Nâng cao tính cạnh tranh của môi trường đầu tư kinh doanh Việt Nam trong bối cảnh mới

Công tác cải cách, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh ở Việt Nam đã, đang diễn ra mạnh mẽ,

thể hiện quyết tâm nâng cao năng lực phục vụ doanh nghiệp của Chính phủ. Tuy nhiên, quá trình

cải cách là một chặng đường dài, đòi hỏi sự nỗ lực thường xuyên, liên tục của các bộ, ngành, địa

phương. Phân tích năng lực cạnh tranh của môi trường đầu tư kinh doanh Việt Nam trong bối cảnh

toàn cầu có nhiều thay đổi, bài viết đề xuất các giải pháp và gợi mở định hướng triển khai góp phần

nâng cao tính cạnh tranh của môi trường đầu tư kinh doanh Việt Nam trong thời gian tới.

pdf 4 trang phuongnguyen 240
Bạn đang xem tài liệu "Nâng cao tính cạnh tranh của môi trường đầu tư kinh doanh Việt Nam trong bối cảnh mới", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nâng cao tính cạnh tranh của môi trường đầu tư kinh doanh Việt Nam trong bối cảnh mới

Nâng cao tính cạnh tranh của môi trường đầu tư kinh doanh Việt Nam trong bối cảnh mới
24
KINH TẾ - TÀI CHÍNH VĨ MÔ
quyết số 19-2018/NQ-CP cải thiện môi trường kinh 
doanh nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia; Nghị 
quyết số 35/NQ-CP của Chính phủ về hỗ trợ và phát 
triển doanh nghiệp (DN) đến năm 2020; xây dựng, 
sửa đổi các bộ luật liên quan tới hoạt động kinh 
doanh theo chuẩn mực quốc tế như Luật DN, Luật 
Đầu tư... Nhờ đó, MTĐTKD của Việt Nam đã được 
các tổ chức quốc tế đánh giá cao. Cụ thể, Việt Nam 
được đánh giá là một trong những nền kinh tế cạnh 
tranh nhất trong giai đoạn 2007-2016 của nhóm các 
nước có thu nhập thấp và nhóm thu nhập trung bình 
thấp theo đánh giá của World Bank. Theo báo cáo về 
năng lực cạnh tranh toàn cầu năm 2018, Việt Nam 
đã tụt 3 bậc so với năm 2017, đứng thứ 77/140 quốc 
gia. Trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương, Việt 
Nam nằm trong nhóm giữa với tính cạnh tranh của 
MTĐTKD cách khoảng 40 điểm so với điểm số tối 
đa có thể đạt được cùng với các quốc gia Đông Nam 
Á khác như: Indonesia, Thái Lan và Philippines. 
Tuy vậy, nếu nhìn cận cảnh và tập trung vào các 
chỉ số cần phải cải thiện có thể thấy, trong khu vực 
ASEAN, Việt Nam đã có những chỉ số bị tụt hậu so 
với không chỉ nhóm ASEAN 4, mà còn so với các 
nước vốn được coi là kém phát triển hơn như Lào và 
Campuchia. Trong số 12 chỉ số thành phần của chỉ 
số cạnh tranh toàn cầu (GCI), nhóm các chỉ số có thứ 
hạng thấp nhất và có xu hướng giảm điểm tuyệt đối, 
bao gồm các chỉ số liên quan tới thị trường sản xuất, 
sự năng động kinh doanh, kỹ năng, thể chế. Việc 
phân tích cụ thể các chỉ số thành phần cấu thành 
các nhóm chỉ số chính này sẽ chỉ ra những điểm cần 
khắc phục của MTĐTKD của Việt Nam. 
Về chỉ số kỹ năng: Việt Nam nằm ở nhóm cuối 
cùng của bảng xếp hạng 140 nước; tụt hạng so với 
Thực trạng môi trường 
đầu tư kinh doanh tại Việt Nam
Những năm gần đây, môi trường đầu tư kinh 
doanh (MTĐTKD) của Việt Nam liên tục được cải 
thiện mạnh mẽ. Kết quả này có được là do Chính 
phủ chỉ đạo sát sao nhiệm vụ này với nhiều chủ 
trương, chính sách kịp thời và hiệu quả như: Nghị 
NÂNG CAO TÍNH CẠNH TRANH CỦA MÔI TRƯỜNG 
ĐẦU TƯ KINH DOANH VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH MỚI
TS. TRẦN TIẾN DŨNG - Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương *
Công tác cải cách, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh ở Việt Nam đã, đang diễn ra mạnh mẽ, 
thể hiện quyết tâm nâng cao năng lực phục vụ doanh nghiệp của Chính phủ. Tuy nhiên, quá trình 
cải cách là một chặng đường dài, đòi hỏi sự nỗ lực thường xuyên, liên tục của các bộ, ngành, địa 
phương. Phân tích năng lực cạnh tranh của môi trường đầu tư kinh doanh Việt Nam trong bối cảnh 
toàn cầu có nhiều thay đổi, bài viết đề xuất các giải pháp và gợi mở định hướng triển khai góp phần 
nâng cao tính cạnh tranh của môi trường đầu tư kinh doanh Việt Nam trong thời gian tới.
Từ khóa: Môi trường đầu tư kinh doanh, doanh nghiệp, thu hút FDI, nền kinh tế
IMPROVING THE COMPETITIVENESS OF THE BUSINESS 
ENVIRONMENT OF VIETNAM IN THE NEW CONTEXT
Tran Tien Dzung - Central Institute for Economic 
Management
The reform and improvement of the investment 
and business environment has been going on 
strongly, demonstrating the Government’s 
determination to improve its business support 
capacity. However, the reform process is a long 
process requiring constant and continuous 
efforts of ministries, industries and localities. 
Analyzing the competitiveness of Vietnam’s 
business and investment environment in a 
changing global context, the paper proposes 
solutions and suggests directions to improve 
the competitiveness of the Vietnam’s business 
investment environment in the coming years.
Keywords: Business investment environment, enterprises, 
FDI attraction, economy
Ngày nhận bài: 17/1/2019
Ngày hoàn thiện biên tập: 11/2/2019 
Ngày duyệt đăng: 15/2/2019
*Email: tiendungtran@mpi.gov.vn
TÀI CHÍNH - Tháng 02/2019
25
năm 2017 và kém rất xa so với trung bình của khu 
vực châu Á - Thái Bình Dương. Trong khu vực 
Đông Nam Á, Việt Nam (97/140) chỉ nhỉnh hơn Lào, 
Campuchia nhưng kém tương đối xa các quốc gia 
còn lại. Trong các chỉ số thành phần liên quan đế 
kỹ năng, Việt Nam xếp hạng thấp ở chỉ số về chất 
lượng hệ thống đào tạo nghề, thứ hạng của Việt 
Nam là 115/140 chỉ cao hơn Campuchia trong khu 
vực Đông Nam Á. 
Về chỉ số về kỹ năng sau khi tốt nghiệp có đáp 
ứng nhu cầu của các DN, Việt Nam xếp thứ 128/140 
quốc gia của bảng xếp hạng thấp nhất trong số các 
nước ASEAN được xếp hạng. Sự dễ dàng trong tìm 
kiếm người lao động có kỹ năng cũng là một điểm 
yếu của Việt Nam (104/140) so với các nước trong 
khu vực Đông Nam Á (Bảng 1). Ngoài ra, mặc dù 
tỷ lệ người sử dụng internet tại Việt Nam là khá cao 
(54% dân số sử dụng internet năm 2017) nhưng chỉ 
số kỹ năng số của người lao động tại Việt Nam chỉ 
xếp thứ 98/140 quốc gia, trong khu vực Đông Nam 
Á chỉ cao hơn Campuchia (107/140). Đây là trở ngại 
đối với Việt Nam không chỉ trong ứng dụng công 
nghệ thông tin (CNTT) và các thành tựu của Cách 
mạng công nghiệp 4.0 (CMCN 4.0).
Về chỉ số thị trường sản xuất: Việt Nam tụt hạng 
so với năm 2017 và chỉ xếp thứ 102/140 quốc gia. 
Những chỉ số đã kéo tụt thứ hạng về thị trường của 
Việt Nam gồm: Sự phổ biến của các hàng rào phi 
thuế quan trên thị trường, tính cạnh tranh của các 
dịch vụ và sự biến dạng thị trường do trợ cấp, ưu 
đãi thuế. So sánh với các quốc gia trong khu vực 
cho thấy, Việt Nam kém hơn so với: Lào (91/140); 
Malaysia (24/140); Singapore (1/140); Thái Lan 
(92/140); Indonesia (51/140); Philippines (60/140) và 
chỉ nhỉnh hơn so với Campuchia (114/140). 
Về tính năng động trong kinh doanh và thể chế: Theo 
Báo cáo Doing Business 2018, Việt Nam đã có những 
bước tiến tích cực về thứ hạng trên 
bảng xếp hạng chung với vị trí 68/190 
nền kinh tế, tăng 14 bậc so với năm 
2017. Tuy nhiên, năm 2018, các chỉ số 
môi trường kinh doanh đã giảm bậc, 
điều này cho thấy sự tương đồng 
giữa những điểm cần cải thiện của 
Việt Nam trong Chỉ số GCI và chỉ 
số Doing Business. Các chỉ số giảm 
bậc bao gồm: Khởi sự kinh doanh 
(giảm 2 bậc); Đăng ký sở hữu tài sản 
(giảm 4 bậc) và Giải quyết phá sản 
DN (giảm 4 bậc). Thứ hạng về thể 
chế của Việt Nam gắn với các chỉ số 
thành phần về quyền sở hữu và bảo 
vệ quyền sở hữu trí tuệ cũng thấp nhất trong khu 
vực Đông Nam Á (Bảng 2).
Một số tồn tại, hạn chế
Trong những năm qua, MTĐTKD tại Việt Nam 
có nhiều bước tiến quan trọng, nhưng trước yêu cầu 
của thực tiễn, cần tiếp tục cải thiện mạnh mẽ hơn 
nữa ở các lĩnh vực như: Chất lượng nguồn nhân lực, 
chất lượng hạ tầng, thể chế chính sách về đầu tư 
kinh doanh, cụ thể:
Thứ nhất, nguồn nhân lực dồi dào, giá nhân công 
rẻ nhưng tỷ lệ lao động đã qua đào tạo còn thấp và 
các kỹ năng được đào tạo chưa đáp ứng được nhu 
cầu của thị trường sử dụng lao động. Tỷ lệ lao động 
có kỹ năng nghề nghiệp từ mức trung bình trở lên 
còn thấp so với mặt bằng chung các nước ASEAN. 
Các kỹ năng nghề nghiệp chưa đáp ứng được nhu 
cầu, đòi hỏi của các DN sử dụng lao động cả trong 
nước và các DN có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 
(FDI). Đối với hệ thống giáo dục, đào tạo nói chung, 
các học sinh và sinh viên sau khi tốt nghiệp còn 
thiếu các kỹ năng mềm, kỹ năng về CNTT, ngoại 
ngữ để đáp ứng yêu cầu sử dụng lao động. 
Theo Báo cáo về chỉ số phát triển con người của 
Diễn đàn Kinh tế Thế giới năm 2016, tỷ lệ lao động 
có kỹ năng cao của Việt Nam chiếm chưa tới 10% 
tổng số lao động, thấp hơn rất nhiều so với ASEAN 
BẢNG 1: XẾP HẠNG MỘT SỐ CHỈ SỐ THÀNH PHẦN VỀ CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC 
CỦA VIỆT NAM VÀ CÁC NƯỚC ASEAN THEO BẢNG XẾP HẠNG CỦA WORLD BANK 2018
Quốc gia Chất lượng đào tạo nghề
Kỹ năng sau 
khi tốt nghiệp
Sự sẵn có của lao 
động có kỹ năng
Kỹ năng số của 
người lao động
Việt Nam 115 128 104 98
Lào 100 74 96 81
Campuchia 118 111 121 107
Thái Lan 75 61 61 61
Malaysia 9 6 4 11
Singapore 8 5 9 6
Indonesia 34 33 35 39
Philippines 25 27 20 24
Ngồn: Tác giả tổng hợp
Theo Báo cáo Doing Business 2018, Việt Nam 
có những bước tiến tích cực về thứ hạng trên 
bảng xếp hạng chung với vị trí 68/190 nền kinh 
tế, tăng 14 bậc so với năm 2017. Tuy nhiên, 
năm 2018, các chỉ số môi trường kinh doanh 
đã giảm bậc, điều này cho thấy sự tương đồng 
giữa những điểm cần cải thiện của Việt Nam 
trong Chỉ số GCI và chỉ số Doing Business. 
26
KINH TẾ - TÀI CHÍNH VĨ MÔ
-4. Nếu tính gộp lao động có kỹ năng trung bình và 
kỹ năng cao thì Việt Nam xếp cuối cùng trong 10 
nước ASEAN (Hình 1). Theo Báo cáo về chỉ số phát 
triển con người của Diễn đàn Kinh tế Thế giới năm 
2017, Chỉ số học hỏi thể hiện qua tỷ lệ người lao 
động có kỹ năng cao, kỹ năng trung bình, độ phức 
tạp của nền kinh tế và sự sẵn có của lao động có kỹ 
năng. Ở chỉ số này, Việt Nam xếp hạng thứ 120/130 
quốc gia trong bảng xếp hạng 2017. 
Thứ hai, các chính sách về thu hút và ưu đãi đầu 
tư, theo ngành và lĩnh vực, địa bàn đầu tư mặc dù 
giúp thu hút được lượng FDI lớn cho phát triển kinh 
tế nhưng trong một số ngành kết quả các DN FDI 
tạo ra chưa tương xứng với các ưu đãi.
Theo đánh giá của Oxfam, chính sách ưu đãi 
thuế của Việt Nam trên thực tế chưa đạt được các 
mục tiêu về thu hút đầu tư như đã đặt ra. Một số 
DN FDI chủ yếu tận dụng các chính sách ưu đãi, 
không tập trung vào những khâu tạo ra giá trị gia 
tăng cao, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh 
của nền kinh tế Việt Nam. Ngoài ra, chính sách ưu 
đãi dựa trên lĩnh vực, hoặc địa bàn đầu tư cũng dẫn 
tới những nguy cơ DN FDI chuyển đổi địa bàn đầu 
tư hoặc điều chỉnh dự án để được nhận 
những ưu đãi. Đây là nguyên nhân của 
quá trình cạnh tranh xuống đáy giữa 
các địa phương. Chính sách ưu đãi và 
thu hút đầu tư cũng tạo ra những bất 
bình đẳng giữa DN trong nước và DN 
nước ngoài, DN lớn và DN nhỏ. 
Thứ ba, năng suất lao động (NSLĐ) 
của Việt Nam còn thấp so với các quốc 
gia trong khu vực và trên thế giới. Có 
một mối tương quan giữa cải thiện 
NSLĐ và nâng cao tính cạnh tranh của 
MTĐTKD. Theo Krugman, NSLĐ cao 
hơn đồng nghĩa với tính cạnh tranh 
được cải thiện. Còn theo M. Porter, tính 
cạnh tranh phụ thuộc lâu dài vào NSLĐ. NSLĐ phụ 
thuộc vào sự sẵn có và chất lượng nguồn nhân lực 
cùng với việc sử dụng và ứng dụng khoa học công 
nghệ. Tuy vậy, việc ứng dụng khoa học công nghệ 
vào sản xuất vẫn còn là vấn đề với nền kinh tế Việt 
Nam, do tính chất sử dụng nhiều lao động tay nghề 
thấp và tham gia các công đoạn gia công mang lại 
giá trị gia tăng thấp là chính. 
Thứ tư, chất lượng hạ tầng trên cả nước và ngay 
cả các thành phố trực thuộc Trung ương vẫn bộc 
lộ những yếu kém ảnh hưởng đến tính cạnh tranh 
của môi trường đầu tư kinh doanh như: Chất lượng 
giao thông, cấp thoát nước, hạ tầng đô thị và môi 
trường sống chưa cao. Những vấn đề này có thể làm 
tăng chi phí sản xuất kinh doanh của DN và làm 
giảm hiệu quả, gây tổn thất cho toàn bộ nền kinh tế.
Thứ năm, hiệu quả hoạt động của bộ máy chính 
quyền các cấp còn chưa cao và thể chế luật pháp bảo 
vệ quyền sở hữu trí tuệ còn chưa hoàn thiện. Các 
DN còn mất nhiều thời gian để khởi sự kinh doanh, 
cho thanh tra, kiểm tra và các thủ tục hành chính 
khác. Chính những vấn đề này làm giảm hiệu quả 
hoạt động của DN và tăng chi phí sản xuất. Về mặt 
luật pháp, vấn đề quyền sở hữu và bảo vệ quyền 
sở hữu cũng là một rào cản quan trọng khiến cho 
các DN FDI còn e dè trong việc hợp tác với các DN 
trong nước, đặc biệt là trong chuyển giao công nghệ 
và trong các lĩnh vực khoa học công nghệ.
Đề xuất, kiến nghị
Để nâng cao tính cạnh tranh của môi trường 
đầu tư kinh doanh, cần tiếp tục tập trung cải thiện 
các mặt còn yếu kém, đáp ứng nhu cầu phát triển, 
cụ thể cần tập trung vào những giải pháp trọng 
tâm sau:
Thứ nhất, xây dựng Chính phủ điện tử và đơn giản 
hóa các thủ tục hành chính; Đầu tư hơn nữa cho phát 
HÌNH 1: TỶ LỆ LAO ĐỘNG CÓ KỸ NĂNG 
TRONG NỀN KINH TẾ MỘT SỐ NƯỚC ASEAN (%)
Nguồn: Báo cáo về chỉ số phát triển con người 2016 của Diễn đàn Kinh tế thế giới
BẢNG 2: BẢNG XẾP HẠNG VỀ MỘT SỐ CHỈ SỐ THÀNH PHẦN VỀ THỊ TRƯỜNG, 
TÍNH NĂNG ĐỘNG TRONG KINH DOANH VÀ THỂ CHẾ CỦA VIỆT NAM VÀ CÁC 
NƯỚC ASEAN
Quốc gia Thời gian khởi sự kinh doanh
Tỉ lệ thu hồi tài 
sản sau phá sản
Quyền 
sở hữu
Bảo vệ quyền 
sở hữu trí tuệ
Việt Nam 104 109 104 105
Lào 136 133 102 87
Campuchia 139 125 93 103
Thái Lan 17 26 74 99
Malaysia 98 19 22 24
Singapore 5 4 3 3
Indonesia 108 33 47 44
Philippines 115 112 65 52
Nguồn: Tổng cục Thống kê
TÀI CHÍNH - Tháng 02/2019
27
triển hạ tầng công nghệ thông tin và truyền thông, tạo 
nền tảng cho CMCN 4.0 có thể được triển khai hiệu 
quả tại các DN; Tạo điều kiện cho người dân và các 
DN được sử dụng hiệu quả các thành quả của CMCN 
4.0 nói chung và Chính phủ điện tử nói riêng; Xây 
dựng “Môi trường đầu tư 4.0” phù hợp với nhu cầu 
của DN trong thời đại công nghệ số bằng những giải 
pháp trực tuyến thuận tiện cho người dân và DN.
Thứ hai, nâng cao NSLĐ của nền kinh tế, đặc biệt 
trong lĩnh vực nông nghiệp thông qua việc tăng tỷ 
lệ lao động đã qua đào tạo trong toàn bộ nền kinh 
tế. Thực tế cho thấy, mặc dù lĩnh vực nông nghiệp 
chiếm tới 40% tổng số lao động của nền kinh tế 
nhưng lại là khu vực có NSLĐ thấp nhất trong toàn 
bộ nền kinh tế. Các con số thống kê cho thấy, một 
mối tương quan dương giữa NSLĐ và tỷ lệ lao động 
đã qua đào tạo: mỗi 1% lao động đã qua đào tạo 
tăng thêm sẽ giúp tăng NSLĐ của toàn bộ nền kinh 
tế thêm 6,44 triệu đồng (Hình 2).
Thứ ba, đào tạo nghề nói riêng và đào tạo học sinh, 
sinh viên nói chung dựa trên nhu cầu của thị trường và 
của DN. Theo đó, cần xây dựng chương trình đào tạo 
dựa trên việc khảo sát nhu cầu của thị trường lao động 
và tham vấn các DN. Bên cạnh việc gắn kỹ năng nghề 
nghiệp với nhu cầu của thị trường, các kỹ năng quan 
trọng trong bối cảnh CMCN 4.0 là các kỹ năng mềm, 
ngoại ngữ, tin học, khả năng học hỏi trong môi trường 
làm việc và khả năng đổi mới sáng tạo. Cùng với đó, 
tăng cường năng lực đổi mới sáng tạo của người dân, 
đặc biệt là người lao động, thông qua việc cải cách,̀ 
đổi mới phương thức dạy học và chương trình học. 
Chương trình học gắn với việc giải quyết các vấn đề 
cụ thể đặt ra trong cuộc sống. Phương pháp dạy học 
đòi hỏi sự chủ động tham gia của người học, nâng cao 
tỷ lệ thực hành trong tổng số giờ học.
Thứ tư, tiếp tục cải cách thể chế, nhằm tạo môi 
trường đầu tư kinh doanh lành mạnh, minh bạch, 
công bằng: Đảm bảo các quyền sở hữu và bảo vệ 
quyền sở hữu trí tuệ nhằm tạo ra môi trường lành 
mạnh, minh bạch để các DN FDI có thể yên tâm chia 
sẻ, thiết lập các mối quan hệ dài hạn và tin cậy đối 
với các DN trong nước; Thực hiện các ưu đãi, hỗ trợ 
dựa trên hiệu quả hoạt động của DN thay vì các ưu 
đãi hỗ trợ theo lĩnh vực, địa bàn hay quy mô vốn, 
quy mô lao động; Nâng cao chất lượng ứng dụng 
KHCN trong sản xuất kinh doanh bằng việc đầu 
tư nhiều hơn cho nghiên cứu khoa học và khuyến 
khích nghiên cứu và phát triển trong các DN. 
Thứ năm, lựa chọn một số địa bàn quan trọng làm 
đầu tàu để đầu tư xây dựng và áp dụng các kết quả 
của CMCN 4.0. Trước mắt, cần lựa chọn một số địa 
bàn quan trọng, có thể là một số thành phố trực thuộc 
Trung ương để đầu tư xây dựng và ứng dụng các kết 
quả của CMCN 4.0 như: Thành phố thông minh, dữ 
liệu chia sẻ, dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo, internet vạn 
vật nhằm tạo cú hích để cải thiện tính cạnh tranh của 
MTĐTKD và tác động lan tỏa cho toàn bộ nền kinh 
tế. Các thành phố như Hà Nội và Hồ Chí Minh đi 
đầu trong ứng dụng các kết quả của CMCN 4.0, giải 
quyết các vấn đề hạ tầng nhằm tạo bước phát triển 
nhảy vọt về kinh tế. Đồng thời, chủ động xây dựng 
chiến lược thu hút đầu tư trong giai đoạn CMCN 4.0 
dựa trên việc thu hút đầu tư vào các ngành công nghệ 
cao, có chiến lược chuẩn bị phù hợp về hạ tầng kỹ 
thuật, CNTT và nguồn nhân lực.
Tóm lại, nâng cao tính cạnh tranh của môi 
trường đầu tư kinh doanh đóng vai trò quan trọng 
trong việc đảm bảo sự phát triển nhanh, bền vững, 
nhằm đưa nước ta vượt qua bẫy thu nhập trung 
bình và tận dụng thành công những cơ hội của cuộc 
CMCN 4.0. Để làm được điều này, cần tập trung: 
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng nhu 
cầu thị trường và nâng cao NSLĐ; Sử dụng và 
ứng dụng các thành quả của CMCN 4.0 vào xây 
dựng chính quyền điện tử, cải thiện chất lượng hạ 
tầng, nâng cao tính nhanh chóng, dễ dàng, minh 
bạch cho người dân và DN trong các thủ tục hành 
chính; Nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học 
và nghiên cứu phát triển trong DN. Đặc biệt, Nhà 
nước cần có chiến lược từ ngắn hạn tới dài hạn 
hướng tới một mục tiêu cao nhất là nâng cao đời 
sống của người dân và vị thế của đất nước. 
Tài liệu tham khảo:
1. Oxfam (2016), Đánh giá chính sách ưu đãi thuế tại Việt Nam;
2. WEF (2017), The Global Human Capital Report 2017; 
3. WEF (2018), The Global Competitiveness Report 2018;
4. Zofia Wysokińska (2003), Competitiveness and Its Relationships with 
Productivity and Sustainable Development; 
5. Micheal Porter (1990), The Competitive Advantage of Nations;
6. Các website: news.zing.vn, vietnamnews.vn, thesaigontimes.vn
HÌNH 2: TƯƠNG QUAN GIỮA NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG 
VÀO TỶ LỆ LAO ĐỘNG QUA ĐÀO TẠO GIAI ĐOẠN 2010-2017 (%)
Nguồn: Tác giả tính toán từ số liệu của Tổng cục Thống kê

File đính kèm:

  • pdfnang_cao_tinh_canh_tranh_cua_moi_truong_dau_tu_kinh_doanh_vi.pdf