Nẹp khoá: một lựa chọn điều trị gãy liên mấu chuyển xương đùi loại a2 theo phân loại ao

Đặt vấn đề: Gãy liên mấu chuyển xương đùi loại A2 theo phân loại AO hiện

chưa có quan điểm thống nhất trong điều trị.

Mục tiêu: Đánh giá kết quả sử dụng nẹp khóa cho loại gãy A2 (AO) kèm phục hồi trụ sau.

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Chúng tôi tiền cứu mô tả hàng loạt ca, 26 trường hợp gãy liên

mấu chuyển xương đùi loại A2 vào viện tại khoa Chấn thương chỉnh hình bệnh viện Đa khoa tỉnh Trà Vinh từ

03/2019 đến tháng 04/2020.

Kết quả: Tuổi trung bình 70,6 ± 16,0 (32 - 90), nữ 65,4%, A2.3 46,3%; A2.2 30,8% và A2.1 23,1%. 2/26

trường hợp tử vong sau mổ do bệnh lý nội khoa được loại trừ. Tỉ lệ lành xương 24/24, góc cổ thân giảm trung

bình 3,8 ± 7,30 (p=0,1303 >0,05), 1/24 huỷ vỏ cổ chỏm. 20/24 bệnh nhân (83,4%) có điểm Harris - Hip ở mức

“Tốt” hoặc “Rất tốt”, Điểm hệ số chất lượng cuộc sống trung bình là 0,89 ± 0,11 (0,65 - 1,00).

Kết luận: Kết hợp xương nẹp khóa kèm phục hồi trụ sau trong cho gãy liên mấu chuyển xương đùi loại A2

an toàn, biến chứng thấp, tỉ lệ liền xương cao, phục hồi chức năng nhanh.

pdf 8 trang phuongnguyen 200
Bạn đang xem tài liệu "Nẹp khoá: một lựa chọn điều trị gãy liên mấu chuyển xương đùi loại a2 theo phân loại ao", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nẹp khoá: một lựa chọn điều trị gãy liên mấu chuyển xương đùi loại a2 theo phân loại ao

Nẹp khoá: một lựa chọn điều trị gãy liên mấu chuyển xương đùi loại a2 theo phân loại ao
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 72
NẸP KHOÁ: MỘT LỰA CHỌN ĐIỀU TRỊ 
GÃY LIÊN MẤU CHUYỂN XƯƠNG ĐÙI LOẠI A2 THEO PHÂN LOẠI AO 
Đỗ Phước Hùng1, Dương Thanh Bình2 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Gãy liên mấu chuyển xương đùi loại A2 theo phân loại AO hiện 
chưa có quan điểm thống nhất trong điều trị. 
Mục tiêu: Đánh giá kết quả sử dụng nẹp khóa cho loại gãy A2 (AO) kèm phục hồi trụ sau. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Chúng tôi tiền cứu mô tả hàng loạt ca, 26 trường hợp gãy liên 
mấu chuyển xương đùi loại A2 vào viện tại khoa Chấn thương chỉnh hình bệnh viện Đa khoa tỉnh Trà Vinh từ 
03/2019 đến tháng 04/2020. 
Kết quả: Tuổi trung bình 70,6 ± 16,0 (32 - 90), nữ 65,4%, A2.3 46,3%; A2.2 30,8% và A2.1 23,1%. 2/26 
trường hợp tử vong sau mổ do bệnh lý nội khoa được loại trừ. Tỉ lệ lành xương 24/24, góc cổ thân giảm trung 
bình 3,8 ± 7,30 (p=0,1303 >0,05), 1/24 huỷ vỏ cổ chỏm. 20/24 bệnh nhân (83,4%) có điểm Harris - Hip ở mức 
“Tốt” hoặc “Rất tốt”, Điểm hệ số chất lượng cuộc sống trung bình là 0,89 ± 0,11 (0,65 - 1,00). 
Kết luận: Kết hợp xương nẹp khóa kèm phục hồi trụ sau trong cho gãy liên mấu chuyển xương đùi loại A2 
an toàn, biến chứng thấp, tỉ lệ liền xương cao, phục hồi chức năng nhanh. 
Từ khóa: gãy đầu trên xương đùi, nẹp khóa 
ABSTRACT 
LOCKING PLATE AN ALTERNATIVE FOR TREATENT 
OF AO TYPE A2 PROXIMAL FEMORAL FRACTURE 
Do Phuoc Hung, Duong Thanh Binh 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 25 - No 1 - 2021: 72 - 79 
Background: There is currently no consensus on treatment of AO type A2 proximal femoral fracture. 
Determining the implant should be used is still controversial. 
Objectives: To determine the effectiveness of using locking plate with fixed lesser trochanter for the 
treatment of this type of fracture. Using locking plate with fixed lesser trochanter would possibly be an alternative 
for treatment of the fracture 
Method and materials: 26 cases were involved in the study at the Department of Orthopedic in Tra Vinh 
General Hospital from 03/2019 to 04/2020. Locking plate with three screws for proximal head of femur was used. 
The lesser trochanter was fixed with screw or wire. 
Results: Our sample had the average age of 70.6 ± 16.0 (32-90), with female accounting for 65.4%. In our 
sample, type A2.3, A2.2 and A2.1 fractures accounted for 46.3%; 30.8% and 23.1%, respectively 2/26 
postoperative deaths due to comorbidity were excluded. Bone healing rate was 24/24, neck and body angle 
decreased on average 3.8 ± 7.30 (p = 0.1303 >0.05). The cut-out was found in one case. 20/24 patients (83.4%) 
had a Harris-Hip score of “Good” or “Very good”, mean of the quality of life score was 0.89 ± 0.11 (0.65 – 1.00). 
Conclusion: Combination of locking plate and fixation of lesser trochanter for AO type A2 proximal femoral 
fracture resulted in good bone healing, fast functional recovery and low rate of complications. 
1Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh 2Bệnh viện Đa khoa Trà Vinh 
Tác giả liên lạc: ThS.BS. Dương Thanh Bình ĐT: 0918339797 Email: [email protected] 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021
Chuyên Đề Ngoại Khoa 73
Key words: proximal femoral fracture, locking plate 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Gãy liên mấu chuyển xương đùi là loại gãy 
ngoài khớp gặp ở mọi lứa tuổi, thường nhất là ở 
những bệnh nhân lớn tuổi sau một chấn thương 
nhẹ do tai nạn sinh hoạt và đa số có loãng xương 
hoặc bệnh lý nội khoa đi kèm. Hiện có nhiều 
phương pháp điều trị, mỗi phương pháp đều có 
những ưu, khuyết điểm. 
Gãy liên mấu chuyển xương đùi loại A2 theo 
phân loại AO là kiểu gãy phức tạp, đường gãy 
lan đến trụ sau trong, nơi xuất phát bè xương 
chịu lực nén ép chính (gọi là cung Adam) có khả 
năng chịu tải trọng cao gấp 2 - 3 lần trọng tải cơ 
thể. Đây là kiểu gãy không vững. Gần đây các 
nghiên cứu ứng dụng nẹp khóa trong điều trị 
gãy liên mấu chuyển xương đùi cho thấy kết quả 
đáng khích lệ. Tuy nhiên một số các tác giả cho 
rằng nẹp vít khóa không thích hợp để điều trị 
gãy liên mấu chuyển xương đùi loại A2 vì gặp tỉ 
lệ gập góc cổ thân thứ phát dẫn đến thất bại 
trong điều trị do không phục hồi trụ sau 
trong(1,2). Vậy điều trị gãy liên mấu chuyển 
xương đùi cho loại mất vững trụ sau trong (A2) 
với dụng cụ nẹp vít khóa + phục hồi cột sau 
trong có thật sự mang lại hiệu quả điều trị cho 
người bệnh? 
Mục tiêu 
Đánh giá kết quả phẫu thuật điều trị gãy liên 
mấu chuyển xương đùi loại A-2 theo phân loại 
AO bằng nẹp ốc vít khóa. 
ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Tất cả các bệnh nhân (BN) gãy liên mấu 
chuyển xương đùi loại A2 theo phân loại AO 
nhập viện tại khoa Chấn thương chỉnh hình 
bệnh viện Đa khoa tỉnh Trà Vinh từ 03/2019 đến 
tháng 04/2020. 
Tiêu chuẩn chọn bệnh 
Gãy kín, mới (<3 tuần). 
Bệnh nhân trên 18 tuổi, đồng ý phẫu thuật 
tham gia nghiên cứu. 
Không có bệnh lý nội khoa chống chỉ định 
phẫu thuật. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Có nhiễm trùng da vùng dự định mổ. 
Gãy xương bệnh lý. 
Gãy xương vị trí khác ở chi dưới cùng bên 
hoặc khác bên. 
Liệt vận động cùng bên, hoặc đối bên. 
Gãy xương có biến chứng; sốc chấn thương, 
tắc mạch máu do mở, tổn thương thần kinh, 
mạch máu. 
Tử vong được xác nhận do các nguyên nhân 
khác không liên quan đến phẫu thuật trước thời 
điểm 4 tháng sau mổ. 
Phương pháp nghiên cứu 
Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu tiền cứu mô tả hàng loạt ca. 
Tiêu chuẩn đánh giá 
Phục hồi giải phẫu 
Đo và so sánh góc cổ thân trên phim X 
quang sau phẫu thuật, sau mổ 1 tháng, 3 tháng 
và thời điểm liền xương. 
Phục hồi chức năng 
Đánh giá theo thang điểm Harris Hip 
Score(3): Xấu: HHS <70 điểm, Trung bình: HHS 
70-79 điểm, Tốt: HHS 80-89 điểm, Rất tốt: 90-100 
điểm. 
Đánh giá chất lượng cuộc sống của người 
bệnh theo thang điểm đo lường chất lượng cuộc 
sống, sử dụng bộ câu hỏi EQ-5D-5L - phiên bản 
tiếng Việt(4); Tốt: Hệ số CLCS = 1, Khá: 0,8 < Hệ 
số CLCS <1, Trung bình: 0,7< Hệ số CLCS ≤0,8, 
Kém: Hệ số CLCS ≤0,7 
Biến chứng 
Ghi nhận các biến chứng sớm tại chổ, biến 
chứng sớm toàn thân và các biến chứng muộn 
Kỹ thuật kết xương 
Mở nắn. Sử dụng nẹp khoá có từ 7-13 lỗ. Có 
3 lỗ vít gắn vào đoạn gãy gần : vít 1 tạo góc vít- 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 74
nẹp 950 , vít 2 1200, vít 3 1350. Các vít còn lại là vít 
của thân xương (Hình 1). 
Phục hồi trụ sau trong 
Trước khi nắn chỉnh ổ gãy xác định vị trí của 
mãnh gãy trụ sau trong dưới màng tăng 
sáng.dùng móc xương kéo, nắm giử và sau đó 
luồn chỉ thép qua mãnh gãy này. Nắn chỉnh và 
kết xương ổ gãy chính thức. Sau đó xoay ngoài 
bàn chân, dùng móc xương hoặc banh 
Hoffmann nâng áp mãnh gãy vào vị trí giải 
phẫu và xoắn chỉ thép để cố định. 
Xquang trước mổ Hình chiếu C-arm trong lúc mổ 
Xquang ngay sau mổ Xquang sau mổ 4 tháng 
Hình 1: Gãy A2 theo phân loại AO, trước, trong và sau mổ 
Săn sóc sau mổ 
Vận động sớm tại giường. Chỉ được phép 
chống chân gãy từ tuần thứ 4 trở đi tuỳ từng 
trường hợp cụ thể. Bỏ dụng cụ trợ giúp đi sau 4-
6 tháng. 
Y đức 
Nghiên cứu được thông qua bởi Hội đồng 
đạo đức trong nghiên cứu y sinh học Đại học Y 
Dược TP. Hồ Chí Minh số: 707/HĐĐĐ ngày 
03/12/2019. 
KẾT QUẢ 
Tuổi và giới 
Bảng 1: Phân bổ bệnh nhân nghiên cứu theo nhóm 
tuổi, giới tính (n=26) 
 Giới tính 
Tuổi 
Nam (n=9) Nữ (n=17) Cộng (n=26) 
n % n % n % 
<60 tuổi 5 55,5 1 5,9% 6 23,1 
≥ 60tuổi 4 44,5 16 94,1 20 76,9 
Tổng 9 34,6 17 65,4 26 100,0 
 ± SD 60,8 ± 21,5 
(32 - 89) 
75,8 ± 9,5 
(54 - 90) 
70,6 ± 16,0 
- 90) 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021
Chuyên Đề Ngoại Khoa 75
(min - max) 
Bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi 
có tuổi trung bình là 70,6 ± 16,0 tuổi (32 - 90 tuổi). 
Độ tuổi từ 60 trở lên chiếm 76,9%. Nữ giới chiếm 
65,4% (Bảng 1). 
Loại gãy theo phân loại AO 
Số bệnh nhân gãy xương loại A2 phân bố 
không đều ở các nhóm, trong đó loại A 2.3 chiếm 
tỷ lệ cao nhất là 46,3%; loại A 2.2 chiếm 30,8% và 
loại A 2.1 chiếm tỷ lệ thấp nhất là 23,1%. 
Bệnh nội khoa kèm theo 
Đa số bệnh nhân có bệnh nội khoa mãn tính 
đi kèm với tỷ lệ 23/26 bệnh nhân (88,5%). Chủ 
yếu là nhóm bệnh tim mạch, 14/26 bệnh nhân 
(53,8%) có các bệnh nội khoa khác (lao phổi, tai 
biến mạch máu não, suy thận mạn) kèm theo. 
Theo tiêu chuẩn ASA, có 3 bệnh nhân ASA I, 18 
bệnh nhân ASA II, 5 bệnh nhân ASA III (Bảng 2). 
Bảng 2: Bệnh nội khoa kèm theo 
Bệnh lý nội khoa Số trường hợp (n) Tỷ lệ (%) 
Không có bệnh nội khoa 3 11,5 
Cao huyết áp 16 61,5 
Suy tim 6 23,1 
Đái tháo đường 5 19,2 
Thiếu máu cơ tim 11 42,3 
Rối loạn lipid máu 4 15,4 
Bệnh khác 14 53,8 
Thời gian theo dõi 
Theo dỏi trung bình 8,5 ±2,1 tháng, (5-13 
tháng). Có 2 trường hợp thuộc tiêu chuẩn loại 
trừ do bệnh nhân tử vong tại nhà sau khi ra viện 
2 tháng và 4 tháng do nguyên nhân nội khoa. 
Kết quả phục hồi giải phẫu 
Tỷ lệ liền xương và phục hồi trụ sau trong 
24/24 bệnh nhân (100%) đạt liền xương ổ gãy 
và liền xương trụ sau trong; trong đó 20/24 bệnh 
nhân (83,3%) liền xương trụ sau trong đúng vị trí 
giải phẫu và 4/24 bệnh nhân (16,7%) liền xương 
trụ sau trong không đúng vị trí giải phẫu. 
Phục hồi góc cổ thân xương đùi 
Chúng tôi tiến hành đối chiếu gốc cổ thân 
chân bệnh so với chân lành ở thời điểm sau mổ 
nhận thấy giảm trung bình 0,8 ± 0,50 (p=0,076 
>0,05). Thời điểm sau mổ 3 tháng góc cổ thân 
giảm 3,0 ± 6,80 so với góc cổ thân sau mổ 
(p=0,102 >0,05), thời điểm liền xương góc cổ thân 
giảm trung bình 3,8 ± 7,30 so với với thời điểm 
sau mổ (p=0,1303 >0,05). 
Kết quả phục hồi chức năng 
Thời gian nằm viện sau mổ của BN chúng tôi 
trung bình 6,1 ± 1,7 ngày (4 - 12 ngày). 
Tập ngồi và rời giường bệnh tại viện: 92,3% 
có thời gian ngồi thụ động từ 1 - 3 ngày sau mổ, 
thời gian trung bình của ngồi thụ động là 2,8 ± 
0,7 ngày (1 - 4 ngày). Về ngồi chủ động, 92,3% 
cần 4 - 7 ngày sau mổ, trung bình là 5,2 ± 1,2 
ngày (2 - 7 ngày). 77,0% bệnh nhân rời gường 
trong khoảng thời gian từ 4 - 7 ngày sau mổ, 
trung bình 2,8 ± 0,7 ngày (2 - 8 ngày) (Bảng 3). 
Bảng 3: Tự ngồi, rời giường bệnh và đi tì chân bệnh 
1 tháng 
(n=17) 
3 tháng 
(n=16) 
Liền xương 
(n=24) 
Tự ngồi 
Có 17 (100,0%) 16 (100,0%) 24 (100,0%) 
Không 0 (0,0%) 0 (0,0%) 0 (0,0%) 
Rời giường 
bệnh 
Có 17 (100,0%) 16 (100,0%) 24 (100,0%) 
Không 0 (0,0%) 0 (0,0%) 0 (0,0%) 
Đi tì 
chân bệnh 
Có 11 (64,7%) 16 (100,0%) 24 (100,0%) 
Không 6 (35,3%) 0 (0,0%) 0 (0,0%) 
Tổng 17 (100,0%) 12 (100,0%) 24 (100,0%) 
Thời gian tập luyện của bệnh nhân sau khi ra 
viện rất quan trọng, sự tự giác của bản thân 
người bệnh và sự giúp đỡ của người thân có giá 
trị quyết định đến kết quả phục hồi chức năng 
của bệnh nhân. Tuy nhiên, có 3 bệnh nhân e ngại 
tập luyện nên cần có sự giúp đỡ của người nhà 
và nhân viên y tế. 
Kết quả phục hồi chức năng theo thang điểm 
Harris – Hip 
Bảng 4: Phân loại điểm Harris - Hip ở thời điểm kết 
thúc nghiên cứu (n=24) 
Phân loại điểm Harris - Hip 
Số trường 
hợp (n) 
Tỷ lệ (%) 
Rất tốt (90 - 100 điểm) 10 41,7 
Tốt (80 - 90 điểm) 10 41,7 
Trung bình (70 - 79 điểm) 3 12,5 
Xấu (<70 điểm) 1 4,1 
Tổng 24 100,0 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 76
Phân loại điểm Harris - Hip 
Số trường 
hợp (n) 
Tỷ lệ (%) 
 ± SD (min - max) 86,6 ± 9,1 (61 - 100) 
Ở thời điểm kết thúc nghiên cứu, 20/24 bệnh 
nhân (83,4%) có điểm Harris - Hip ở mức “Tốt” 
hoặc “Rất tốt”, có 3/24 bệnh nhân (16,6%) ở mức 
trung bình, và 1/24 bệnh nhân (4,1%) ở mức 
“Xấu”. Điểm Harris - Hip trung bình là 86,6 ± 9,1 
điểm (61 - 100 điểm) (Bảng 4). 
Chất lượng cuộc sống 
Điểm hệ số chất lượng cuộc sống trung bình 
là 0,89 ± 0,11 (0,65 - 1,00 điểm). Đa số bệnh nhân 
có chất lượng cuộc sống tốt 8/24 (33,3%), khá 
11/24 (46,8%), trung bình 4/24 (16,7%), xấu 1/24 
(4,2%) (Bảng 5). 
Bảng 5: Điểm số chất lượng cuộc sống (n=24) 
Số trường 
hợp (n) 
Tỷ lệ (%) 
Đi lại 
Không khó khăn 10 41,7 
Hơi khó khăn 10 41,7 
Khá khó khăn 4 16,6 
Tự chăm 
sóc 
Không khó khăn 18 75,0 
Hơi khó khăn 6 25,0 
Sinh hoạt 
thường lệ 
Không khó khăn 19 79,2 
Hơi khó khăn 4 16,7 
Khá khó khăn 1 4,1 
Đau/ Khó 
chịu 
Không đau 15 62,5 
Hơi đau 9 37,5 
Lo lắng/ U 
sầu 
Không lo lắng 19 79,2 
Hơi lo lắng 5 20,8 
Biến chứng 
Biến chứng sớm tại chỗ: 1/26 bệnh nhân 
(3,8%) ghi nhận biến chứng nhiễm trùng vết mổ 
(nhiễm trùng nông). Trường hợp này xử trí ổn 
với chăm sóc vết mổ và kháng sinh điều trị. 
Không ghi nhận trường hợp chảy máu vết mổ 
Biến chứng sớm toàn thân: Không ghi nhận 
các biến chứng toàn thân đe dọa tính mạng 
người bệnh, có 13/26 bệnh nhân (50,0%) ghi 
nhận mất máu sau mổ qua ống dẫn lưu, kiểm tra 
huyết đồ. Các bệnh nhân này được bù máu kịp 
thời đều ra viện. Lượng máu truyền phổ biến là 
250 ml. Trung bình số máu cần truyền 154 ± 143 
ml/bệnh nhân. 
Biến chứng liên quan đến dụng cụ kết hợp 
xương; Có 2/24 bệnh nhân (8,3%) bị tụt vít ở vị 
trí vít số 2, không ghi nhận trường hợp nào gãy 
dụng cụ. 
Biến chứng muộn liên quan đến quá trình 
phục hồi: Có 1/24 bệnh nhân (4,2%) bị hủy vỏ cổ 
- chỏm xương đùi (Cut - out) dẫn đến gập gốc cổ 
thân 35o ở bệnh nhân nữ 90 tuổi. 
BÀN LUẬN 
Đặc điểm mẫu nghiên cứu 
Mẫu của chúng tôi tương đồng với một số 
tác giả khác về tuổi và giới. Nghiên cứu của 
Uzun M có 27 bệnh nhân gãy không vững liên 
mấu chuyển xương đùi loại A2 (AO) với độ tuổi 
trung bình là 71 (62 - 111 tuổi), tỷ lệ nữ là 
65,7%(5). Setiobudi T ghi nhận tuổi trung bình 
của 78 bệnh nhân gãy không vững liên mấu 
chuyển xương đùi là 76,4 ±11,7 tuổi, nữ giới 
chiếm 62,8%(6), Gadegone MW nghiên cứu trên 
82 bệnh nhân gãy liên mấu chuyển xương đùi 
phân loại A2, A3 (AO) có tuổi trung bình là 66 
tuổi (58 - 81 tuổi) có tỷ lệ nữ là 51,2%(7). 
Bệnh nội khoa kèm trên bệnh nhân gãy liên 
mấu chuyển xương đùi được ghi nhận trên các 
nghiên cứu trước chủ yếu là các bệnh đái tháo 
đường, tăng huyết áp, tim mạch và một số bệnh 
khác (xơ gan, bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính, lao 
phổi tiến triển, rối loạn tâm thần tuổi già)(8,9). Kết 
quả nghiên cứu của chúng tôi cũng tương đồng 
với kết quả nghiên của các tác giả khác. 
Phục hồi giải phẫu 
Một số tác giả khi sử dụng nẹp khóa cho gãy 
LMC loại A2 không phục hồi trụ sau trong có tỷ 
lệ liền xương thấp như Zhong B (2014) 10/14 
trường hợp liền xương(2); Collinge CA (2016) chỉ 
có 65/111 (58,6%) liền xương(1). 
Có thể nói khi đã phục hồi trụ sau trong 
chúng tôi đã phục hồi tương đối hoàn chỉnh về 
mặt giải phẫu vùng mấu chuyển xương đùi, 
giúp xương liền lại như loại gãy vững. 
Thời điểm sau mổ 3 tháng góc cổ thân giảm 
3,0 ± 6,80 so với góc cổ thân sau mổ 
(p=0,102>0,05), thời điểm liền xương góc cổ thân 
giảm trung bình 3,8 ± 7,30 so với thời điểm sau 
mổ (p=0,1303>0,05). Kết quả này cho thấy kết 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021
Chuyên Đề Ngoại Khoa 77
quả phẫu thuật sử dụng nẹp khóa của chúng tôi 
có khả năng duy trì ổn định góc cổ thân cho đến 
khi liền xương. 
Kết quả của chúng tôi phù hợp với một số 
tác giả khác; Kovalaka E góc cổ thân giảm trung 
bình là 3,1° ± 2,16° đối với nhóm gãy liên mấu 
chuyển (LMC) loại A2(10), Hossain MM phục hồi 
góc cổ thân 133,58o, không có sự khác biệt với 
góc cổ thân bên lành(11). 
Tuy nhiên một số tác giả khác khi sử dụng 
nẹp khóa cho loại gãy LMC thì không duy trì 
được góc cổ thân; Zhong B (2014) 5/14 (35,7%) 
bệnh nhân gãy loại A2 gập góc cổ thân(2), 
Collinge CA (2016) có 18/111 (16,2%) gập góc cổ 
thân thứ phát(1). 
Sự khác biệt này do đa số các tác giả sử dụng 
nẹp khóa cho loại gãy A2 là loại gãy không 
vững, chỉ quan tâm phục hồi trụ ngoài và sự 
phân tán lực qua các vít cổ chỏm mà không khôi 
phục trụ sau trong nơi có cung Adam chịu lực tì 
nén, dẫn đến khuyết về mặt hình thái giải phẫu, 
về sinh cơ học vùng mấu chuyển nên dẫn đến 
gập góc cổ thân thứ phát(1). Trong nghiên cứu 
của chúng tôi tất cả các trường hợp đều phục hồi 
trụ sau trong, qua đó phục hồi cấu trúc giải 
phẫu, phục hồi sinh cơ học vùng mấu chuyển 
kết hợp hướng dẫn bệnh nhân chống tì đè chân 
đau theo từng giai đoạn của bệnh nên góc cổ 
thân được duy trì. Kovalaka E, Hossain MM 
cũng có cùng kết quả như chúng tôi(10,11). Chúng 
tôi cho rằng cung cấp dụng cụ kết hợp xương có 
cấu trúc ổn định vế mặt cơ sinh học cũng chỉ là 
yếu tố cần thiết nhưng chưa đủ để duy trì góc cổ 
thân mà còn cần phải phục hồi toàn vẹn cấu trúc 
giải phẫu. Ngoài ra chất lượng xương của người 
bệnh cũng là một yếu tố quan trọng cần lưu ý. 
Vai trò của phục hồi trụ sau trong (mấu 
chuyển bé) 
Kovakalav E (2017) cho rằng việc phục hồi 
mấu chuyển lớn và mấu chuyển bé trong gãy 
không vững xương đùi phải được tiến hành 
đồng thời nhằm giúp tăng cường liên kết xương 
và duy trì sự ổn định của xương đùi, giảm tỷ lệ 
thất bại(10). Tỷ lệ biến chứng muộn trong nghiên 
cứu của chúng tôi thấp hơn so với các nghiên 
cứu trước. Có thể lý giải vấn đề này là do chúng 
tôi chú trọng đến việc phục hồi cả trụ sau trong 
khi phẫu thuật kết hợp xương. Việc phục hồi 
bằng chỉ thép kết hợp với vít bổ sung (khi có 
mảnh gãy lớn) thực hiện đơn giản nhưng rất 
hữu ích đảm bảo giảm đáng kể trong sụp đổ quá 
mức và sau đó giảm chênh lệch chiều dài chi. Nó 
tạo ra một cấu trúc ổn định về mặt sinh học và 
trên hết mang lại sự vượt trội về phục hồi chức 
năng, tránh biến chứng muộn. 
Chúng tôi khi thực hiện kết hợp xương nẹp 
khóa kèm phục hồi trụ sau trong cho loại gãy 
liên mấu chuyển xương đùi loại A2 theo phân 
loại AO ghi nhận tỉ lệ lành xương 100%, tỉ lệ gập 
góc cổ thân thứ phát không có ý nghĩa thống kê, 
không gặp biến chứng, thất bại do dụng cụ, 
không ghi nhận các biến chứng do nằm lâu. Qua 
đó chúng tôi nhận thấy rằng việc phục hồi trụ 
sau trong đóng vai trò quan trọng trong ổn định 
ổ gãy, giúp bệnh liền xương, khắc phục các biến 
chứng do dụng cụ, gập góc cổ thân thứ phát, 
nhanh chóng phục hồi chức năng, cải thiện chất 
lượng cuộc sống sau gãy liên mấu chuyển mất 
vững loại A2 của phân loại AO. 
Phục hồi chức năng 
Với kết quả phục hồi chức năng thu được 
cho thấy sử dụng nẹp khóa đã ổn định ổ gãy, 
giúp giảm đau và cho phép người bệnh vận 
động sớm tại giường, tập rời giường bệnh, giúp 
phòng tránh được các biến chứng do nằm lâu. 
Kết quả này phù hợp với của Asif N (2016) 
ghi nhận phân bố điểm Harris Hip trên bệnh 
nhân gãy không vững kết hợp xương bằng nẹp 
vít khóa sau 12 tháng điều trị: 88% có điểm “Rất 
tốt” hoặc “Tốt”, 4% ở mức “Trung bình” và 8% ở 
mức “Xấu”(12). 
Chất lượng cuộc sống 
Gjertsen JE (2016)(13) nghiên cứu về chất 
lượng cuộc sống của bệnh nhân được điều trị 
gãy liên mấu chuyển xương đùi tại Na Uy, sử 
dụng bộ công cụ EQ-5D. Kết quả sau 12 tháng 
Về đi lại: Không gặp khó khăn khi đi lại là 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 78
31,0%; Có khó khăn khi đi bộ là 65,8% và không 
thể đi bộ là 3,2%. 
Về tự chăm sóc: 59,3% không khó khăn gì 
khi tự tắm rửa hay khi tự mặc quần áo, 31,4% 
hơi khó khăn, 9,3% không thể tự tắm rửa, mặc 
quần áo. 
Về sinh hoạt thường lệ: 33,1% không khó 
khăn; 43,7% hơi khó khăn, 9,3% không thể thực 
hiện các sinh hoạt thường lệ. 
Về đau/ khó chịu: 34,2% không đau hay 
không khó chịu; 58,7% hơi đau hay hơi khó chịu, 
7,0% cực kỳ đau/cực kỳ khó chịu. 
Về lo lắng/ u sầu: 63,4% không lo lắng hay 
không u sầu; 33,0% hơi lo lắng hay hơi u sầu và 
3,5% rất lo lắng/rất u sầu. 
Griffin XL (2015)(14) nghiên cứu về chất lượng 
cuộc sống của bệnh nhân gãy liên mấu chuyển 
xương đùi tại Vương quốc Anh. Điểm số (EQ-
5D) ở thời điểm 12 tháng là 0,55 điểm. Chất 
lượng của cuộc sống không cải thiện đáng kể 
trong quá trình phục hồi sau gãy xương hông ở 
bệnh nhân trên 80 tuổi tuổi (p=0,928). 
Như vậy, có thể thấy, điểm số chất lượng 
cuộc sống của bệnh nhân chúng tôi là tốt hơn 
so với nghiên cứu của các tác giả ở trên. Câu 
hỏi đặt ra là dường như có sự mâu thuẩn khi 
kỹ thuật điều trị của các tác giả trên tốt hơn do 
được thực hiện ở các nước có nền y học phát 
triển hơn của chúng tôi, nên bệnh nhân của họ 
được chăm sóc tốt hơn từ lúc nhập viện cho 
đến xuất viện nhưng tại sao điểm số chất 
lượng cuộc sống lại thấp hơn? Có thể lý giải 
điều này là do sự khác biệt lớn về đặc điểm 
nhân khẩu học, điều kiện kinh tế, xã hội. Bệnh 
nhân cao tuổi của chúng tôi hầu hết đều sinh 
sống với người thân (con, cháu), đa số sinh 
sống ở nông thôn, gần gũi với láng giềng nên 
họ luôn nhận được sự chăm sóc, động viên, hỗ 
trợ về tinh thần của người thân, cộng đồng. Họ 
cũng cảm thấy an tâm, ít lo lắng hơn. 
Biến chứng 
Chúng tôi không ghi nhận viêm tắc tĩnh 
mạch sâu; huyết khối động mạch, tĩnh mạch và 
sự bùng phát của các bệnh lý nội khoa đi kèm 
ngay sau mổ. 100% bệnh nhân của chúng tôi an 
toàn ra viện. Có thể nói kết hợp xương bằng nẹp 
khóa là phẫu thuật tương đối an toàn, biến 
chứng thấp nếu được chuẩn bị đầy đủ trước mổ, 
kể cả có bệnh lý nội khoa đi kèm. 
Không có bệnh nhân bị viêm xương, không 
liền xương, hoại tử chỏm xương đùi hoặc gãy lại. 
Setiobudi T 3/78 bệnh nhân (3,8%) bị phá hủy vỏ 
cổ chỏm xương đùi (cut out)(6). Asif N ghi nhận 
tỷ lệ nhiễm trùng sâu sau mổ là 1/27 trường hợp 
(3,7%), 3/27 trường hợp (11,1%) bị vỡ vít cổ 
chổm dẫn đến sụp góc cổ thân xương đùi, xảy ra 
ở những bệnh nhân không tuân thủ hướng dẫn 
trong quá trình phục hồi chức năng và xương 
đùi sớm chịu tải nặng trước 8 tuần(12). 
KẾT LUẬN 
Qua nghiên cứu chúng tôi rút ra một số kết 
luận như sau: 
Kết quả phục hồi giải phẫu 
Kết hợp xương nẹp khóa kèm với phục hồi 
trụ sau trong giúp bệnh đạt tỉ lệ liền xương cao; 
100% bệnh nhân liền xương, góc cổ thân thời 
điểm liền xương thay đổi không có ý nghĩa 
thống kê. Phục hồi trụ sau trong là yếu tố giúp 
ổn định góc cổ thân 
Kết quả phục hồi chức năng 
100% bệnh nhân phục hồi các chức năng như 
tự ngồi, rời giường bệnh, đi tì chân đau ở các 
thời điểm 3 tháng sau mổ, liền xương. Thang 
điển Harris - Hip chúng tôi có 20/24 bệnh nhân 
(83,4%) ở mức “Tốt” hoặc “Rất tốt”, có 3/24 bệnh 
nhân (16,6%) ở mức trung bình, và 1/24 bệnh 
nhân (4,1%) ở mức “Xấu”. Chất lượng cuộc sống 
của người bệnh sau mổ đạt; tốt, khá 19/24 
(79,1%), trung bình 4/24 (16,7%), xấu 1/24 (4,2%). 
Đa số bệnh nhân đều tự đi lại, tự chăm sóc, thực 
hiện các hoạt động sinh hoạt, ít đau, ít cảm thấy 
lo lắng/u sầu. 
Tỷ lệ tai biến, biến chứng của phương pháp 
điều trị 
Phẫu thuật kết hợp xương bằng nẹp khóa là 
phẫu thuật tương đối an toàn, biến chứng thấp: 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021
Chuyên Đề Ngoại Khoa 79
13/26 (50%) trường hợp cần bổ sung máu trong - 
sau mổ, trung bình 154 ± 143 ml/trường hợp. 
Biến chứng sớm 3,8% nhiễm trùng vết mổ nông. 
Biến chứng muộn: 8,3% bị tụt vít, 4,2% bị hủy vỏ 
cổ - chỏm xương đùi, 4,2% bị gập gốc cổ thân 350 
do hủy cổ chỏm xương đùi. Không có trường 
hợp bị viêm xương, không liền xương, hoại tử 
hoặc gãy lại. Không có bệnh nhân tử vong do 
phẫu thuật. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Collinge CA, Hymes R, Archdeacon M, Streubel P, et al (2016). 
Unstable Proximal Femur Fractures Treated With Proximal 
Femoral Locking Plates: A Retrospective, Multicenter Study of 
111 Cases. J Orthop Trauma, 30(9):489-495. 
2. Zhong B, Zhang Y, Zhang C, et al (2014). A comparison of 
proximal femoral locking compression plates with dynamic hip 
screws in extracapsular femoral fractures. Orthop Traumatol Surg 
Res, 100(6):663-668. 
3. Harris WH (1969). Traumatic arthritis of the hip after dislocation 
and acetabular fractures: treatment by mold arthroplasty. An 
end-result study using a new method of result evaluation. J Bone 
Joint Surg Am, 51:737–755. 
4. Vu Quynh Mai, Sun S, Minh HV, Luo N, Giang KB, Lindholm 
L, Sahlen KG (2020). An EQ-5D-5L Value Set for Vietnam. 
Quality of Life Research, 29(7):1923-1933. 
5. Uzun M, Erturer E, and Ozturk I, et al (2009). Long-term 
radiographic complications following treatment of unstable 
intertrochanteric femoral fractures with the proximal femoral 
nail and effects on functional results. Acta Orthop Traumatol Turc, 
43(6):457-463. 
6. Setiobudi T, Ng YH, Lim CT, Liang S, et al (2011). Clinical 
outcome following treatment of stable and unstable 
intertrochanteric fractures with dynamic hip screw. Ann Acad 
Med Singapore, 40(11):482-487. 
7. Gadegone MW, Shivashankar B, and Lokhande V, et al (2017). 
Augmentation of proximal femoral nail in unstable trochanteric 
fractures. SICOT J, 3:12. 
8. Nguyễn Huy Thành (2018). Đánh giá kết quả điều trị gãy liên 
mấu chuyển xương đùi bằng kết hợp xương nẹp khóa tại Bệnh 
viện Hữu Nghị Việt Đức. Luận văn Chuyên khoa II, Trường Đại 
học Y Hà Nội. 
9. Lê Quang Trí (2015). Điều trị gãy liên mấu chuyển xương đùi 
người già bằng khung cố định ngoài. Luận án Tiến sĩ Y học, Đại 
học Y Dược TP Hồ Chí Minh. 
10. Kovalaka E, Ermutlub C, and Ataya T, et al (2017). Management 
of unstable pertrochanteric fractures with proximal femoral 
locking compression plates and affect of neck-shaft angle on 
functional outcomes. Journal of Clinical Orthopaedics and Trauma, 
8(3):209-214. 
11. Hossain MM, Alam QS, Quashem FH, Noman MTI (2014). 
Evaluation of the Outcome of Proximal Femoral Locking 
Compression Plate. J Dhaka Med Coll, 23(2):179-185. 
12. Asif N, Ahmad S, and Qureshi OA, et al (2016). Unstable 
Intertrochanteric Fracture Fixation – Is Proximal Femoral 
Locked Compression Plate Better Than Dynamic Hip Screw, 
Journal of Clinical and Diagnostic Research, 10(1):RC09-RC13. 
13. Gjertsen JE, Baste V, Fevang JM, Furnes O, Engesæter LB (2016). 
Quality of life following hip fractures: results from the 
Norwegian hip fracture register. BMC Musculoskelet Disord, 
17:265 
14. Griffin XL, Parsons N, Achten J, Fernandez M, Costa ML (2015). 
Recovery of health-related quality of life in a United Kingdom 
hip fracture population. Bone Joint J, 97:372-82. 
Ngày nhận bài báo: 30/11/2020 
Ngày nhận phản biện nhận xét bài báo: 13/01/2021 
Ngày bài báo được đăng: 10/03/2021 

File đính kèm:

  • pdfnep_khoa_mot_lua_chon_dieu_tri_gay_lien_mau_chuyen_xuong_dui.pdf