Năng suất và chi phí sử dụng cưa xăng chặt hạ gỗ rừng trồng ở Việt Nam

TÓM TẮT

Năng suất và chi phí sản xuất là hai chỉ tiêu quan trọng trong việc tính toán lập dự trù thiết bị vật tư, nhân lực

và tính toán hiệu quả kinh tế nói chung và khâu chặt hạ trong khai thác gỗ nói riêng. Việc phân tích năng suất

và chi phí sản xuất sẽ góp phần nâng cao năng suất và giảm chi phí sản xuất. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng

năng suất cưa xăng khi chặt hạ gỗ keo trồng thuần loài phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có hai yếu tố chính

là độ dốc địa hình và đường kính cây chặt. Đối với địa hình có độ dốc lớn (52%) và đường kính cây chặt D1.3

đạt 13,5 cm thì năng suất giờ đạt 1,98 m3/h, trong khi địa hình bằng phẳng hơn với độ dốc 21% và đường kính

D1.3 đạt 13,8 cm thì năng suất giờ đạt 2,73 m3/h. Độ dốc địa hình và đường kính cây chặt cũng ảnh hưởng đến chi

phí sử dụng cưa xăng. Trong trường hợp địa hình có độ dốc lớn 52% và đường kính cây chặt D1.3 đạt 13,5 cm thì

chi phí chặt hạ 48.720 đồng/m3, trong khi trường hợp có địa hình bằng phẳng hơn (21%) và đường kính cây lớn

hơn (13,8 cm) thì chi phí chặt hạ giảm xuống chỉ còn 31.680 đồng/m3.

pdf 7 trang phuongnguyen 1380
Bạn đang xem tài liệu "Năng suất và chi phí sử dụng cưa xăng chặt hạ gỗ rừng trồng ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Năng suất và chi phí sử dụng cưa xăng chặt hạ gỗ rừng trồng ở Việt Nam

Năng suất và chi phí sử dụng cưa xăng chặt hạ gỗ rừng trồng ở Việt Nam
Công nghiệp rừng 
144 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 4 - 2018 
NĂNG SUẤT VÀ CHI PHÍ SỬ DỤNG CƯA XĂNG 
CHẶT HẠ GỖ RỪNG TRỒNG Ở VIỆT NAM 
Trần Văn Tưởng 
Trường Đại học Lâm nghiệp 
TÓM TẮT 
Năng suất và chi phí sản xuất là hai chỉ tiêu quan trọng trong việc tính toán lập dự trù thiết bị vật tư, nhân lực 
và tính toán hiệu quả kinh tế nói chung và khâu chặt hạ trong khai thác gỗ nói riêng. Việc phân tích năng suất 
và chi phí sản xuất sẽ góp phần nâng cao năng suất và giảm chi phí sản xuất. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng 
năng suất cưa xăng khi chặt hạ gỗ keo trồng thuần loài phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có hai yếu tố chính 
là độ dốc địa hình và đường kính cây chặt. Đối với địa hình có độ dốc lớn (52%) và đường kính cây chặt D1.3 
đạt 13,5 cm thì năng suất giờ đạt 1,98 m3/h, trong khi địa hình bằng phẳng hơn với độ dốc 21% và đường kính 
D1.3 đạt 13,8 cm thì năng suất giờ đạt 2,73 m
3/h. Độ dốc địa hình và đường kính cây chặt cũng ảnh hưởng đến chi 
phí sử dụng cưa xăng. Trong trường hợp địa hình có độ dốc lớn 52% và đường kính cây chặt D1.3 đạt 13,5 cm thì 
chi phí chặt hạ 48.720 đồng/m3, trong khi trường hợp có địa hình bằng phẳng hơn (21%) và đường kính cây lớn 
hơn (13,8 cm) thì chi phí chặt hạ giảm xuống chỉ còn 31.680 đồng/m3. 
Từ khóa: Chi phí sản xuất, Cưa xăng, khai thác gỗ, năng suất. 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Tổng diện tích rừng của Việt Nam đến năm 
2015 là 14,1 triệu ha trong đó diện tích rừng tự 
nhiên là 10,2 triệu ha, chiếm 72,3% và diện 
tích rừng trồng là 3,9 ha, chiếm 27,7% 
(VNFOREST, 2016). Rừng ở Việt Nam được 
phân làm 3 loại theo chức năng bao gồm rừng 
phòng hộ 4,46 triệu ha (rừng tự nhiên 3,84 
triệu ha, rừng trồng 0,62 triệu ha), rừng đặc 
dụng 2,11 triệu ha (rừng tự nhiên 2,02 triệu ha, 
rừng trồng 0,09 triệu ha) và rừng sản xuất 6,66 
triệu ha (rừng tự nhiên 3,94 ha, rừng trồng 2,72 
ha). Nguồn gỗ cung cấp nội địa chủ yếu được 
khai thác từ rừng sản xuất (VNFOREST, 
2016). 
Theo Bộ Nông nghiệp và PTNT (MARD, 
2016), từ năm 2016 khai thác gỗ rừng tự nhiên 
gồm khai thác chính, tận dụng và tận thu gỗ 
chỉ được thực hiện đối với chủ rừng có phương 
án quản lý rừng bền vững theo quy định của 
nhà nước, có chứng chỉ quản lý rừng bền vững 
và được Thủ tướng chính phủ cho phép. Tuy 
nhiên theo FSC (FSC, 2015), đến năm 2015 
tổng diện tích rừng được cấp chứng chỉ FSC là 
133.823 ha, trong đó chủ yếu là rừng trồng. 
Nghĩa là khai thác gỗ ở Việt Nam từ 2016 chủ 
yếu được diễn ra đối với rừng trồng. Cưa xăng 
là thiết bị chặt hạ gỗ phổ biến hiện nay ở các 
nước trên thế giới. Đối với các nước phát triển, 
mặc dù máy chặt hạ liên hợp hiện đại, năng 
suất cao và an toàn đang được áp dụng rộng rãi 
để chặt hạ gỗ nhưng thiết bị này chỉ phù hợp 
với các địa hình tương đối bằng phẳng, cây có 
đường kính không lớn và gỗ tập trung. Ở 
những khu vực có độ dốc cao và cây có đường 
kính lớn thì cưa xăng vẫn được sử dụng. Ở 
Việt Nam, cưa xăng là dụng cụ chủ yếu dùng 
để chặt hạ gỗ rừng tự nhiên và rừng trồng trong 
thời gian qua và trong những năm tiếp theo. 
Khi sử dụng cưa xăng, hai trong số những 
chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật rất quan trọng cần 
quan tâm đó là năng suất chặt hạ và chi phí sản 
xuất của cưa xăng. Hai chỉ tiêu này là cơ sở để 
lựa chọn cưa xăng, dự trù số lượng cưa xăng 
và tính toán hiệu quả kinh tế khi thiết kế khai 
thác gỗ. Rừng trồng và rừng tự nhiên ở Việt 
Nam phân bố trên các địa hình tương đối đa 
dạng về độ dốc, đường kính cây khai thác cũng 
khác nhau dẫn đến năng suất và chi phí sản 
xuất khi sử dụng cưa xăng sẽ khác nhau. 
Nghiên cứu này nhằm so sánh năng suất và chi 
phí sản xuất ở các điều kiện địa hình và đường 
kính gỗ khai thác khác nhau nhằm cung cấp 
các số liệu tin cậy về năng suất và chi phí sản 
suất khi sử dụng cưa xăng để chặt hạ gỗ, là tài 
liệu tham khảo phục vụ thực tế sản xuất, 
nghiên cứu và học tập. 
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Để xác định năng suất và chi phí sử dụng 
cưa xăng, cần phải lựa chọn địa điểm và thiết 
bị nghiên cứu cụ thể. Sau đó, phương pháp 
nghiên cứu thời gian (time study) được áp 
Công nghiệp rừng 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 4 - 2018 145 
dụng để xác định năng suất chặt hạ. Để xác 
định chi phí sản xuất, nghiên cứu dựa vào 
phương pháp tính toán của Miyata (Miyata, 
E.S., 1980), các số liệu phục vụ tính toán được 
thu thập bằng các phương pháp đo đếm trực 
tiếp ngoài thực địa và phương pháp phỏng vấn. 
2.1. Lựa chọn địa điểm nghiên cứu thu thập 
số liệu 
Trong tổng số 3,88 triệu ha rừng trồng, khu 
vực Đông Bắc chiếm 38% với tổng diện tích 
1.48 triệu ha, còn lại là khu vực Bắc Trung Bộ 
với tổng diện tích 0,81 triệu ha, Duyên Hải 
0,65 triệu ha, Tây Nguyên 0,32 triệu ha và còn 
lại là các khu vực khác với tổng diện tích 0,63 
triệu ha (MARD, 2016). Như vậy, rừng trồng ở 
Việt Nam tập trung lớn nhất ở khu vực Đông 
Bắc và có tính tương đối đại diện cho rừng 
trồng ở Việt Nam. 
Công ty Lâm nghiệp Đoan Hùng nằm trong 
vùng Đông Bắc, là một trong những đơn vị 
hạch toán phụ thuộc của Tổng Công ty Giấy 
Việt Nam. Tổng diện tích đất quản lý sử dụng 
là 2.032 ha trong đó chủ yếu là rừng trồng 
thuần loài chu kỳ kinh doanh từ 5 - 7 năm. 
Diện tích trồng, khai thác rừng hàng năm là 
170 - 300 ha; chăm sóc từ 510 - 900 ha/năm; 
bảo vệ rừng từ 1.400 - 1.600 ha. Sản lượng gỗ 
khai thác, vận chuyển cung cấp cho nhà máy 
giấy trung bình từ 8.000 - 14.000 m3/năm. Địa 
hình rừng của Công ty tương đối đa dạng, từ 
địa hình tương đối bằng phẳng nhỏ hơn 50 đến 
địa hình có độ dốc lớn trên 300. Do đó mang 
tính đại diện cho khu vực Đông Bắc về loại 
rừng, điều kiện địa hình khai thác và hình thức 
chủ sở hữu nên được chọn làm địa điểm đo 
đếm thu thập số liệu. 
Nghiên cứu được thực hiện tại 2 lô khai 
thác. Lô A (lô số 7, tiểu khu 120a) đại diện cho 
trường hợp có độ dốc địa hình lớn và Lô B (lô 
số 9, tiểu khu 120a) đại diện cho trường hợp có 
độ dốc địa hình nhỏ với các thông tin cụ thể 
được thể hiện trong bảng 1. 
Bảng 1. Các thông số đặc trưng của lô thí nghiệm 
Thông tin địa điểm nghiên cứu Đơn vị đo Lô A Lô B 
Diện tích ha 1,4 2,1 
Loại rừng - Trồng thuần loài Trồng thuần loài 
Loài cây - Keo tai tượng Keo tai tượng 
Trữ lượng cây đứng m3/ha 126 119 
Phương thức khai thác - Chặt trắng Chặt trắng 
Đường kính trung bình cm 13,5 13,8 
Chiều dài cắt khúc m 2m và 4m 2m và 4m 
Độ dốc lớn nhất 
Độ dốc nhỏ nhất 
Độ dốc trung bình 
% 
% 
% 
82 
52 
67 
29 
21 
25 
2.2. Lựa chọn loại cưa xăng để nghiên cứu 
Trên thị trường hiện nay có nhiều loại cưa 
xăng dùng cho chặt hạ gỗ đến từ các nước khác 
nhau như Đức, Thụy Điển, Nhật Bản và Trung 
Quốc. Tuy nhiên, theo kết quả khảo sát thực tế 
thì thấy phổ biến nhất hiện nay là cưa Thụy 
Điển dòng Husqvarna 365. Ưu điểm của loại 
cưa này là chất lượng tốt, làm việc tin cậy và 
an toàn. Cưa có kích thước và khối lượng phù 
hợp với tầm vóc và sức khỏe của người Việt 
Nam, công suất phù hợp để chặt hạ đối tượng 
rừng trồng ở Việt Nam. Khai thác gỗ vùng 
Đông Bắc nói chung và tại Công ty Lâm 
nghiệp Đoan Hùng nói riêng cũng chủ yếu 
dùng loại cưa này. Do đó, cưa Husqvarna 365 
được lựa chọn làm thiết bị nghiên cứu thu thập 
số liệu (Hình 2b). 
2.3. Mô tả các thành phần thời gian và 
phương pháp thu thập số liệu 
Áp dụng khái niệm các thành phần thời gian 
cho một ca trong các tài liệu IUFRO (1995) và 
Tran Van Tuong (2013), các thành phần thời 
gian của một ca trong nghiên cứu này được thể 
hiện như trong hình 1. Tổng thời gian một ca 
chặt hạ được chia thành thời gian làm việc và 
thời gian không làm việc. Thời gian làm việc 
gồm thời gian làm việc hiệu quả và thời gian 
trễ. Thời gian trễ bao gồm hai thành phần là 
thời gian trễ có thể tránh được (như thời gian 
chờ đợi các khâu trước, thời gian sửa máy do 
Công nghiệp rừng 
146 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 4 - 2018 
hỏng hóc đột xuất, đi lấy xăng dầu, dũa do tổ 
chức công việc không được hợp lý) và thời 
gian trễ không thể tránh được (như thời gian dũa 
cưa xăng, thời gian đổ xăng, dầu bôi trơn). 
Hình 1. Các thành phần thời gian của một ca chặt hạ áp dụng trong nghiên cứu 
Thời gian làm việc hiệu quả bao gồm thời 
gian di chuyển đến cây chặt, thời gian chuẩn bị 
hạ cây (chọn hướng đổ, phát dọn xung quanh, 
chuẩn bị đường tránh), thời gian mở miệng, 
thời gian cắt gáy, thời gian cắt cành và cắt 
khúc. Đối với thực tế chặt hạ rừng trồng gỗ 
nhỏ ở Việt Nam, thao tác cắt cành và cắt khúc 
không tiến hành cho từng cây riêng rẽ sau khi 
hạ cây đó mà được thực hiện cho nhiều cây 
cùng một lúc sau khi đã hạ một số cây nhất 
định nhằm nâng cao năng suất chặt hạ. Trong 
trường hợp chặt hạ lô A và lô B các thao tác 
cũng diễn ra như thế. Thời gian không làm việc 
bao gồm thời gian đi và về, thời gian nghỉ ăn 
trưa và thời gian nghỉ giữa giờ. 
Để xác định thời gian thực hiện các thao 
tác, nghiên cứu sử dụng đồng hồ bấm giây 
Casino HS 30-W, kết hợp với sử dụng máy 
quay phim Sony HDR-PJ675E để đảm bảo độ 
chính xác của các số liệu thời gian thu thập. 
Đường kính khúc gỗ được xác định bằng thước 
kẹp kính Haglöf Mantax 80, chiều dài khúc gỗ 
được đo bằng thước dây. Nghiên cứu thực 
nghiệm được tiến hành trong 5 ca (8 tiếng/ca). 
Để xác định lượng nhiên liệu và dầu bôi 
trơn tiêu hao, nghiên cứu sử dụng phương pháp 
đong tổng lượng nhiên liệu và dầu bôi sử dụng 
cho cưa xăng trong một ca và lượng nhiên liệu, 
dầu bôi trơn còn lại sau ca làm việc, sử dụng 
bình đựng dung tích Verso 1,5 lít. 
Hình 2. Hình ảnh hiện trường nghiên cứu và loại cưa được sử dụng để nghiên cứu 
a) Hiện trường nghiên cứu; b) Loại cưa được sử dụng để nghiên cứu Husqvarna 365 
Tổng thời gian 
Thời gian không làm việc 
Thời gian đi và về 
Thời gian ăn trưa 
Thời gian nghỉ giữa giờ 
Thời gian làm việc 
Thời gian làm việc hiệu quả Thời gian trễ 
Thời gian trễ có thể 
tránh được 
Thời gian trễ không thể 
tránh được 
a b 
Công nghiệp rừng 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 4 - 2018 147 
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 
3.1. Năng suất cưa xăng 
Thời gian làm việc một ca cho khâu chặt hạ 
được thể hiện trong bảng 2. Tổng thời gian làm 
việc trung bình của lô A là 506 phút (tương 
đương 8,4 tiếng) trong đó thời gian làm việc 
hiệu quả là 242 phút, chiếm 47,8%; thời gian 
không làm việc là 221 phút, chiếm 43,7%; còn 
lại là thời gian gián đoạn 43 phút, chiếm 8,5%. 
Bảng 2. Thời gian thực hiện các thao tác khi sử dụng cưa xăng chặt hạ gỗ 
Các thành phần thời gian 
Thời gian đo được theo lô (phút) 
Lô A Lô B 
Thời gian không làm việc (phút) 
- Thời gian đi và về 
- Thời gian nghỉ giữa giờ 
- Thời gian nghỉ trưa 
221 
16 
30 
175 
154 
18 
26 
110 
Thời gian làm việc hiệu quả (phút) 
- Thời gian di chuyển đến cây chặt hạ 
- Thời gian chọn hướng đổ và chuẩn bị 
- Thời gian mở miệng 
- Thời gian cắt gáy 
- Thời gian cắt cành và cắt khúc 
242 
6 
5 
35 
32 
165 
228 
7 
8 
50 
40 
122 
Thời gian gián đoạn (phút) 
- Không thể tránh được 
- Có thể tránh được 
43 
19 
24 
42 
14 
28 
Tổng thời gian của ca (phút) 506 424 
Tổng thời gian làm việc của lô B là 425 
phút, trong đó thời gian làm việc hiệu quả là 
228 phút, chiếm 53,6%; thời gian không làm 
việc là 154 phút, chiếm 36,2%; còn lại là thời 
gian gián đoạn 42 phút, chiếm 10,2%. 
Tổng thời gian làm việc trung bình một ca 
của lô A nhiều hơn lô B 82 phút. Thời gian 
khác nhau này chủ yếu do thời gian không làm 
việc của lô A nhiều hơn lô B 65 phút và thời 
gian làm việc hiệu quả của lô A nhiều hơn lô B 
14 phút. Trong đó sự chênh lệch thời gian nghỉ 
trưa ở hai lô là lớn nhất với lô A lớn hơn lô B 
tới 65 phút. Sự khác biệt về thời gian như trên 
phản ánh khâu tổ chức công việc chưa được 
khoa học và nhất quán, về cơ bản các khâu 
công việc trong chặt hạ vẫn còn được thực hiện 
theo thói quen công việc. Thời gian mở miệng 
và thời gian cắt gáy của lô A cũng khác nhau 
đáng kể so với lô B, nhiều hơn so với lô B 19 
phút, chủ yếu do điều kiện địa hình, đường 
kính cây và mật độ cây chặt hạ. 
Bảng 3. Khối lượng chặt hạ và thời gian làm việc hiệu quả trung bình một ca 
 Lô A Lô B 
Khối lượng chặt hạ 
trung bình của một ca 
Đường kính D1.3 (cm) 
Số cây chặt/ca 
Thể tích TB/cây (m3) 
Thể tích chặt/ca (m3) 
13,5 
92 
0,087 
7,9 
13,8 
115 
0,09 
10,4 
Thời gian làm việc 
hiệu quả 
Thời gian di chuyển đến cây chặt, chuẩn bị, mở 
miệng và cắt gáy (phút) 
Thời gian cắt cành và cắt khúc (phút) 
77 
165 
106 
122 
Tổng thời gian làm việc hiệu quả (phút) 242 228 
Từ bảng 3 thấy rằng, thời gian làm việc hiệu 
quả trung bình để chặt hạ được một cây từ thao 
tác di chuyển đến cây chặt đến thao tác cắt cành 
và cắt khúc ở lô A với địa hình dốc là 2,6 phút, 
trong đó 1,8 phút cho cắt cành và cắt khúc, 
chiếm 68,9% tổng thời gian chặt hạ một cây. 
Công nghiệp rừng 
148 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 4 - 2018 
Còn lại là 1,2 phút cho việc di chuyển đến cây 
chặt, chuẩn bị, hạ cây và cắt gáy. Đối với lô B, 
với địa hình bằng phẳng hơn có tổng thời gian 
trung bình để thực hiện các thao tác chặt hạ một 
cây bao gồm từ việc di chuyển đến cây chặt, 
công tác chuẩn bị, mở miệng, cắt gáy, cắt cành 
và cắt khúc là 1,9 phút, nhỏ hơn so với trường 
hợp lô A là 0,7 phút. Trong tổng thời gian 1,9 
phút thì 1,1 phút dành cho cắt cành và cắt khúc, 
chiếm 57,9%, còn lại là thời gian dành cho các 
công việc còn lại 0,8 phút, chiếm 42,1%. 
Năng suất giờ cho khâu chặt hạ từ thao tác di 
chuyển đến cây chặt đến việc cắt cành cắt khúc 
tính theo thời gian làm việc hiệu quả được tính 
toán theo giá trị thu được trong bảng 3 đối với 
trường hợp lô A có địa hình bằng phẳng là 1,98 
m3/h, trong khi đối với trường hợp lô B có địa 
hình dốc là 2,73 m3/h, cao hơn so với trường lô 
A là 0,75 m3/h do. Sự khác nhau về năng suất ở 
đây phụ thuộc vào nhiều yếu tố như đường kính 
trung bình cây chặt ở lô B lớn hơn lô A, điều 
kiện thời tiết ảnh hưởng đến khả năng làm việc 
của công nhân, nhưng yếu tố khác nhau về độ 
dốc có ảnh hưởng lớn nhất thể hiện qua số 
lượng cây chặt chặt được ở lô B là 106 cây 
trong khi số cây chặt ở lô A chỉ đạt 77 cây. Như 
vậy, có thể thấy điều kiện địa hình có ảnh 
hưởng lớn đến năng suất chặt hạ của cưa xăng. 
Địa hình bằng phẳng hoặc có độ dốc nhỏ sẽ 
giúp cho các hoạt thao tác được thuận lợi hơn, 
nhất là các thao tác mở miệng cắt gáy, thao tác 
cắt cành cắt khúc trong khi đối với điều kiện địa 
hình dốc hơn sẽ gây khó khăn cho các thao tác 
chặt hạ. 
Năng suất ca cho khâu chặt hạ tính theo bảng 
2 và bảng 3 đối với lô A có độ dốc lớn là 7,9 
m3/ca trong khi đối với trường hợp lô B có độ 
dốc tương đối bằng phẳng có năng suất cao hơn 
là 10,4 m3/ha. Sự khác biệt về năng suất ca này 
do nhiều nguyên nhân như đường kính và mật 
độ cây chặt hạ khác nhau, điều kiện địa hình, 
điều kiện thời tiết, trong đó ảnh hưởng do điều 
kiện độ dốc có ảnh hưởng lớn đến sự khác nhau 
về năng suất. Điều này thể hiện thông qua số 
lượng cây chặt ở trường hợp lô A có độ dốc lớn 
ít hơn 22 cây so với trường hợp lô B có độ dốc 
nhỏ hơn. 
3.2. Chi phí sản xuất khi sử dụng cưa xăng 
Chi phí sản xuất khi sử dụng cưa xăng để 
chặt hạ được tính toán dựa trên các thông số 
đầu vào như trong bảng 4 và năng suất của 
cưa xăng. 
Bảng 4. Các thông số đầu vào để tính chi phí sản xuất khi sử dụng cưa xăng 
TT Nội dung Đơn vị Giá trị 
1 Giá mua mới cưa xăng (Pcx) Đồng/chiếc 9.153.000 
2 Giá trị sau khấu hao (Scx) Đồng/chiếc 915.300 
3 Lãi suất ngân hàng (I) % (một năm) 15% 
4 Thời gian sử dụng cưa xăng (Ncx) Số năm 4 
5 Số ca làm việc cưa xăng (Nngày/năm) Ca/năm 200 
6 Hệ số sửa chữa (f) % so với Scx 50 
7 Giá mua mới bản cưa (Pbc) Đồng/chiếc 1.158.300 
8 Thời gian sử dụng bản cưa (Nbc) Ca 50 
9 Giá mua mới xích cưa (Pxc) Đồng/chiếc 288.900 
10 Thời gian sử dụng xích (Nxc) m
3/chiếc 50 
11 Giá mua dũa xích (Pd) Đồng/chiếc 29.700 
12 Tuổi thọ của dũa xích (Nd) m
3/chiếc 20 
13 Nhiêu liệu tiêu thụ trong 1 ca (F) Lít/ca 4,32 
14 Giá nhiên liệu (Pnhiên lieu) Đồng/lít 16.470 
15 Lượng dầu bôi trơn xích cưa trong một ca (Od) Lít/ca 2,30 
16 Giá dầu bôi trơn xích (Pd) Đồng/lít 19.700 
17 Lượng nhớt pha xăng trong một ca (Onhớt) Lít/ca 0,17 
18 Giá nhớt pha xăng (Pnhớt) Đồng/lít 57.780 
20 Lương công nhân chính Đồng/ca 300.000 
21 Lương công nhân phụ Đồng/ca 200.000 
Công nghiệp rừng 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 4 - 2018 149 
Chi phí sản xuất khi sử dụng cưa xăng để 
chặt hạ được thể hiện trong bảng 5. Đối với lô 
A, tổng chi phí sử dụng cưa xăng là 48.720 
đồng/m3, trong đó chi phí nhân công là 29.040 
đồng/m3, chiếm 59,6%; chi phí nhiên liệu và 
dầu bôi trơn là 10.630 đồng/m3, chiếm 21,81%; 
còn lại là chi phí khấu hao cưa máy, xích cưa và 
bản cưa là 11.040 nghìn/m3, chiếm 18,59%. 
Đối với lô B có địa hình bằng phẳng hơn, 
tổng chi phí khi chặt hạ nhỏ hơn với chi phí là 
31.680 đồng/m3 trong đó chi phí nhân công là 
14.960 đồng/m3, chiếm 47,2%; chi phí nhiên 
liệu và dầu bôi trơn là 8.270 đồng/m3, chiếm 
26,1%; còn lại là chi phí khấu hao máy cưa, 
xích cưa và bản cưa với tổng chi phí là 8.450 
đồng/m3, chiếm 26,7%. 
Như vậy trong cả hai trường hợp, chi phí 
nhân công chiếm tỷ trọng nhiều nhất trong tổng 
chi phí sử dụng cưa xăng để chặt hạ với 59,6% 
trong trường hợp lô A và 47,2% trong trường 
hợp lô B, điều này nói lên rằng kỹ năng của 
công nhân vận hành cưa xăng có ảnh hưởng lớn 
đến chi phí sử dụng cưa, công nhân có kỹ năng 
càng cao sẽ càng giảm được chi phí sử dụng 
cưa. Chi phí nhiên liệu và dầu bôi trơn chiếm tỷ 
trọng gần tương đương với chi phí bảo dưỡng 
sửa chữa và các chi phí khấu hao cưa, xích cưa 
và bản cưa. 
Bảng 5. Chi phí sử dụng cưa xăng để chặt hạ tại lô A và lô B trong nghiên cứu 
STT Nội dung chi phí Đơn vị Chi phí theo các lô 
 Lô A Lô B 
I Chi phí máy móc đ/m3 19.680 16.720 
1 Chi phí cố định đ/m3 3.360 2.631 
 Khấu hao đ/m3 2.160 1.592 
 Lãi suất đ/m3 1.200 1.039 
 Bảo hiểm đ/m3 0.00 0.00 
 Thuế đ/m3 0.00 0.00 
2 Chi phí lưu động đ/m3 16.320 14.089 
 Chi phí sửa chữa bảo dưỡng đ/m3 1.440 1.334 
 Chi phí khấu hao bản cưa đ/m3 870 992 
 Chi phí khấu hao xích cưa đ/m3 2.160 2.091 
 Chi phí khấu hao dũa xích đ/m3 1.220 1.402 
 Chi phí nhiên liệu đ/m3 6.600 5.396 
 Chi phí dầu bôi trơn đ/m3 4.030 2.874 
II Chi phí nhân công đ/m3 29.040 14.960 
 Tổng chi phí đ/m3 48.720 31.680 
Tổng chi phí nói chung và các thành phần 
chi phí trong trường hợp lô A cao hơn lô B là do 
năng suất lô A thấp hơn lô B. Đặc biệt là sự 
chênh lệch về chi phí nhân công giữa hai trường 
hợp lớn hơn sự chênh lệch của các chi phí khác. 
Điều này có thể được giải thích là do các chi phí 
như nhiên liệu dầu mỡ, sửa chữa bảo dưỡng, 
hao mòn gần như tỷ lệ thuận với khối lượng 
công việc hoàn thành, do đó các chi phí này tính 
cho 1 m3 sẽ khác nhau không nhiều trong khi 
lương của công nhân trong một ca có tính ổn 
định tương đối. Do vậy nếu tính chi phí nhân 
công tính cho 1 m3 gỗ tròn chặt hạ thì chi phí 
nhân công phụ thuộc nhiều vào năng suất của 
cưa xăng. 
IV. KẾT LUẬN 
Nghiên cứu đã tính toán và phân tích được 
năng suất và chi phí sản xuất của cưa xăng sử 
dụng để chặt hạ gỗ rừng trồng thuần loài khai 
thác trắng cho hai trường hợp điển hình ở Việt 
Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng năng 
suất cưa xăng chặt hạ gỗ rừng trồng keo thuần 
loài ở Việt Nam phụ thuộc vào nhiều yếu tố 
trong đó có điều kiện độ dốc địa hình và đường 
kính cây chặt hạ. Đối với địa hình có độ dốc 
trung bình 52% và đường kính cây chặt 13,5 
cm thì năng suất chặt hạ trung bình tính cho 
thời gian làm việc hiệu quả đạt 1,98 m3/h (7,9 
m3/ca), trong khi địa hình thuận lợi hơn với độ 
dốc 21% và đường kính cây chặt 13,8 cm thì 
Công nghiệp rừng 
150 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 4 - 2018 
năng suất chặt hạ tính cho thời gian làm việc 
hiệu quả là 2,73 m3/h (10,4 m3/ca), cao hơn so 
với trường hợp địa hình dốc và đường kính cây 
nhỏ hơn. 
Điều kiện độ dốc địa hình và đường kính cây 
chặt cũng ảnh hưởng đến chi phí sử dụng cưa 
xăng để chặt hạ. Trong trường hợp địa hình có 
độ dốc trung bình 52% và đường kính cây chặt 
13,5 cm thì chi phí chặt hạ 48.720 đồng/m3, 
trong khi trường hợp có địa hình bằng phẳng 
hơn (21%) và đường kính cây lớn hơn (13,8 
cm) thì chi phí chặt hạ là 31.680 đồng/m3, thấp 
hơn so với trường hợp địa hình dốc và đường 
kính gỗ nhỏ hơn. Kết quả nghiên cứu cũng cho 
thấy rằng, chi phí nhân công tính cho 1 m3 ảnh 
hưởng nhiều bởi năng suất chặt hạ trong 1 ca. 
Nếu năng suất ca lớn thì chi phí nhân công tính 
cho 1 m3 gỗ chặt hạ sẽ thấp hơn đối với trường 
hợp năng suất ca nhỏ. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. VNFOREST (2016). Quyết định số 3158/QĐ-
BNN-TCLN, ngày 27/7/2016 về việc Công bố hiện 
trạng rừng 2015. Tổng cục Lâm nghiệp. 
2. MARD (2016). Thông tư số 21/2016/TT-
BNNPTNT, ngày 28/6/2016 về việc Quy định về khai 
thác chính và tận dụng, tận thu lâm sản. Bộ Nông nghiệp 
và Phát triển nông thôn. 
3. FSC (2015). An overview of recent trends and 
current status of Forest Stewardship Council (FSC) 
certification. https://us.fsc.org/en-us/what-we-do/facts-
figures. 
4. IUFRO (1995). Forestry Work Nomenclature. In 
Test edition valid 1995-2000 (Garpenberg, Sweden, 
Sveriges Lantbruksuniv), p. 16. 
5. Tran Van Tuong (2013). Timber and harvesting in 
Vietnam - Issue and way forward in sustainability. 
Lambert Academic Publishing. ISBN: 978365987321. 
6. Miyata, E.S. (1980). Determining fixed and 
operating costs of logging equipment (St. Paul, 
Minneosta, U.S. Department of Agriculture Forest 
Service), p. 16. 
PRODUCTIVITY AND PRODUCTION COST OF CHAINSAW 
USED FOR FELLING PLANTATION IN VIETNAM 
Tran Van Tuong 
Vietnam National University of Forestry 
SUMMARY 
Productivity and production costs are the important indicators for the calculation of machinery and human plan 
and economic efficiency in general and in cutting process in timber harvesting in particular. Productivity and 
production cost analysis helps to increase productivity and reduce production costs. The results of the study 
shows that productivity of felling and debranching and crosscutting activities for acacia forest depend on many 
factors in which there are main factors including terrain slope and high breast diameter (D1.3). When the terrain 
slope of 52% and the diameter D1.3 of 13.5 cm, the hour productivity reachs 1.98 m
3/h. When the slope is smaller 
with 21% and diameter D1.3 reaches 13.8 cm and hour productivity reaches 2.73 m
3/h. The factors of slope terrain 
and tree diameter also affect to the production costs of chainsaw. The production costs are calculated at 48.720 
VND/m3 when the slope terrain is lower with 21% and the diameter D1.3 reaches 13.8 cm, the production costs are 
calculated at 31.680 VND/m3. 
Keywords: Chainsaw, production cost, productivit, timber harvesting. 
Ngày nhận bài : 27/4/2018 
Ngày phản biện : 23/7/2018 
Ngày quyết định đăng : 04/8/2018 

File đính kèm:

  • pdfnang_suat_va_chi_phi_su_dung_cua_xang_chat_ha_go_rung_trong.pdf