Nâng cao năng lực ngành công nghiệp chế biến gỗ của Việt Nam đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế

Ngành công nghiệp chế biến gỗ của VN đã đạt được nhiều thay đổi tích cực trong những năm vừa qua, sản lượng và chất lượng sản phẩm tăng cao, sản phẩm đã được tiêu thụ rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới. Tuy

nhiên, năng lực của ngành chế biến gỗ nước ta cả về quy mô lẫn chất lượng vẫn

chưa đáp ứng được những yêu cầu đặt ra của quá trình hội nhập quốc tế. Bài viết

này dựa trên nguồn số liệu thứ cấp thu thập được từ các cơ quan chức năng nhằm

đánh giá thực trạng ngành công nghiệp chế biến gỗ của VN hiện nay, nêu lên những

hạn chế, thách thức của ngành chế biến gỗ trước yêu cầu hội nhập quốc tế và đề

suất một số khuyến nghị góp phần nâng cao năng lực của ngành chế biến gỗ VN.

pdf 6 trang phuongnguyen 1360
Bạn đang xem tài liệu "Nâng cao năng lực ngành công nghiệp chế biến gỗ của Việt Nam đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nâng cao năng lực ngành công nghiệp chế biến gỗ của Việt Nam đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế

Nâng cao năng lực ngành công nghiệp chế biến gỗ của Việt Nam đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế
Số 18 (28) - Tháng 09-10/2014 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP 
 Nghiên Cứu & Trao Đổi
71
1. Giới thiệu 
Trong quá trình công nghiệp 
hóa, hiện đại hóa đất nước với 
mục tiêu đưa nước ta trở thành một 
nước công nghiệp vào năm 2020 
đã tạo điều kiện cho các ngành 
công nghiệp phát triển. Đặc biệt 
là trong bối cảnh hội nhập và mở 
cửa nền kinh tế đã tạo điều kiện 
mở rộng thị trường, tăng giá trị 
xuất khẩu, khuyến khích các ngành 
công nghiệp phát triển, trong đó có 
ngành công nghiệp chế biến gỗ. 
Đây là một trong những ngành công 
nghiệp chế biến chủ lực của VN. 
Trong khoảng thời gian từ năm 
2000 đến nay, ngành công nghiệp 
chế biến gỗ của VN đã đạt được 
nhiều thành tựu đáng kể, phát triển 
nhanh cả về số lượng và chất lượng 
sản phẩm góp phần tạo nguồn thu 
nhập cho đất nước nói chung và 
tạo công ăn việc làm cho người 
dân nói riêng. Theo kết quả điều 
tra của Phòng chế biến bảo quản 
lâm sản thuộc Cục Chế biến nông 
lâm thủy hải sản thì số lượng các 
doanh nghiệp chế biến gỗ đã tăng 
từ 1.200 doanh nghiệp năm 2.000 
lên đến gần 4.000 doanh nghiệp 
tính đến hết năm 2013 , tăng 1,74 
lần so với năm 2005 và tăng 3,34 
lần so với năm 2000. Trong đó, 
doanh nghiệp chế biến gỗ ngoài 
quốc doanh chiếm 65,4%, doanh 
nghiệp nhà nước chiếm 31%, còn 
lại là doanh nghiệp liên doanh 
và 100% vốn nước ngoài đầu tư. 
Trong những năm qua, ngành công 
nghiệp chế biến gỗ đã có sự tăng 
trưởng mạnh mẽ, không ngừng 
tăng nhanh về số lượng, chất lượng 
và chủng loại sản phẩm. Các sản 
phẩm gỗ của VN không chỉ có uy 
tín và tiêu thụ trong nước mà được 
tiêu thụ ở hơn 120 quốc gia trên thế 
giới với hơn 3.000 mặt hàng sản 
phẩm các loại đưa VN trở thành 
một trong năm nước có giá trị xuất 
khẩu đồ gỗ lớn nhất thế giới. Cũng 
theo số liệu của Phòng chế biến 
lâm sản quy mô chế biến đã tăng 
từ 3 triệu m3 gỗ nguyên liệu/năm 
(năm 2005) lên khoảng trên 15 
triệu m3 gỗ tròn/năm (năm 2012). 
Kim ngạch xuất khẩu sản phẩm 
gỗ của VN đã tăng từ 219 triệu 
USD (năm 2000) lên trên 3,9 tỷ 
USD (năm 2011) và 4,68 tỷ USD 
(năm 2013), góp phần quan trọng 
đưa tổng kim ngạch xuất khẩu các 
sản phẩm nông, lâm, thủy sản năm 
2013 lên mức 27,5 tỷ USD. Mặc 
dù đạt được nhiều thành tựu trong 
hơn 10 năm vừa qua nhưng ngành 
chế biến gỗ vẫn còn bộc lộ nhiều 
yếu kém và sự phát triển mang tính 
thiếu bền vững, cụ thể là chất lượng 
sản phẩm sản xuất có giá trị chưa 
cao, thiếu thông tin trên thị trường, 
thiếu nguồn vốn đầu tư và máy 
móc thiết bị và tay nghề lao động 
Nâng cao năng lực ngành công nghiệp 
chế biến gỗ của Việt Nam 
đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế
Trần Văn HùnG
Ngành công nghiệp chế biến gỗ của VN đã đạt được nhiều thay đổi tích cực trong những năm vừa qua, sản lượng và chất lượng sản phẩm tăng cao, sản phẩm đã được tiêu thụ rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới. Tuy 
nhiên, năng lực của ngành chế biến gỗ nước ta cả về quy mô lẫn chất lượng vẫn 
chưa đáp ứng được những yêu cầu đặt ra của quá trình hội nhập quốc tế. Bài viết 
này dựa trên nguồn số liệu thứ cấp thu thập được từ các cơ quan chức năng nhằm 
đánh giá thực trạng ngành công nghiệp chế biến gỗ của VN hiện nay, nêu lên những 
hạn chế, thách thức của ngành chế biến gỗ trước yêu cầu hội nhập quốc tế và đề 
suất một số khuyến nghị góp phần nâng cao năng lực của ngành chế biến gỗ VN.
Từ khóa: Chế biến gỗ, hội nhập, nâng cao, thách thức.
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 18 (28) - Tháng 09-10/2014
Nghiên Cứu & Trao Đổi
72
còn lạc hậu, chưa có thương hiệu 
riêng cho sản phẩm, không chủ 
động được nguồn nguyên liệu mà 
phụ thuộc nhiều vào nguồn nguyên 
liệu nhập từ bên ngoài với khoảng 
70-80% nhu cầu nguyên liệu gỗ 
của cả nước, sản phẩm bị cáo buộc 
về việc sử dụng nguồn nguyên liệu 
bất hợp pháp, chưa khai thác hết 
khả năng vốn có để nâng cao hiệu 
quả, hầu hết các doanh nghiệp chế 
biến gỗ đều có quy mô vừa và nhỏ, 
chưa có sự liên kết với nhau, và 
v.v. đã khiến các doanh nghiệp gặp 
nhiều khó khăn trong việc cạnh 
tranh với thế giới đặc biệt là trong 
bối cảnh nền kinh tế thế giới hiện 
nay đang gặp nhiều khó khăn, thị 
trường tiêu thụ bị thu hẹp, các nước 
đưa ra nhiều tiêu chuẩn, khắt khe 
hơn. Ngoài những khó khăn chung 
như trên, các doanh nghiệp chế 
biến gỗ còn gặp phải những khó 
khăn mang tính đặt thù của ngành 
như sự cạnh tranh về giá cả và chất 
lượng sản phẩm của các nước trong 
khu vực như Trung Quốc, Thái 
Lan, Malaysia, Đài Loan. Chi phí 
đầu vào của nước ta đang có chiều 
hướng gia tăng và không ổn định 
trong khi các sản phẩm trên thế 
giới đa phần có xu hướng giảm giá, 
nâng cao chất lượng để cạnh tranh. 
Ngoài ra, khi gia nhập vào nền kinh 
tế thế giới nói chung, chúng ta gặp 
phải nhiều trở ngại về khía cạnh 
pháp lý, về tiêu chuẩn sản phẩm, 
sự thiếu hiểu biết về thị trường đã 
gây nhiều thiệt hại cho các doanh 
nghiệp nói riêng và cho nền kinh 
tế nói chung. Như vậy, trong giai 
đoạn hiện nay ngành chế biến gỗ 
đang có những thuận lợi, cơ hội lớn 
cho sự phát triển nhưng vẫn tồn tại 
nhiều thách thức và khó khăn.
2. Thực trạng ngành công 
nghiệp chế biến gỗ Vn
2.1 Quy mô của ngành và sự phân 
bố 
Trong thời gian từ năm 2000 đến 
nay, ngành công nghiệp chế biến gỗ 
của VN đã có nhiều thay đổi sâu sắc. 
Số lượng doanh nghiệp chế biến gỗ 
tăng nhanh từ 1.200 doanh nghiệp 
năm 2000, đến cuối năm 2007 có 
2.526 doanh nghiệp, tăng 2,8 lần so 
với năm 2000 và cuối năm 2013 có 
trên 3.000 doanh nghiệp hoạt động 
trong ngành công nghiệp chế biến 
gỗ. Phần lớn các doanh nghiệp tập 
trung chủ yếu ở miền Nam với hơn 
80% số lượng doanh nghiệp của cả 
nước. Trong đó, tập trung chủ yếu 
ở Đông Nam Bộ với 1.796 doanh 
nghiệp, chiếm 59,79% tổng số 
doanh nghiệp của cả nước và tập 
trung chủ yếu ở Đồng Nai, Bình 
Dương và TP.HCM. Cả nước hiện 
có 4 khu công nghiệp chế biến gỗ 
thì 3 khu công nghiệp tập trung ở 
miền Nam (TP.HCM, Đồng Nai, 
Bình Dương) và 1 ở Bình Định. Số 
doanh nghiệp chế biến gỗ của miền 
Bắc tuy tăng chậm hơn miền Nam 
nhưng cũng tăng từ 351 doanh 
nghiệp năm 2000 lên 591 doanh 
nghiệp năm 2010.
Theo VIFORES ở thời điểm 
năm 2000, trong tổng số các doanh 
nghiệp chế biến gỗ thì các doanh 
nghiệp nhà nước chiếm 40,85%, 
doanh nghiệp tư nhân chiếm 
57,1%, còn lại là doanh nghiệp 
liên doanh chiếm 2,05%. Đến năm 
2007, doanh nghiệp nhà nước chỉ 
chiếm 4,27% trong tổng số doanh 
nghiệp, doanh nghiệp tư nhân 
chiếm 77,63% và doanh nghiệp 
liên doanh chiếm 18,1%. Theo cục 
chế biến thương mại nông lâm sản 
thì đến năm 2013 cả nước có trên 
3.000 doanh nghiệp chế biến gỗ 
thuộc các loại hình sở hữu khác 
nhau, trong đó có 95% thuộc sở 
hữu tư nhân còn lại là thuộc nhà 
nước.
Quy mô sản xuất của các doanh 
nghiệp ngày càng được mở rộng cả 
về chiều rộng lẫn chiều sâu. Tính 
theo tiêu chí vốn đầu tư của một 
doanh nghiệp thì trong năm 2005 
Vùng
Năm 2000 Năm 2005 Năm 2010
Số DN Cơ cấu(%) Số DN
Cơ cấu
(%) Số DN
Cơ cấu
(%)
Cả nước 896 100 1.718 100 3.004 100
Miền Bắc 351 39,17 906 52,7 591 19,67
- ĐB Sông Hồng 118 13,16 530 30,85 25 0,84
- Đông Bắc 72 8,00 165 9,6 158 5,27
- Tây Bắc 10 1,49 20 1,16 257 8,55
- Bắc Trung Bộ 151 16,85 191 11,11 151 5,02
Miền Nam 545 60,83 811 47,3 2413 80,33
- DH Nam 
Trung bộ 124 13,84 116 6,75 222 7,39
- Tây Nguyên 125 13,84 99 5,54 274 9,12
- Đông Nam Bộ 254 28,34 476 27,7 1796 59,79
- ĐB sông 
Cửu Long 42 4,68 101 5,87 121 4,03
Bảng 1: Số lượng và phân bố các doanh nghiệp chế biến đồ gỗ 
giai đoạn 2000-2010
Nguồn: Số liệu năm 2000 của Bộ NN&PTNT, số liệu năm 2005 của FOMIS,Vifores, 
HAWA
Số 18 (28) - Tháng 09-10/2014 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP 
 Nghiên Cứu & Trao Đổi
73
vốn đầu tư bình quân của một doanh 
nghiệp cả nước là 5.988 triệu đồng, 
trong đó vốn đầu tư bình quân 1 
doanh nghiệp chế biến gỗ ở miền 
Nam là 5.800 triệu đồng và ở miền 
Bắc là 3096 triệu đồng. Tính theo 
tiêu chí vốn đầu tư trên lao động 
thì vốn đầu tư /lao động bình quân 
của cả nước là 94,5 triệu đồng/lao 
động, ở miền Nam chỉ tiêu này là 
65,5 triệu đồng/lao động và ở miền 
Bắc là 76,1 triệu đồng. 
Nguồn lao động làm việc trong 
các doanh nghiệp chế biến gỗ tăng 
lên đáng kể. Trong năm 2005 bình 
quân 1 doanh nghiệp có 63,5 lao 
động, đến năm 2007 là 93,3 lao 
động. Các doanh nghiệp có quy 
mô lao động lớn tập trung ở Nam 
Trung Bộ (205 lao động/doanh 
nghiệp), ở Đông Nam Bộ (111 lao 
động/doanh nghiệp). Với quy mô 
như trên thì đa số các doanh nghiệp 
chế biến gỗ ở nước ta vẫn ở quy 
mô vừa và nhỏ. Cũng theo Cục 
Chế biến thương mại nông lâm sản 
và nghề muối cho biết, nếu tính 
trên mức độ sử dụng lao động thì 
có đến 46% tổng số doanh nghiệp 
chế biến gỗ có quy mô siêu nhỏ; 
49% là quy mô nhỏ; 1,7% là quy 
mô vừa; 2,5% là quy mô lớn. Còn 
nếu xét về vốn đầu tư, có đến 93% 
số doanh nghiệp chế biến gỗ ở quy 
mô nhỏ và siêu nhỏ. Nhiều cơ sở 
chế biến nhỏ và siêu nhỏ, nhất là 
ở các khu vực làng nghề, người 
lao động hầu như không được đào 
tạo cơ bản nên khả năng làm chủ 
công nghệ, thiết bị sản xuất không 
cao. Do vậy, có thể nói lực lượng 
lao động chế biến gỗ có trình độ 
đại học và cao đẳng còn ít, số 
công nhân kỹ thuật và công nhân 
lao động trực tiếp được đào tạo ở 
các nghề đòi hỏi trình độ chuyên 
môn sâu về chế biến gỗ không 
nhiều. Đây cũng chính là nguyên 
nhân tại sao các doanh nghiệp VN 
không thể đưa ra được những sản 
phẩm cao cấp để cạnh tranh với sản 
phẩm của các nước.Trong khi đó 
các doanh nghiệp chế biến gỗ có 
vốn đầu tư nước ngoài có tổng vốn 
đầu tư bình quân 1 doanh nghiệp là 
1.317.900 USD, các doanh nghiệp 
này chủ yếu sản xuất sản phẩm để 
xuất khẩu, đóng góp trên 50% tổng 
kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ của cả 
nước trong khi họ chỉ chiếm 16%. 
Họ có lợi thế về kinh nghiệm sản 
xuất, năng lực tài chính, chủ động 
được thị trường đầu vào và đầu ra.
2.2. Tình hình tiêu thụ sản phẩm 
gỗ 
Sản phẩm của các doanh nghiệp 
chế biến gỗ chủ yếu xuất khẩu ra 
nước ngoài. Đồ gỗ là mặt hàng 
xuất khẩu chủ lực lớn thứ 5 của 
VN sau dầu thô, dệt may, giầy dép, 
thủy sản. Kim ngạch xuất khẩu sản 
phẩm đồ gỗ của nước ta tăng mạnh 
qua các năm với mức tăng bình 
quân 15,2% trong vòng 10 năm 
qua.
Nhu cầu sử dụng sản phẩm đồ 
gỗ trên thế giới là rất lớn, VN chỉ 
đáp ứng 1,6% thị phần của thế 
giới (khoảng 300 tỷ USD). Các 
doanh nghiệp trong nước phần 
lớn có năng suất thấp nên chỉ nhận 
những đơn hàng khoảng từ 40-50 
container/tháng. Còn những đơn 
hàng từ hơn 100 container/tháng 
thì nằm trong tay các doanh nghiệp 
Năm Tổng DN siêu nhỏ DN nhỏ DN vừa DN lớn
2000 100 32,39 58,57 3,10 5,94
2001 100 33,86 57,11 3,95 5,08
2002 100 30,71 60,02 3,71 5,57
2003 100 29,01 62,31 2,95 5,73
2004 100 30,58 61,64 2,91 4,87
2005 100 34,21 59,30 2,75 3,74
2006 100 38,83 55,86 2,46 2,85
2007 100 38,20 56,99 2,05 2,76
2008 100 43,58 52,81 1,65 1,97
2009 100 43,58 52,81 1,65 1,97
2000 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013
Giá trị (triệu USD) 219 1562 1931 2503 2654 2628 3435 3930 4661 5370
Tốc độ tăng (%) - - 23,6 29,6 6 (0,9) 28,1 14,4 18,6 15
Bảng 2: Phân loại doanh nghiệp chế biến gỗ theo quy mô lao động (*) (%)
(*) Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày 20/6/2009 của Chính phủ quy định số lượng lao động trung 
bình hàng năm của doanh nghiệp từ 10 người trở xuống được coi là doanh nghiệp siêu nhỏ, từ 10 
người đến dưới 200 lao động được coi là doanh nghiệp nhỏ, từ 200 đến 300 lao động được coi là 
doanh nghiệp vừa, trên 300 lao động là doanh nghiệp lớn. 
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Bảng 3: Kim ngạch xuất khẩu và tốc độ tăng của đồ gỗ VN giai đoạn 2000 - 2013
Tổng hợp từ Tổng cục Thống kê, Tổng cục Hải quan
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 18 (28) - Tháng 09-10/2014
Nghiên Cứu & Trao Đổi
74
FDI. Những doanh nghiệp đạt 
kim ngạch cao đều là những công 
ty có vốn đầu tư nước ngoài như 
công ty Cty TNHH Scancom VN, 
kim ngạch xuất khẩu đạt 41,6 triệu 
USD; công ty TNHH Green River 
Wood & Lumber (VN) kim ngạch 
xuất khẩu được 40,8 triệu USD 
20 doanh nghiệp xuất khẩu sản 
phẩm gỗ đạt kim ngạch cao nhất 
năm 2013 chiếm 26,8% tổng kim 
ngạch, đạt 510,22 triệu USD. Đa 
số các doanh nghiệp nội địa chỉ sản 
xuất đủ năng lực và chủ yếu chuẩn 
bị cho việc tái cơ cấu
Về cơ cấu mặt hàng gỗ xuất 
khẩu: đồ gỗ ngoại thất chiếm tỷ 
trọng hơn 72% trong cơ cấu sản 
phẩm gỗ xuất khẩu, dăm và thanh 
gỗ làm nhiên liệu chiếm 18% trong 
tổng cơ cấu sản phẩm.
Về thị trường xuất khẩu: Sản 
phẩm của các doanh nghiệp chế 
biến gỗ của nước ta đã được tiêu 
thụ trên toàn quốc và có mặt ở 120 
quốc gia trên thế giới. Trong đó có 
các thị trường lớn như Mỹ (20%), 
EU (28%), Nhật (24%).
Hình 1: Kim ngạch xuất khẩu và tốc độ tăng của đồ gỗ VN giai đoạn 2000 - 2013
Nguồn: Tổng cục Hải quan (2008)
Hình 2: Cơ cấu gỗ và sản phẩm gỗ xuất khẩu của Việt Nam
Số 18 (28) - Tháng 09-10/2014 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP 
 Nghiên Cứu & Trao Đổi
75
2.3 Tình hình nguồn nguyên liệu 
Trong những năm vừa qua 
ngành công nghiệp chế biến phát 
triển mạnh mẽ dẫn đến nhu cầu sử 
dụng nguyên liệu gỗ cho chế biến 
tăng cao. Trong năm 2003, tổng 
khối lượng gỗ sử dụng cho chế biến 
là 8,8 triệu m3 đến năm 2005 là 10 
triệu m3 và năm 2008 là 11 triệu m3. 
Ngành chế biến gỗ của VN sử dụng 
nguồn nguyên liệu gỗ được khai 
thác ở trong nước và nhập khẩu từ 
nước ngoài. Nguồn gỗ trong nước 
chủ yếu được khai thác từ rừng tự 
nhiên. Trước năm 2000, sản lượng 
gỗ khai thác từ rừng tự nhiên của 
VN đạt trung bình 1,8 triệu m3 gỗ 
tròn/năm, chiếm khoảng 70% tổng 
lượng nhu cầu gỗ cho chế biến. 
Đến năm 2003, lượng gỗ khai 
thác này chỉ còn 0,5 triệu m3/năm, 
năm 2004 là 0,3 triệu m3/năm, 
năm 2005 là 0,18 triệu m3/năm và 
năm 2008 là 0,15 triệu m3/năm.
nguồn nguyên liệu gỗ ở trong nước 
chỉ đáp ứng khoảng 20% nhu cầu, 
nguồn gỗ rừng tự nhiên rất hạn chế, 
còn gỗ rừng trồng chủ yếu là gỗ 
nhỏ và chưa đáp ứng được những 
tiêu chuẩn kỹ thuật do các đối tác 
lớn đề ra. Do đó, lượng nguyên 
liệu gỗ lớn còn lại phải nhập khẩu 
từ nước ngoài.
Nguyên liệu gỗ nhập khẩu tăng 
qua các năm do có nhiều các doanh 
nghiệp tham gia vào ngành chế 
biến gỗ. Giá nguyên liệu gỗ nhập 
khẩu thường biến động theo hướng 
tăng giá và việc nhập nguyên liệu 
gỗ sẽ rất dễ bị động và gặp nhiều 
khó khăn như: nhiều nước thay 
đổi chính sách nên cấm xuất khẩu 
gỗ nguyên liệu; việc xác định chất 
lượng gỗ, tuổi gỗ phải thông qua 
cơ quan có chức năng xác nhận; 
thiếu thông về nguyên liệu, đối tác, 
thương mại v.v.. Nhu cầu nguyên 
liệu ngày càng gia tăng trong khi 
nguồn cung trong nước là rất thấp 
nên đây cũng là một thách thức lớn 
đối với ngành chế biến gỗ.
Nhìn chung ngành chế biến 
gỗ chiếm vị trí quan trọng đối với 
ngành công nghiệp chế biến của 
nước ta, là một trong những ngành 
xuất khẩu chủ lực và giá trị kim 
ngạch xuất khẩu tăng đều qua các 
năm, sản phẩm đã có uy tín chất 
lượng và được tiêu thụ trên toàn 
thế giới, đóng góp vào sự phát triển 
của ngành lâm nghiệp và thu nhập 
quốc dân. Tuy nhiên, quy mô và 
năng lực của ngành vẫn còn hạn 
chế, chưa đáp ứng được những yêu 
cầu của quá trình hội nhập quốc tế.
3. những hạn chế của ngành 
chế biến gỗ trước nhu cầu hội 
nhập quốc tế
Mặc dù đạt được nhiều thành 
tựu đáng kể trong những năm vừa 
qua, ngành chế biến gỗ còn tồn tại 
nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được 
những yêu cầu đặt ra của quốc tế 
đặc biệt là sau khi VN gia nhập 
WTO. Có thể kể đến những hạn 
chế sau: 
Thứ nhất, nguồn nguyên liệu 
chưa ổn định, chủ yếu phụ thuộc 
vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu 
từ nước ngoài. Đây là một trong 
những hạn chế lớn nhất của ngành 
chế biến gỗ nước ta. Lượng nguyên 
liệu gỗ nhập khẩu hàng năm chiếm 
khoảng 80% tổng nhu cầu gỗ cho 
chế biến. Việc nhập khẩu nguyên 
liệu gỗ sẽ gây nhiều ảnh hưởng tiêu 
cực như giá nguyên liệu thường 
biến động tăng 30-40%, không 
chủ động được nguồn nguyên liệu, 
không nắm rõ được nguồn gốc, 
chất lượng nguyên liệu nhập, làm 
giảm khả năng cạnh tranh của các 
doanh nghiệp. Nguyên nhân là do 
Chính phủ đã cấm khai thác nguồn 
gỗ tự nhiên, công tác quy hoạch 
nguồn nguyên liệu trong nước còn 
hạn chế, việc xây dựng mạng lưới 
chế biến gỗ trên toàn quốc chưa 
thống nhất.
Thứ hai, quy mô sản xuất của 
các doanh nghiệp chế biến gỗ nước 
ta chủ yếu là nhỏ và vừa. Với quy 
mô này các doanh nghiệp rất khó 
thực hiện được các hợp đồng lớn 
của nước ngoài nên chủ yếu vẫn 
là gia công, chưa xây dựng được 
thương hiệu cho mình, sản phẩm 
vẫn chủ yếu được bán qua các khâu 
gian, công tác đào tạo nguồn nhân 
lực cho ngành chế biến gỗ chưa 
được quan tâm và đầu tư đúng 
mức.
Thứ ba, công nghệ chế biến 
còn thô sơ, mang tính thủ công, 
đơn lẻ, thiếu sự kết hợp và phát 
triển đồng bộ. Các doanh nghiệp 
chưa chủ động đầu tư thiết bị, công 
nghệ, thiết kế mẫu mã sản phẩm, 
tìm kiếm thị trường, thông tin xúc 
Năm 2000 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013
Kim ngạch nguyên liệu gỗ 
(triệu USD) 78 667 760 1.022 1.095 1.134 1.151,7 1.300 1.256 1.459
Sản lượng gỗ khai thác 
(*) (1.000 m3) 2.375,6 2.996,4 3.128,5 3.461,8 3.552,9 3.766,7 4.607,3 4.692 5.251 5.608
Bảng 4: Tình hình nhập khẩu gỗ nguyên liệu giai đoạn 2000 - 2013
Nguồn: Tổng cục Thống kê(*) Sản lượng gỗ khai thác bao gồm gỗ tự nhiên và gỗ rừng trồng.
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 18 (28) - Tháng 09-10/2014
Nghiên Cứu & Trao Đổi
76
tiến thương mại v.v đa số các doanh 
nghiệp còn ở quy mô nhỏ.
4. Giải pháp nâng cao năng lực 
ngành công nghiệp chế biến gỗ 
của Vn
Để tạo điều kiện cho ngành chế 
biến phát triển, nâng cao năng lực 
sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản 
phẩm, một số đề xuất khuyến nghị 
như sau:
Thứ nhất, chủ động nguồn 
gỗ nguyên liệu cho sản xuất chế 
biến: Nhà nước đặc biệt bộ Nông 
nghiệp và phát triển nông thôn và 
các địa phương có rừng tự nhiên 
lớn cần đẩy mạnh công tác quản 
lý, hạn chế những thiệt hại do chặt 
phá rừng tự nhiên; cần thực hiện 
công tác quy hoạch, phát triển 
nguồn nguyên liệu như quy hoạch, 
cấp đất cho phát triển vùng trồng 
rừng nguyên liệu, khuyến khích 
các doanh nghiệp đầu tư trồng 
rừngnguyên liệu trong nước và liên 
kết trồng rừng với nước ngoài như 
Lào, Campuchia, tập trung trồng 
rừng theo phương thức thâm canh, 
tự túc nguồn nguyên liệu gỗ cho 
ngành công nghiệp chế biến xuất 
khẩu sản phẩm gỗ vào những năm 
tới bằng những chính sach hỗ trợ 
về thuế, lãi suất cho vay, nguồn 
vốn vay, v.v.. Ưu tiên phát triển tập 
trung các doanh nghiệp chế biến gỗ 
xuất khẩu. Các doanh nghiệp cần 
từng bước, đa dạng hóa sử dụng 
nguyên liệu gỗ đầu vào như gỗ 
nông nghiệp, gỗ vườn, gỗ ép công 
nghệ; đồng thời tìm kiếm những 
mẫu mã mới có khả năng kết hợp 
sản phẩm gỗ với các loại nguyên 
liệu khác nhằm giảm sức ép về 
nguồn nguyên liệu nhập khẩu.
Thứ hai, đổi mới công nghệ chế 
biến, thiết kế mẫu mã sản phẩm: 
Trước nhu cầu đa dạng, phong phú 
về mặt hàng của thị trường thế giới, 
các doanh nghiệp cần chú ý chuyển 
hướng sang chế biến các mặt hàng 
gỗ theo nhu cầu của thị trường 
như chuyển các mặt hàng ngoài 
trời sang sản xuất các mặt hàng gỗ 
nội thất. Ðiều này liên quan đến 
vốn đầu tư mở rộng nhà xưởng, 
công nghệ mới, đào tạo công nhân 
kỹ thuật và thiết kế mẫu mã để 
đáp ứng yêu cầu các thị trường. 
Khuyến khích doanh nghiệp đầu 
tư máy, thiết bị, công nghệ tiên tiến 
để nâng cao năng suất lao động và 
chất lượng sản phẩm. Các doanh 
nghiệp cần liên kết với nhau trong 
trao đổi thông tin về sản phẩm, thị 
trường, chính sách, liên kết tạo uy 
tín với người tiêu dùng, đăng ký 
tiêu chuẩn chất lượng tạo thương 
hiệu sản phẩm. 
Thứ ba, xây dựng các trung 
tâm đào đạo nghề, nâng cao tay 
nghề cho người lao động: Tăng 
cường hợp tác, liên kết giữa các cơ 
sở đào tạo với các doanh nghiệp 
để đào tạo tại chỗ, gắn đào tạo 
với sử dụng lao động để nâng cao 
tay nghề cho công nhân và cán bộ 
kỹ thuật đáp ứng nhu cầu của các 
doanh nghiệp.
Thứ tư, nâng cao hiệu quả hoạt 
động xúc tiến thương mại, đẩy 
mạnh hoạt động xuất khẩu: Nâng 
cao chất lượng và tính chuyên 
nghiệp trong công tác xúc tiến 
thương mại, xây dựng thương hiệu 
đồ gỗ VN, các doanh nghiệp cần 
liên kết trong việc tìm nguồn hàng, 
trực tiếp tổ chức nhập khẩu, nhằm 
giảm chi phí, trung gian.
Thứ năm, các giải pháp hỗ trợ: 
nâng cao vai trò của các hiệp hội 
lâm sản, Cục Chế biến lâm sản, 
các Bộ ngành có liên quan cần có 
những giải pháp trợ theo chỉ thị 
19/2004/CT/Ttg ngày 1 tháng 6 
năm 2004 của Thủ tướng Chính 
phủl 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 
Quyết định 2728/QĐ-BNN-CB phê 
duyệt Quy hoạch công nghiệp chế biến 
gỗ VN đến năm 2020 và định hướng đến 
năm 2030. 
Hoàng Quang Phòng, “Cơ hội và thách thức 
ngành công nghiệp chế biến gỗ VN sau 
khi gia nhập WTO”, Hội thảo quốc gia, 
Hiệp hội doanh nghiệp thuộc Phòng 
Thương mại và Công nghiệp VN.
Huỳnh Thị Thu Sương (2012), Nghiên cứu 
các nhân tố ảnh hưởng đến sự hợp tác 
trong chuỗi cung ứng đồ gỗ: Trường hợp 
vùng Đông Nam Bộ, Luận văn tiến sĩ, 
ĐH Kinh tế TP.HCM.
Lê Xuân Nguyên (2011), Phát triển ngành 
chế biến gỗ tỉnh Bình Định, Luận văn 
thạc sĩ kinh tế, Đại học Đà Nẵng. 
Nguyễn Thị Cành, Phương pháp và phương 
pháp luận nghiên cứu khoa học kinh tế, 
NXB ĐH Quốc gia Tp.HCM 
Nguyễn Tôn Quyền, Báo cáo “Thực trạng 
ngành công nghiệp chế biến gỗ VN”, 
Hiệp hội chế biến gỗ VN.
Nguyễn Tôn Quyền, Trịnh Vỹ, Huỳnh Thạch 
& Vũ Bảo (2006), “Công nghiệp chế 
biến gỗ ở VN”, Cẩm nang ngành lâm 
nghiệp. 
Phan Ánh Hè (2009), “Thực trạng ngành 
công nghiệp chế biến gỗ VN và giải 
pháp ứng phó với sự thay đổi của thị 
trường gỗ thế giới”, Tạp chí Kinh tế phát 
triển, số 224, tháng 6/2009. 
Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 
18/2007/ QĐ-TTg ngày 5/2/2007 về 
việc phê duyệt chiến lược phát triển lâm 
nghiệp VN giai đoạn 2006 – 2020.
Tổng cục Thống kê, Hiệp hội chế biến gỗ, 
Tổng cục Hải quan, Bộ Công thương, Số 
liệu & văn bản
Trần Văn Thắng, Mai Văn Nam & Khưu Thị 
Phương Đông, “Thực trạng và giải pháp 
nâng cao hiệu quả hoạt động của các 
doanh nghiệp gỗ VN”, Tạp chí Quản lý 
kinh tế, số 38 (tháng 2/2011). 

File đính kèm:

  • pdfnang_cao_nang_luc_nganh_cong_nghiep_che_bien_go_cua_viet_nam.pdf