm quà”7. Có lẽ thái độ hiếu khách, sự chân thành cùng với công việc “Cò ke ôống kháo” khiến họ có nhiều mối quan hệ trong cộng đồng. Khảo sát cho thấy hầu như mỗi người dân Mường đều biết và giao thiệp với một vài nghệ nhân “Cò ke ôống kháo” trong vùng. Họ cùng có thói quen chung phổ biến trong cộng đồng Mường là uống rượu. Nhưng họ luôn uống có chừng mực, vì hầu như không có phản ánh hay than phiền về việc các nghệ nhân “Cò ke ôống kháo” say xỉn, có lẽ bởi công việc “Cò ke ôống kháo” đòi hỏi sự nghiêm túc và tỉnh táo. Tuy nhiên, uống vài chén rượu khi gặp mặt nhóm nhạc vẫn là chuyện diễn ra 29Số 28 - Tháng 6 - 2019 DI SẢN VĂN HÓA NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA thường xuyên. Họ luôn sẵn lòng tổ chức tại nhà riêng một bữa cơm rượu đãi khách hay họp nhóm “Cò ke ôống kháo”; họ cũng rất vui lòng nhận lời mời dùng cơm ở nhà của một thành viên trong nhóm. Các bữa ăn này mang lại cho họ sự gắn kết và tình thân, hơn nữa sau đó thường là những khoảnh khắc ngẫu hứng để họ chơi đàn với nhau. Tập luyện và truyền dạy nghề Việc tập luyện và truyền dạy nghề thường diễn ra sau bữa ăn tối, khi các công việc hàng ngày đã kết thúc. Các nghệ nhân tập hợp tại nhà của một thành viên trong nhóm và hòa tấu các bản “Cò ke ôống kháo” với nhau. Sau mỗi bản nhạc, họ thường dừng lại để trao đổi, góp ý cho nhau về ngón đàn, rồi nói chuyện tâm tình. Đây cũng là thời gian họ sẽ truyền dạy bài bản, ngón đàn cho các học trò. Học trò chẳng của riêng ai, họ có thể học ở mỗi người một ít. Thầy dạy thì không bao giờ thu học phí, thường chỉ thấy học trò tự nguyện chăm lo trà thuốc, hoặc biếu thầy vài lít rượu, thế là đủ. Ngoài ra, học trò còn được đi cùng các nghệ nhân để thực tập trong các dịp trình diễn “Cò ke ôống kháo”. Việc học có thể kéo dài hoặc rút ngắn tùy theo khả năng của học trò, những người học giỏi thường thành nghề sau 2 - 3 năm, có những trường hợp lâu hơn như nghệ nhân Bùi Văn L (ở Sủ Ngòi) học hơn 10 năm mới được hành nghề. Ông L kể lại rằng, ngày đó ông rất khéo, học nhanh tiến bộ, nhưng ham chơi, không chú tâm tập luyện, vì vậy các thầy phải cân nhắc mãi mới cho phép ông đi làm nghề. Chuyện này cho thấy đam mê với nghề và đạo đức của người học là tiêu chí cơ bản để thầy dạy quyết định có truyền nghề hay không. Các nghệ nhân luôn dặn học trò phải xem đây là việc làm phước, không cầu lợi, cần có thành tâm và biết chia sẻ. Người làm nghề cần có lối sống giản dị, tránh khoác lác, khoa trương và đặc biệt không được gian dối. Chúng tôi còn ghi nhận được ở Sủ Ngòi có 2 người bị thầy “đuổi” không dạy nữa vì thiếu thật thà8. 4. Vị thế của nghệ nhân “Cò ke ôống kháo” trong đời sống cộng đồng Khi đề cập tới “Cò ke ôống kháo”, chúng tôi ghi nhận các ý kiến từ cộng đồng Mường như sau: - “Cò ke ôống kháo” à! Món đó không dễ đâu, phải khéo mới làm được! - Ông ấy khéo đấy! Biết chơi “Cò ke ôống kháo” cơ mà! - Anh ấy thông minh lắm! Việc gì cũng làm được, biết chơi cả “Cò ke ôống kháo”! “Cò ke ôống kháo” gắn bó với đời sống cộng đồng Mường. Không ít người dân Mường đã từng một lần thử làm quen với các nhạc khí “Cò ke ôống kháo”, nhưng phần lớn sẽ nhanh chóng bỏ cuộc sau khi nhận ra rằng đó không phải là việc dễ dàng. Âm nhạc cần sự khéo léo hơn là sức mạnh cơ bắp, hơn nữa, kể cả người khéo léo nhất cũng phải trải qua một thời gian tập luyện mới có thể thành nghề. Vì thế, việc biết chơi “Cò ke ôống kháo” đôi khi trở thành một tiêu chí để người ta đánh giá về năng lực con người. Và nghệ nhân “Cò ke ôống kháo” mặc nhiên được coi là những người thông minh, khéo léo. Khác với năng lực của ông Mo, ông T’lượng hay bà Mỡi (những người thực hành tâm linh và được cộng đồng tin rằng có năng lực thần bí), nghệ nhân “Cò ke ôống kháo” mang tố chất của con người, trở thành tài nghệ qua rèn luyện. Quan niệm đó thể hiện qua cách ứng xử của cộng đồng với nghệ nhân “Cò ke ôống kháo”, người ta không cần phải tỏ ra cung kính, thậm chí có chút e sợ như với ông Mo, ông T’lượng, song người Mường luôn kính trọng và thường có mối quan hệ khá thân mật, gần gũi với nghệ nhân “Cò ke ôống kháo”. Tính chất công việc của nghệ nhân “Cò ke ôống kháo” luôn gắn với các sự kiện trong xã hội, từ việc thờ cúng chung (lễ hội), hay việc Số 28 - Tháng 6 - 201930 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA riêng của mỗi gia đình (lễ tang, đám giỗ). Họ không chỉ thường xuyên tham gia mà như đã trở thành một phần của các sự kiện ấy, điều đó đòi hỏi họ phải biết và tuân thủ đúng theo quy tắc và trình tự của các nghi lễ. Trong đám tang, mỗi khi ông Mo thực hành một nghi lễ thì dàn nhạc “Cò ke ôống kháo” sẽ chơi một bản nhạc phù hợp với nghi lễ đó. Thêm nữa, họ phải biết cách điều chỉnh để kéo dài hơn hoặc rút ngắn bản nhạc tùy theo thời gian của một nghi lễ đang diễn ra, sao cho nghi lễ kết thúc thì bản nhạc cũng dừng. Sự kiêng kỵ trong tang ma được các nghệ nhân tuân thủ rất nghiêm cẩn. Ở Mường Vang còn lưu truyền một bản nhạc tên là “Mo trâu”, được tấu lên khi gia chủ dâng mâm cúng thịt trâu cho tinh linh người chết. Thực ra, việc dâng cúng thịt trâu là thủ tục phổ biến ở thời gian trước, khi mà các trình tự của tang ma Mường còn rất rườm rà. Người Mường tin rằng nếu tấu bản nhạc này mà không có mâm cúng thịt trâu thì sẽ mắc lỗi với người chết. Nhưng ở thời điểm hiện nay, không phải gia đình nào cũng có điều kiện để cúng thịt trâu, vì vậy bài “Mo trâu” ngày càng ít được sử dụng đến nỗi đang có nguy cơ thất truyền. Trong quá trình sưu tầm tài liệu, chúng tôi đã rất khó khăn để thuyết phục các nghệ nhân “Cò ke ôống kháo” trình tấu bản nhạc này. Cuối cùng họ miễn cưỡng thực hiện sau khi hướng về phía cửa sổ (cửa vóng) lầm rầm vài câu xin phép. Do tính chất công việc nên họ là những người được nhiều người biết đến và có nhiều mối quan hệ trong cộng đồng, nhất là với các già làng, trưởng bản. Những mối quan hệ đó mang lại cho họ nhiều kiến thức về cuộc sống và cơ hội trong công việc. Vì vậy, nghệ nhân “Cò ke ôống kháo” trở thành người được cộng đồng tin tưởng để tham khảo ý kiến về nghi lễ hay phong tục tập quán9. Như vậy có thể thấy, nghệ nhân “Cò ke ôống kháo” đã khẳng định được vị thế của mình trong đời sống cộng đồng Mường. Họ được cộng đồng kính trọng và yêu quý không chỉ bởi là những người trực tiếp giữ gìn và phát huy di sản âm nhạc dân gian Mường, mà còn bởi tư chất thông minh, khéo léo, am hiểu phong tục tập quán và hiểu biết xã hội, có kinh nghiệm trong đối nhân xử thế... 5. Một số vấn đề đặt ra hiện nay Nghệ nhân “Cò ke ôống kháo” vừa là chủ thể, vừa là thành phần của một di sản văn hóa nghệ thuật. Họ đang ngày một già đi theo quy luật của cuộc sống, một khi họ từ giã cuộc sống này mà chưa kịp trao truyền cho thế hệ sau, vốn cổ nghệ thuật đó sẽ theo họ về thế giới bên kia. Nhiều nghệ nhân đã bày tỏ với chúng tôi sự lo lắng vì không tìm được người để truyền nghề, bởi hiện nay giới trẻ người Mường không mấy quan tâm đến nghệ thuật “Cò ke ôống kháo”. Bên cạnh đó, ý kiến của các nghệ nhân đôi khi còn bị xem nhẹ. Tại lễ hội khai hạ Đình Ngòi, xã Sủ Ngòi, ban tổ chức đã yêu cầu các nghệ nhân “Cò ke ôống kháo” tập và chơi bản nhạc “Lưu thủy” của người Kinh thay thế các bản nhạc “Cò ke ôống kháo” truyền thống, mặc cho họ phản đối một cách yếu ớt10. Có lễ hội thì lại thu thanh sẵn các bản nhạc cồng chiêng và “Cò ke ôống kháo”. Điều đó cho thấy nhận thức của một số cán bộ văn hóa cấp cơ sở còn hạn chế, vô tình làm ảnh hưởng đến sự tồn vong của một loại hình nghệ thuật mang bản sắc dân tộc Mường. Để bảo vệ di sản văn hóa này, chúng tôi cho rằng giải pháp thiết thực nhất là chú trọng nâng cao trình độ nhận thức của các cán bộ văn hóa ở cơ sở. Họ, hơn ai hết phải hiểu được giá trị của các yếu tố văn hóa bản địa mà họ đang tiếp xúc, gần gũi và biết tôn trọng ý kiến của các nghệ nhân. Trên nền tảng đó họ sẽ có những hành động tuyên truyền hiệu quả về giá trị di sản văn hóa, tạo chuyển biến tích cực trong nhận thức của cộng đồng Mường. 31Số 28 - Tháng 6 - 2019 DI SẢN VĂN HÓA NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA Khi thế hệ trẻ người Mường hiểu và biết trân trọng văn hóa nghệ thuật dân gian, muốn học tập và gìn giữ nó, thì các nghệ nhân “Cò ke ôống kháo” sẽ không còn phải lo lắng về việc truyền nghề. Kết luận Con người là tổng hòa của các mối quan hệ xã hội, vì thế muốn làm rõ chân dung một nhân vật có vị trí nhất định trong xã hội như nghệ nhân “Cò ke ôống kháo”, thì việc xem xét một cách tổng thể là điều cần thiết. Từ nhiều góc độ mô tả khác nhau, bài viết mong muốn nhận diện một cách khách quan, chân thực về nghệ nhân “Cò ke ôống kháo” trong xã hội Mường ở Hòa Bình. Thứ nhất, mặc dù “Cò ke ôống kháo” không phải nghề gia truyền, nhưng để trở thành nghệ nhân “Cò ke ôống kháo”, người học phải có năng khiếu bẩm sinh, có đủ đam mê để khổ luyện, và cuối cùng là tu dưỡng đạo đức để được xã hội công nhận. Thứ hai, trong đời sống văn hóa cộng đồng Mường, nghệ nhân “Cò ke ôống kháo” là những người giản dị, chân thật, am tường phong tục tập quán, say mê âm nhạc dân gian như một thú vui tao nhã. Nghệ nhân “Cò ke ôống kháo” là một kiểu “nhân cách văn hóa”, một vị trí ít được chú ý, nhưng luôn hiện hữu trong xã hội Mường. Người Mường kính trọng họ, coi họ là những người tài giỏi, am hiểu về phong tục tập quán và có uy tín trong cộng đồng. Thứ ba, các nghệ nhân “Cò ke ôống kháo” đã tạo nên một tổ chức, có người đứng đầu và các thành viên, có các hoạt động cụ thể (trình diễn, tập luyện, trao truyền). Trong đó, nội dung tập luyện gắn với truyền dạy “Cò ke ôống kháo” là một sinh hoạt tinh thần mang giá trị văn hóa, giáo dục sâu sắc. Đó chính là hiện thực của hoạt động bảo lưu và sáng tạo truyền thống từ các nghệ nhân dân gian Mường. Thứ tư, cùng với những nhân vật khác như: thầy Mo, thầy Thường, ông T’lượng, bà Mỡi, các nghệ nhân “Cò ke ôống kháo” đã góp phần tạo nên một bộ khung của tầng lớp tinh hoa trong xã hội, góp phần bảo lưu, phát huy và giáo dục truyền thống văn hóa Mường. Trong xu hướng biến đổi và hội nhập văn hóa hiện nay, rất cần trân trọng và phát huy vai trò xã hội của các nghệ nhân dân gian như nghệ nhân “Cò ke ôống kháo”, không chỉ ở tài năng nghệ thuật mà còn ở vốn văn hóa truyền thống mà họ đang lưu giữ, thực hành và giáo dục cho cộng đồng, góp phần bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc Mường . T.B.D (ThS., Khoa Văn hóa học, Trường ĐHVHHN) Chú thích 1 Không có quy ước, giới hạn cụ thể về số lượng nhạc khí tham gia dàn nhạc. Thông thường, dàn nhạc “Cò ke ôống kháo” có ít hơn 10 nhạc khí. Nhưng số lượng người tham gia có thể lên tới 15 người hoặc hơn bằng cách tăng gấp đôi, gấp ba số người chơi cùng một loại nhạc khí. 2 Jean Cusinier là người có những ghi chép sớm nhất về “Cò ke ôống kháo”, trong cuốn Người Mường - Địa lý nhân văn và xã hội học, xuất bản lần đầu bằng tiếng Pháp năm 1948 [1, tr.679-680]. 3 Đã có trường hợp người trưởng nhóm bị “khai trừ” do vi phạm các tiêu chuẩn đạo đức, đó là câu chuyện của nghệ nhân Bùi Văn T, vốn là trưởng nhóm “Cò ke ôống kháo” ở xã Sủ Ngòi. Ông rất giỏi nghề, nhưng vì hay bớt xén tiền công của các thành viên khác nên đã bị tẩy chay và mời ra khỏi nhóm. 4 Người Mường phân biệt rõ qua cách gọi: thầy Mo, thợ kèn, thợ đàn. 5 Điều này thể hiện qua sự kiêng kỵ đối với chiếc kèn, người Mường cho rằng tiếng kèn đám là điềm báo của sự xúi quẩy, một tín hiệu của cái chết. Vì thế người học kèn đám thường phải lắp dăm kèn vào chiếc ống nứa nhỏ (nhằm giảm âm Số 28 - Tháng 6 - 201932 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA lượng và đổi âm sắc) và chọn các nơi vắng vẻ, kín đáo để tập luyện, tránh để người khác nghe thấy. Trái lại, “Cò ke ôống kháo” hoàn toàn không bị ảnh hưởng bởi những sự kiêng kỵ đó, các nghệ nhân có thể tập luyện, trình diễn ở bất cứ nơi nào mình muốn, gần đây họ còn biểu diễn “Cò ke ôống kháo” trên các sân khấu âm nhạc cộng đồng (văn nghệ xã, phường). Điều đó cho thấy rằng âm nhạc “Cò ke ôống kháo” không bị giới hạn trong không gian u buồn của đám tang hay chỉ dành riêng cho sự linh thiêng của các nghi lễ. 6 Họ đặc biệt yêu thích các ca khúc được các nhạc sĩ miền Bắc sáng tác trong thời kỳ kháng chiến (nhạc đỏ) và các ca khúc trữ tình (nhạc vàng). 7 Chúng tôi đã kiểm chứng bằng cách ghi chép vài mẩu chuyện họ kể, sau đó 1 năm thì gợi lại với họ để đối chiếu, họ đã kể lại đúng như lần kể trước, điều đó cho thấy họ rất thật thà. 8 Tư liệu phỏng vấn nghệ nhân Bùi Văn X, Bùi Văn L ngày 9/7/2017. 9 Phỏng vấn các nghệ nhân đã gợi cho chúng tôi một manh mối rất thú vị, đó là quan hệ giữa nghệ nhân “Cò ke ôống kháo” và thầy Mo. Hai nhân vật này luôn xuất hiện cùng nhau ở các thực hành tín ngưỡng. Nghệ nhân “Cò ke ôống kháo” hơn ai hết là người nắm được những bí mật mà thầy Mo không muốn để lộ. Đối với những người dân Mường, nếu cần một sự phản biện thuyết phục với thầy Mo, thì nghệ nhân “Cò ke ôống kháo” hẳn là đối tượng có những nhận xét khách quan nhất. Nói cách khác, khi người ta hoài nghi về sự cần thiết của một thủ tục hay một nghi thức mà thầy Mo yêu cầu, họ sẽ kiểm chứng bằng cách hỏi ý kiến các nghệ nhân “Cò ke ôống kháo”. Như vậy, uy tín của một thầy Mo khá bị ảnh hưởng bởi những nhận xét đánh giá của các nghệ nhân “Cò ke ôống kháo”. Song vấn đề này chỉ xin tạm nêu ở đây mà chưa bàn luận hay lý giải thêm. 10 Điều này đã diễn ra liên tục trong hai năm gần đây 2018, 2019. Tài liệu tham khảo 1. Jeanne Cuisinier (1948), Người Mường - Địa lý nhân văn và xã hội học, Bản dịch của Sở Văn hóa - Thông tin tỉnh Hòa Bình, tái bản lần thứ nhất năm 2007, Nxb. Lao động, Hà Nội. 2. Bùi Văn Kín, Mai Văn Trí, Nguyễn Phụng (1972), Góp phần tìm hiểu tỉnh Hòa Bình, Ty Văn hóa - Thông tin tỉnh Hòa Bình, Hòa Bình. 3. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Luật di sản văn hóa (văn bản hợp nhất), Văn phòng Quốc hội, Hà Nội. 4. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb. Giáo dục, tái bản lần thứ hai, Hà Nội. 5. Hoàng Vinh (1999), Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng văn hóa ở nước ta, Nxb. Văn hóa - Thông tin và Viện Văn hóa, Hà Nội. Ngày nhận bài: 4 - 4 - 2019 Ngày phản biện, đánh giá: 5 - 6 - 2019 Ngày chấp nhận đăng: 25 - 6 - 2019
File đính kèm:
nghe_nhan_co_ke_oong_khao_trong_doi_song_cong_dong_muong_o_h.pdf