Nền công nghiệp chăm sóc sức khỏe

Tóm tắt: Công nghiệp chăm sóc sức khỏe (CSSK) là một trong những ngành

công nghiệp, ngành dịch vụ lớn, phát triển nhanh. Bài viết nêu các đặc điểm và các

bộ phận cấu thành của ngành CSSK; chỉ ra vai trò của người thầy thuốc, nhà sản xuất,

người bệnh, cơ quan bảo hiểm, bệnh viện và nhà nước đối với ngành này. Tác giả cũng

cảnh báo về sự lạm dụng trong việc khám chữa bệnh, sử dụng thuốc men, nêu một số

kinh nghiệm phát triển hoạt động CSSK của Hoa Kỳ, Thái Lan, Singapore, đồng thời

đặt vấn đề phát triển ngành công nghiệp CSSK của Việt Nam.

Từ khóa: Công nghiệp chăm sóc sức khỏe, thị trường CSSK công nghiệp dược

phẩm, công nghệ sinh học.

pdf 6 trang phuongnguyen 3080
Bạn đang xem tài liệu "Nền công nghiệp chăm sóc sức khỏe", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nền công nghiệp chăm sóc sức khỏe

Nền công nghiệp chăm sóc sức khỏe
77
Văn hóa - Xã hội NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
Tạp chí 
Kinh doanh và Công nghệ
Số 01/2019
Công nghiệp chăm sóc sức khỏe 
(CSSK), hay công nghiệp y tế, là một 
trong những ngành công nghiệp lớn nhất 
và phát triển nhanh nhất trên thế giới. 
Công nghiệp CSSK giữ một vai trò cực 
kỳ lớn trong nền kinh tế của hầu hết các 
nước phát triển và chiếm trên 10% GDP 
của các nước này.
Công nghiệp CSSK bao gồm những 
tổ chức cung cấp dịch vụ chẩn đoán, dự 
phòng, điều trị, các bênh viện, các tổ 
chức y tế tư nhân, y tế công và tổ chức y 
tế tình nguyện. Công nghiệp CSSK còn 
bao gồm các nhà sản xuất - cung ứng 
thuốc và trang thiết bị y tế. Một trong 
những lý do để khái niệm “Công nghiệp 
CSSK” ra đời và ngày càng phổ biến 
trên thế giới là do sự phân biệt về “sản 
xuất” và “dịch vụ” đã thay đổi. Hệ thống 
tài khoản quốc gia định nghĩa “Sản xuất 
là quá trình sử dụng lao động và máy 
móc thiết bị của các đơn vị thể chế 1 để 
chuyển những chi phí là vật chất và dịch 
vụ thành sản phẩm là vật chất và dịch vụ 
khác. Tất cả những hàng hóa và dịch vụ 
được sản xuất ra phải có khả năng bán 
NỀN CÔNG NGHIỆP CHĂM SÓC SỨC KHỎE
PGS.TS. Lê Văn Truyền *
Tóm tắt: Công nghiệp chăm sóc sức khỏe (CSSK) là một trong những ngành 
công nghiệp, ngành dịch vụ lớn, phát triển nhanh. Bài viết nêu các đặc điểm và các 
bộ phận cấu thành của ngành CSSK; chỉ ra vai trò của người thầy thuốc, nhà sản xuất, 
người bệnh, cơ quan bảo hiểm, bệnh viện và nhà nước đối với ngành này. Tác giả cũng 
cảnh báo về sự lạm dụng trong việc khám chữa bệnh, sử dụng thuốc men, nêu một số 
kinh nghiệm phát triển hoạt động CSSK của Hoa Kỳ, Thái Lan, Singapore, đồng thời 
đặt vấn đề phát triển ngành công nghiệp CSSK của Việt Nam.
Từ khóa: Công nghiệp chăm sóc sức khỏe, thị trường CSSK công nghiệp dược 
phẩm, công nghệ sinh học.
 Abstract: Healthcare is one of the large and fast-growing service industries. 
The article indicates the characteristics and components of the healthcare industry, 
showing the role of physicians, manufacturers, patients, insurance agencies, hospitals, 
and the government over this industry. The author also warned of the abuse of health 
care, drug and referred to some pieces of the health-care development experience in 
the United States, Thailand, and Singapore and mentioned the development of the 
health care industry of Viet Nam as well.
Key words: health care industry, health service, pharmaceutical industry, biotechnology.
* Chủ nhiệm Khoa Dược, Trường Đại học Kinh doanh 
và Công nghệ Hà Nội; nguyên Thứ trưởng Bộ Y tế.
1 Đơn vị thể chế là “một thực thể kinh tế có quyền sở hữu tích sản, phát sinh tiêu sản và 
thực hiện các hoạt động, các giao dịch kinh tế với những thực thể kinh tế khác”.
78
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI Văn hóa - Xã hội
Tạp chí 
Kinh doanh và Công nghệ
Số 01/2019
trên thị trường hay ít ra cũng có khả năng 
cung cấp cho một đơn vị thể chế khác có 
thu tiền hoặc không thu tiền”. Với định 
nghĩa này, tất cả các hoạt động cung cấp 
dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe đều có 
thể được coi là hoạt động sản xuất.
Mosby’s Medical Dictionary định 
nghĩa: “Công nghiệp chăm sóc sức khỏe là 
toàn bộ các dịch vụ phòng bệnh, chữa bệnh 
và điều trị được cung cấp bởi các bệnh viện, 
các tổ chức, điều dưỡng, bác sĩ, nha sĩ, các 
nhà quản lý y tế, các tổ chức của nhà nước, 
các đơn vị thể chế, các tổ chức tình nguyện, 
các cơ sở CSSK từ thiện, các nhà sản xuất 
trang thiết bị y tế, các nhà sản xuất dược 
phẩm và các tổ chức bảo hiểm y tế”.
Tuy nhiên, dịch vụ CSSK có những 
đặc điểm khác với các dịch vụ và sản phẩm 
hàng hóa khác. Đầu ra của nhiều nền công 
nghiệp là những sản phẩm cụ thể, nhưng 
đầu ra của dịch vụ CSSK không được xác 
định rõ ràng bằng các sản phẩm cụ thể. Đầu 
ra của dịch vụ CSSK không thể dự đoán và 
hiểu rõ bởi cả nhà cung cấp dịch vụ và cả 
người sử dụng dịch vụ. Vì vậy, sự can thiệp 
của tổ chức thứ ba, tổ chức thanh toán chi 
phí (cơ quan bảo hiểm y tế) và chính quyền 
(cơ quan quản lý nhà nước về CSSK) là rất 
quan trọng và toàn diện. Mặc dù có sự khác 
biệt trên đây, thị trường CSSK vẫn phải tuân 
thủ các quy luật kinh tế cơ bản và việc phân 
tích kinh tế là rất quan trọng để xác định 
chính sách y tế công cộng.
Mục tiêu cuối cùng của CSSK và y 
tế là hiệu quả đối với sức khỏe. Hiệu quả 
này chỉ có thể xác định là khả năng (xác 
suất) trước khi cung cấp dịch vụ và cũng 
khó đo lường được ngay cả sau khi dịch 
vụ được thực hiện. Chăm sóc y tế không 
phải là yếu tố duy nhất quyết định sức 
khỏe, mà còn các yếu tố khác cũng có ý 
nghĩa quan trọng, như dinh dưỡng, luyện 
tập thể dục và lối sống,... Sự phân bổ có 
hiệu quả nguồn lực đầu tư vào khu vực y 
tế công hay y tế tư nhân đòi hỏi phải thận 
trọng đánh giá cân bằng chi phí và hiệu 
quả trên đầu ra của mỗi khu vực.
Một đặc điểm của thị trường công 
nghiệp CSSK là sự mất cân đối thông 
tin (asymmetric information). Người sử 
dụng dịch vụ y tế/sản phẩm (dược phẩm, 
trang thiết bị y tế, xét nghiệm,), hay 
nói cách khác, người tiêu dùng trong nền 
công nghiệp CSSK, luôn luôn nhận được 
ít thông tin về nguy cơ và lợi ích của dịch 
vụ/sản phẩm hơn so với các nhà cung cấp 
dịch vụ y tế /thầy thuốc và nhà sản xuất, 
cung cấp sản phẩm thiết bị, dụng cụ y tế 
và dược phẩm. Vì vậy, các thầy thuốc và 
nhà sản xuất đóng vai trò kép: vừa là người 
tư vấn, vừa là người cung cấp dịch vụ/sản 
phẩm chăm sóc sức khỏe. Thật ra, vai trò 
kép này có thể nhận thấy ở một số lĩnh 
vực khác, tuy nhiên, đối với việc khám 
chữa bệnh, hiện tượng này trở nên phức 
tạp hơn, bởi vì thầy thuốc không chỉ thực 
hiện nhiệm vụ khám chữa bệnh nói riêng 
hoặc CSSK nói chung cho bệnh nhân, mà 
đồng thời lại phải chịu sự kiểm soát của 
bên thứ ba: người trả tiền (cơ quan cung 
cấp ngân sách nhà nước và/hoặc cơ quan 
bảo hiểm y tế) và nhà quản lý và hoạch 
định chính sách CSSK. Trên thực tế, mỗi 
cá nhân người bệnh đều có khuynh hướng 
mong muốn được hưởng thụ bất cứ dịch 
vụ/sản phẩm nào được kỳ vọng có lợi cho 
sức khỏe của họ nếu họ không phải trả tiền. 
Đây là điều mà các nhà kinh tế mô tả bằng 
khái niệm “sự lạm tín” (moral hazard) gây 
ra sự chênh lệch giữa chi phí biên cá nhân 
(bệnh nhân) của một hoạt động CSSK và 
chi phí biên xã hội (của cơ quan bảo hiểm 
y tế và /hoặc ngân sách y tế) của hoạt động 
đó, dẫn đến hậu quả là không phân bổ tối 
ưu các nguồn lực cá nhân và đặc biệt là các 
nguồn lực xã hội vào công tác CSSK nói 
chung và khám chữa bệnh nói riêng. Trên 
thực tế, có thể thấy rất nhiều dẫn chứng 
79
Văn hóa - Xã hội NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
Tạp chí 
Kinh doanh và Công nghệ
Số 01/2019
về “sự lạm tín” trong hệ thống khám chữa 
bệnh và CSSK, như lạm dụng thuốc, lạm 
dụng kỹ thuật cao và các thiết bị đắt tiền 
(sophyscated medical equipment), lạm 
dụng xét nghiệm, hoặc người bệnh đòi 
hỏi được sử dụng các biệt dược gốc thay 
vì các thuốc generic có chất lượng và tác 
dụng tương đương với giá cả chấp nhận 
được, Các hành động này diễn ra trên 
quy mô lớn, phổ biến sẽ dẫn đến việc ngân 
sách y tế luôn luôn thiếu hụt không những 
chỉ vì thực trạng của nền kinh tế và nguồn 
lực tài chính quốc gia hạn hẹp, mà còn vì 
không kiểm soát được lãng phí và bất hợp 
lý trong sử dụng ngân sách y tế và quỹ bảo 
hiểm y tế. Mặt khác, cơ quan bảo hiểm y 
tế – với tư cách “bên thứ ba” chịu trách 
nhiệm thanh toán chi phí khám chữa bệnh 
và CSSK – luôn luôn chịu áp lực cao về 
việc chi vượt thu, như người ta vẫn thường 
nói là nguy cơ “vỡ quỹ” bảo hiểm y tế.
Vì vậy, để một nền công nghiệp CSSK 
hoạt động lành mạnh, hợp lý và có hiệu 
quả, cơ quan quản lý y tế và các tổ chức 
bảo hiểm y tế cần phải có các biện pháp 
và sáng kiến nhằm kiểm soát và hạn chế 
hữu hiệu “sự lạm tín” cả ở phía bệnh nhân/
người sử dụng dịch vụ/sản phẩm và cả 
những người/tổ chức cung cấp dịch vụ/sản 
phẩm CSSK. Những biện pháp/sáng kiến 
như vậy phải làm cho các nhà cung cấp 
dịch vụ/sản phẩm cân nhắc để cân bằng 
được giữa sự mong muốn trước mắt của 
bệnh nhân và lợi ích dài hạn của cơ quan 
bảo hiểm y tế và cơ quan quản lý ngân 
sách y tế trong một thị trường ngày càng 
phát triển của nền công nghiệp CSSK. Đây 
là điều mà người ta vẫn hay nói là chống 
“lạm dụng quỹ bảo hiểm y tế”.
CÁC BỘ PHẬN CẤU THÀNH NỀN 
CÔNG NGHIỆP CSSK
Nhằm mục đích quản lý và đầu tư 
nguồn lực tài chính, công nghiệp CSSK 
thường được phân ra các lĩnh vực khác 
nhau. Hệ thống chuẩn phân ngành công 
nghiệp quốc tế của Liên hợp quốc (The 
United Nations International Standard 
Industrial Classification – ISIC) chia công 
nghiệp CSSK thành ba lĩnh vực:
1. Hoạt động của các bệnh viện.
2. Hoạt động thực hành y học và nha khoa.
3. Các hoạt động CSSK khác cho người.
Các hoạt động trong lĩnh vực thứ 
ba bao gồm các hoạt động của các điều 
dưỡng viên, nữ hộ sinh, các nhà vật lý trị 
liệu, các phòng xét nghiệm/chẩn đoán, 
các phòng khám, kể cả các thực hành liên 
quan đến y tế, như thủy liệu pháp, dịch vụ 
xoa bóp y học, điều trị bằng yoga, điều 
trị bằng âm nhạc, đo khám mắt, điều trị 
bệnh nghề nghiệp, trị liệu ngôn ngữ, điều 
trị các bệnh về chân (chiropody), châm 
cứu, nắn cột sống (chiropractics), 
Tiêu chuẩn phân loại công nghiệp toàn 
cầu (The Global Industry Classification 
Standard) và Tiêu chuẩn phân loại công 
nghiệp (The Industry Classification 
Benchmark) chia công nghiệp CSSK 
thành hai nhóm chính:
1. Dịch vụ y tế và thiết bị y tế.
2. Công nghiệp dược phẩm, công nghệ 
sinh học và các ngành khoa học liên quan.
Nhóm dịch vụ y tế và thiết bị y tế bao 
gồm các nhà cung cấp dịch vụ y tế, như 
bệnh viện, phòng khám, dịch vụ CSSK 
và điều dưỡng tại nhà và các công ty sản 
xuất và cung cấp thiết bị y tế. Nhóm thứ 
hai bao gồm các nhà sản xuất dược phẩm, 
công nghệ sinh học và dịch vụ khoa học.
Khi định nghĩa về công nghiệp 
CSSK, có một cách tiếp cận rộng hơn, 
bao gồm cả các hoạt động quan trọng 
khác liên quan đến sức khỏe như các tổ 
chức đào tạo, huấn luyện cán bộ y tế, các 
nhà quản lý cung cấp dịch vụ y tế, các nhà 
cung cấp dịch vụ y học cổ truyền và y học 
bổ sung (traditional and complementary 
medicine) và quản lý bảo hiểm y tế.
80
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI Văn hóa - Xã hội
Tạp chí 
Kinh doanh và Công nghệ
Số 01/2019
Công nghiệp CSSK Hoa Kỳ
Hoa Kỳ là một trong những quốc gia 
có nền công nghiệp CSSK phát triển hàng 
đầu thế giới, xác định công nghiệp CSSK 
bao gồm các lĩnh vực cụ thể sau đây:
1. Công nghiệp dịch vụ CSSK (khám, 
chữa bệnh và CSSK).
2. Công nghiệp thiết bị y tế.
3. Công nghiệp dược phẩm và nguyên 
liệu dược.
4. Công nghiệp công nghệ sinh học/
thuốc sinh học (Biomedicines) và thuốc 
sinh học tương tự (Biosimilars).
5. Công nghiệp CSSK bằng y học 
thay thế (Alternative Medicine).
6. Công nghiệp sản phẩm bổ sung 
dinh dưỡng (Dietary Supplements).
7. Công nghiệp trang bị nội thất 
bệnh viện.
8. Công nghiệp sản xuất sản phẩm 
chăm sóc cá nhân.
9. Công nghiệp phòng sạch 
(Cleanrooms Industry).
10. Công nghiệp xử lý nước thải 
bệnh viện.
11. Công nghiệp sản xuất trang phục 
bệnh viện.
Công nghiệp CSSK Thái Lan
Với dân số khoảng 67,96 triệu người 
(2015), theo số liệu nghiên cứu của Đại 
học Srinakharinwirol (Ấn Độ, 2016) thị 
trường công nghiệp CSSK Thái Lan đạt 
24 tỷ US$ (2015) với tỷ lệ tăng trường 
bình quân hàng năm 15%.
Thái Lan có rất nhiều lợi thế về dịch 
vụ CSSK: bệnh viện lớn nhất Đông Nam 
Á tại thủ đô Bangkok; là quốc gia đầu 
tiên ở Châu Á được cấp Chứng chỉ của cơ 
quan giám định chất lượng bệnh viện Joint 
Commission International (JCI); cả nước 
có hơn 1.000 cơ sở y tế nhà nước, 400 cơ 
sở tư nhân và được xem là một trong những 
quốc gia hàng đầu về du lịch CSSK. Giống 
như các quốc gia phương Tây, ngành CSSK 
của Thái Lan luôn được phục vụ bằng 
những bệnh viện và bác sĩ chất lượng hàng 
đầu, với những cơ sở chăm sóc sức khỏe 
dài hạn, spa CSSK, phòng chẩn đoán, hiệu 
thuốc, sản xuất thuốc và các thiết bị y tế. 
Thái Lan cũng giành ưu tiên hàng đầu cho 
R&D nhằm mục đích sản xuất những loại 
thuốc tiên tiến.
Thái Lan là nước đứng đầu về tổ chức 
các hội nghị CSSK nhờ có nhiều bệnh nhân 
nước ngoài, bao gồm những người tham 
gia chương trình du lịch CSSK và cộng 
đồng người nước ngoài làm việc tại Thái 
Lan. Tuy nhiên, điều làm cho Thái Lan trở 
nên nổi bật nhất trong lĩnh vực này chính là 
cách làm việc đầy sáng tạo trong công tác 
tổ chức sự kiện thương mại, những điểm 
đến lý tưởng mang đến giá trị cao, cùng 
với vô số những cơ hội kinh doanh cho các 
doanh nghiệp muốn tổ chức những sự kiện 
đấy ý nghĩa và đáng nhớ cho tất cả những 
vị khách tham dự của họ.
Thái Lan nhanh chóng trở thành trung 
tâm của khu vực về công nghiệp dược, và 
rất nhiều doanh nghiệp nước ngoài đang tận 
dụng lợi thế về kết cấu hạ tầng, phương tiện 
vật chất, dịch vụ chuyên nghiệp, năng lực 
sản xuất, nghiên cứu của Thái Lan để đẩy 
mạnh kinh doanh của họ. Các tập đoàn về y 
tế hàng đầu thế giới đều có trụ sở sản xuất 
tại Thái Lan, như 3M, Bausch & Lomb, 
GE Medical Sytems, Johnson & Johnson, 
Medtronic và Siemens. Tất cả những công 
ty này đều gặt hái được rất nhiều thành công 
trong lĩnh vực y tế và CSSK của họ, cả về 
doanh thu, đầu tư và tăng trưởng.
Công nghiệp CSSK Singapore
Chất lượng của hệ thống CSSK 
Singapore rất cao. Quốc đảo này được coi 
là một trong những nơi CSSK tốt nhất thế 
giới. Người Singapore có tuổi thọ cao và 
tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh thấp. Công dân 
được hưởng phúc lợi từ việc CSSK một 
cách toàn diện, được ngân sách quốc gia 
81
Văn hóa - Xã hội NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
Tạp chí 
Kinh doanh và Công nghệ
Số 01/2019
tài trợ; tiền tích lũy bảo hiểm sức khỏe 
thuộc dự án Medisave được thông tin đến 
từng hộ gia đình. Mọi dịch vụ y tế được 
thanh toán như một dạng trợ cấp cho công 
dân. Chi phí CSSK cho những ai không 
tham gia dự án Medisave rất cao, đặc biệt 
đối với khách du lịch ở những nước lân 
cận thuộc khu vực Đông Nam Á. Điều này 
là nhằm để du khách lựa chọn bảo hiểm 
phù hợp hay tính đến chuyện hồi hương 
về nước trong trường hợp khẩn cấp.
Nếu cần một xe cứu thương, hãy gọi 
995. Sẽ nhận được sự chăm sóc khẩn cấp 
và tốt nhất, khi gọi số điện thoại: 6321 
4311 cho Bệnh viện đa khoa Quốc gia 
Singapore. Ngoài ra, tại đây còn có các cơ 
sở y tế tư nhân, như Bệnh viện Raffles, 
với chất lượng CSSK hiện đại theo tiêu 
chuẩn quốc tế, nhưng giá cả thường thấp 
hơn ở châu Âu và Mỹ. Cũng dễ dàng tìm 
được các hiệu thuốc phân bố rộng rãi trên 
khắp nước, đặc biệt là chuỗi cửa hàng 
Watson và Guardian, dược sĩ có thể tư vấn 
điều trị những căn bệnh thông thường.
Frost & Sullivan dự đoán thị trường 
công nghiệp sức khỏe Singapore giai đoạn 
2012-2018 tăng trưởng bình quân hàng 
năm 11,4% và đạt giá trị 22,3 tỷ US$ vào 
năm 2018. Đây là một con số đầy ấn tượng 
khi dân số Singapore khoảng 5,5 triệu 
người (2015), chỉ bằng khoảng 1/20 dân 
số Việt Nam. Cũng cần chú ý là Singapore 
đã đầu tư mạnh mẽ vào khoa học - công 
nghệ và quản lý chất lượng để có một nền 
công nghiệp CSSK thông qua du lịch. Một 
nghiên cứu tiến hành năm 2011 cho thấy, 
hàng năm có khoảng 200.000 khách du lịch 
đến Singapore sử dụng các dịch vụ CSSK 
và chữa bệnh. Du lịch CSSK và chữa bệnh 
đã đem lại cho Singapore một doanh thu 
khoảng 3 tỷ SGD/năm.
CÓ CHĂNG MỘT NỀN CÔNG 
NGHIỆP CSSK VIỆT NAM?
Hiện nay chưa có một đánh giá chính 
thức về thị trường công nghiệp CSSK ở Việt 
Nam. Theo một nghiên cứu của Austrade 
và Australia Unlimited (2016), thị trường 
công nghiệp sức khỏe của Việt Nam ước 
tính là 13 tỷ US$ (2015) và dự đoán sẽ đạt 
24 tỷ US$ vào năm 2020. Tuy nhiên cũng 
cần thấy rằng, số liệu về thị trường công 
nghiệp CSSK của Việt Nam trên thực tế 
có thể lớn hơn các số liệu nói trên vì Việt 
Nam chưa áp dụng hệ thống Tiêu chuẩn 
phân loại công nghiệp toàn cầu và việc thu 
thập số liệu vẫn còn manh mún, thiếu tập 
trung, vừa không đầy đủ, vừa bị trùng lặp.
Ở Việt Nam trước đây, theo truyền 
thống, ngành y tế vẫn được xếp vào khu 
vực sự nghiệp (phi sản xuất), có nhiệm vụ 
cung cấp dịch vụ phòng chữa bệnh bằng 
ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, với chính 
sách xã hội hóa y tế, trong hai thập niên 
qua, các tổ chức y tế tư nhân đã phát triển 
mạnh mẽ cung cấp nhiều loại hình dịch 
vụ (phòng bệnh, khám bệnh, điều trị kể cả 
điều trị bằng kỹ thuật cao, xét nghiệm và 
hoạt động thí nghiệm khác,). Hai ngành 
công nghiệp quốc doanh quan trọng liên 
quan đến CSSK là công nghiệp dược (kể 
cả công nghiệp sản xuất vacxin) và công 
nghiệp thiết bị y tế đã được cổ phần hóa 
tạo tiền đề cho việc khuyến khích các 
nguồn đầu tư tư nhân (trong nước và nước 
ngoài) vào các ngành công nghiệp này.
Trên thực tế, theo Tiêu chuẩn phân 
loại công nghiệp toàn cầu (The Global 
Industry Classification Standard) và Tiêu 
chuẩn phân loại công nghiệp (The Industry 
Classification Benchmark), có thể thấy Việt 
Nam hội đủ các bộ phận cấu thành một nền 
công nghiệp CSSK bao gồm thị trường 
dịch vụ y tế (công và tư), công nghiệp thiết 
bị y tế và công nghiệp dược phẩm, vacxin 
và các công nghiệp phụ trợ khác liên quan 
đến hệ thống CSSK (xây dựng bệnh viện, 
nhà máy dược phẩm, xử lý nước thải y tế 
và công nghiệp dược/vacxin,).
82
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI Văn hóa - Xã hội
Tạp chí 
Kinh doanh và Công nghệ
Số 01/2019
Trước thực tế nêu trên, có lẽ đã đến lúc 
cần nghiên cứu kỹ các khái niệm, các đặc 
điểm, các bộ phận cấu thành của nền công 
nghiệp CSSK ở Việt Nam, nghiên cứu các 
quy luật kinh tế đang được vận hành trên 
thực tế trong lĩnh vực này để có định hướng 
xây dựng các chính sách và quy định quản 
lý Nhà nước thích hợp cho từng bộ phận 
cấu thành của nền công nghiệp CSSK của 
Việt Nam trong mối quan hệ tương hỗ, tác 
động qua lại lẫn nhau để tạo nên sự phát 
triển hài hòa của cả hệ thống, phục vụ có 
hiệu quả sự nghiệp CSSK nhân dân.
Trong những năm sắp tới, trong xu 
thế của toàn cầu cũng như khu vực, công 
nghiệp CSSK Việt Nam chắc chắn sẽ có 
những bước phát triển vượt bậc vì những 
lý do sau đây:
1. Dân số Việt Nam ngày càng già. 
Các thế hệ sinh ra sau 1955 và 1975 bước 
vào tuổi già và cận già, là những nhóm 
người cần có sự CSSK nhiều nhất. Tuổi 
thọ trung bình của người Việt Nam ngày 
càng tăng. Nhờ có thuốc men và chăm sóc 
y tế, con người có thể sống lâu hơn, nhưng 
đồng thời cũng cần đến CSSK nhiều hơn.
2. Tăng dân số. Ngành Y tế phải đáp 
ứng cả tầng lớp dân số trẻ, trung niên và 
người già.
3. Sự tiến bộ của công nghệ và công 
nghiệp dược phẩm, công nghiệp trang thiết 
bị y tế công nghệ cao. Công nghiệp dược 
phẩm/thuốc sinh học và vacxin phát triển 
bền vững với tốc độ tăng trưởng cao.
4. Nền y tế đang trong tiến trình cải 
cách đảm bảo cho người dân ngày càng 
dễ dàng tiếp cận các dịch vụ CSSK. Tính 
sẵn có của dịch vụ CSSK.
5. Ngày càng có nhiều phương pháp 
mới chữa bệnh (HIV, ung thư, tim mạch, 
các bệnh liên quan đến chuyển hóa,) và 
các thiết bị y tế hiện đại được áp dụng ở 
Việt Nam.
6. Trình độ giáo dục và trình độ dân trí 
ngày càng cao. Công nghiệp CSSK ngày 
càng phát triển đòi hỏi lực lượng lao động 
phải thông qua trình độ cao đẳng hoặc đại 
học với thời gian đào tạo 4-6 năm trở lên.
Trước thực tế nêu trên, có lẽ đã đến 
lúc cần nghiên cứu kỹ các khái niệm, các 
đặc điểm, các bộ phận cấu thành của nền 
công nghiệp CSSK ở Việt Nam, nghiên 
cứu các quy luật kinh tế đang được vận 
hành trên thực tế trong lĩnh vực này để 
có định hướng xây dựng các chính sách 
và quy định quản lý nhà nước thích hợp 
cho từng bộ phận cấu thành của nền 
công nghiệp CSSK của Việt Nam trong 
mối quan hệ tương hỗ, tác động qua lại 
lẫn nhau, để tạo nên sự phát triển hài hòa 
của cả hệ thống, phục vụ có hiệu quả sự 
nghiệp CSSK nhân dân.
Tài liệu tham khảo chính:
1. Mosby’s Medical Dictionary. 8th edition, 2009, Elsevier
2. United States Pharmaceuticals and Healthcare Report. Q2, 2012, BMI, March 
20, 2012. 
3. Healthcare Industry Analysis. 2012, Cost &Trends.
4. Plunkett Research Ltd. Health Care Industry Market Research.
5. Singapore Business News. 25th July 2012. Singapore Healthcare Industry.
6. Singapore Pharmaceuticals and Healthcare Report. Q2, 2012. Business 
Monitor International, March 20, 2012.
7. National Center on Education and Economy. Peter E Carlson. Healthcare 
Industry Trends. December, 2006. 
8. Thailand Healthcare Industry 2011-2012. Report Linker.

File đính kèm:

  • pdfnen_cong_nghiep_cham_soc_suc_khoe.pdf