Mỹ thuật ứng dụng trong thời đại kinh tế thị trường
Nghệ thuật không có địa chỉ là nghệ thuật mất gốc. Cái được gọi là “địa chỉ nghệ
thuật, địa chỉ của tác phẩm” chính là cá tính, cái riêng, cái độc đáo mà bản thân người nghệ sĩ tạo ra
trong tác phẩm của chính mình làm cho nó không bị nhòa lẫn vào trong các tác phẩm của người khác
và qua đó bộc lộ cái hồn cao nhất là tính dân tộc. Tính dân tộc hoàn toàn không phải hình thức, mà nó
là trừu tượng, là cái có thể “cảm thấy” chứ không phải nhìn thấy như những yếu tố vật lý. Nó tồn tại
trong “kẽ hở” của những yếu tố hữu hình. Giờ đây, chúng ta đang lo lắng vì sợ mất nó trong nền kinh tế
thị trường
Bạn đang xem tài liệu "Mỹ thuật ứng dụng trong thời đại kinh tế thị trường", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Mỹ thuật ứng dụng trong thời đại kinh tế thị trường

74 Tạp chí Khoa học Viện Đại học Mở Hà Nội 57 (07/2019) 74-77 MỸ THUẬT ỨNG DỤNG TRONG THỜI ĐẠI KINH TẾ THỊ TRƯỜNG APPLIED FINE ARTS IN THE TIME OF MARKET ECONOMY Đỗ Trung Kiên *1 Ngày tòa soạn nhận được bài báo: 4/01/2019 Ngày nhận kết quả phản biện đánh giá: 4/7/2019 Ngày bài báo được duyệt đăng: 26/7/2019 Tóm tắt: Nghệ thuật không có địa chỉ là nghệ thuật mất gốc. Cái được gọi là “địa chỉ nghệ thuật, địa chỉ của tác phẩm” chính là cá tính, cái riêng, cái độc đáo mà bản thân người nghệ sĩ tạo ra trong tác phẩm của chính mình làm cho nó không bị nhòa lẫn vào trong các tác phẩm của người khác và qua đó bộc lộ cái hồn cao nhất là tính dân tộc. Tính dân tộc hoàn toàn không phải hình thức, mà nó là trừu tượng, là cái có thể “cảm thấy” chứ không phải nhìn thấy như những yếu tố vật lý. Nó tồn tại trong “kẽ hở” của những yếu tố hữu hình. Giờ đây, chúng ta đang lo lắng vì sợ mất nó trong nền kinh tế thị trường. Từ khóa: Mỹ thuật ứng dụng, thời đại, kinh tế thị trường, nghệ sỹ, tác phẩm. Abstract: Art without address is art of root loss. The so-called "art address, address of the work" is the personality, the individual, the unique that the artist himself creates in his own work makes it not to be mixed in the works of others and thereby reveal the highest soul, that is “ethnicity”. Ethnicity is not entirely formal, but it is abstract, which can "feel" and not see as physical factors. It exists in the "gap" of tangible elements. Now we are worried about losing it in a market economy. Keywords: Applied fine art, time, market economy, artists, works. 1* Trường Đại học Mở Hà Nội Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 75 Trong thực tế, chúng ta có nền văn hóa hay nhưng chúng ta sẽ không thể nào phát huy nó trong tình trạng kinh tế vẫn còn nghèo nàn, lạc hậu vì không biết vận dụng khoa học và thương mại. Đó là yêu cầu phải tồn tại và phát triển của các dân tộc đang vận hành theo xu hướng kinh tế thị trường. Trong khi đó, ngày nay các nghệ sĩ của lĩnh vực tạo hình và mỹ thuật ứng dụng, đặc biệt là nghệ sĩ của lĩnh vực mỹ thuật ứng dụng, là những người có khả năng làm được điều này và trong chiều hướng đó họ cũng có những suy tư, trách nhiệm là bằng mọi cách phải vừa phục vụ có hiệu quả cho việc phát triển nền thương mại nước nhà mà vừa giữ gìn được tinh hoa, tinh thần văn hóa dân tộc trong ngôn ngữ nghệ thuật ứng dụng. Chúng ta ai cũng biết rằng trong Nghệ thuật thị giác, Mỹ thuật (Fine Arts) bao gồm hai lĩnh vực lớn là: Nghệ thuật tạo hình (Plastic Art) và Mỹ thuật ứng dụng (Applied Art). Trong Mỹ thuật ứng dụng lại bao gồm ba lĩnh vực chuyên sâu: Nghệ thuật Trang trí (Decorative Art), Nghệ thuật Thủ công (Craft Art) và Nghệ thuật Thiết kế (Design Art). Trong hai lĩnh vực nói trên, mỗi lĩnh vực mà trong đặc điểm riêng của mình và trong lao động sáng tác đã gợi nên những đức tính, khả năng tâm lý nghề nghiệp, tư duy sáng tạo khác nhau. Chính từ khác biệt này dẫn đến mức độ, điều kiện, bộc lộ cái riêng, cá tính hay tính dân tộc trong tác phẩm cũng khác nhau. Phải nói rằng, Nghệ thuật tạo hình và Thủ công Mỹ nghệ là hai mảnh đất dễ làm bật dậy cái riêng, cá tính của nghệ sĩ. Từ đó có thể hàm chứa được tính dân tộc rõ nét hơn trong nghệ thuật trang trí và nghệ thuật thiết kế. Khi sáng tác loại hình này, ngoài băn khoăn về nội dung tư tưởng, khả năng hình tượng hóa thì người nghệ sĩ có được sự tự do gần như tuyệt đối. Anh ta không phải lo lắng là tác phẩm của mình được ai mua, ai sử dụng và nó được treo, đặt nơi đâu môi trường nơi đó ra sao?... Người sáng tác chỉ quan tâm bộc lộ thật trọn vẹn tấm lòng, tài năng, sự rung cảm chân thành, nét độc đáo của mình trong tác phẩm và làm cho nó trở thành độc bản, có khả năng đánh động đến tình cảm, trái tim, lương tri của người thưởng ngoạn. Chính điều này đã làm cho tâm lý sáng tạo của nghệ sĩ tạo hình được thanh thản hơn. Họ có thể bay bổng trong sáng tạo, từ đó dễ thể hiện cái riêng, cá tính, cái hồn riêng của dân tộc mình.Và khi người nghệ sĩ đem hết tâm huyết, tấm lòng để sáng tác và thực sự thấy hạnh phúc trong sáng tạo thì chắc chắn trong tác phẩm sẽ phảng phất hình dáng của anh ta, qua đó tạo điều kiện bộc lộ cái hồn dân tộc. Trong lĩnh vực mỹ thuật thì Thủ công Mỹ nghệ vốn là hình thái nghệ thuật thị giác luôn luôn gắn liền với nghệ thuật truyền thống, nghệ thuật thủ công mỹ nghệ (Handicraft) của một quốc gia, vùng, khu vực, dân tộc, sắc tộc, chủng tộc, tôn giáo cụ thể của từng địa phương. Người nghệ sĩ của nghệ thuật thủ công mỹ nghệ vốn xuất thân là nghệ nhân hay thợ thủ công (Craftman), chuyên sử dụng ngôn ngữ, chất liệu cùng với thị hiếu, văn hóa bản địa của dân tộc mình, đồng thời sử dụng những tài năng, vốn sống, kinh nghiệm cha truyền con nối để sáng tác làm đẹp cho xã hội, qua đó làm sống dậy cái hồn riêng của cha ông mình. Chính điều này đã làm cho nghệ thuật thủ công vừa mang hình thức độc đáo riêng của từng địa phương, từng tộc người mà trong đó ẩn tàng tính dân tộc sâu sắc nhất. Sẽ là rất thuận tiện để phát huy cái hồn truyền thống độc đáo này trong những tác phẩm nghệ thuật khi mà bản thân người, nghệ nhân, nghệ sĩ bản địa thích dùng ngôn ngữ, chất liệu truyền thống để chuyển tải những đề tài, ý tưởng mới mà anh ta thích cùng với sự sử dụng các kỹ thuật thể hiện hiện đại. 76 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion Do vậy để giữ gìn, bảo tồn và phát huy những bản sắc văn hóa dân tộc phong phú độc đáo thì trước tiên phải làm sống dậy các loại hình này, đồng thời tìm cách nâng cao thêm ý thức thẩm mỹ cho nghệ nhân trong các loại hình nghệ thuật truyền thống của tất cả tộc người. Xét về ngữ nghĩa thì trang trí chính là làm đẹp cho một đối tượng, một môi trường không gian cụ thể nào đó bằng cách phối trí các yếu tố hình thức như hình thể, mảng khối, đường nét, màu sắc, chất liệu Cái Đẹp trong nghệ thuật trang trí chính là hiệu quả của sự thích nghi thật cụ thể giữa bản thân những ngôn ngữ thị giác bên trong tác phẩm và đồng thời phải thích nghi với hình thức xung quanh, bên ngoài tác phẩm chứ không phải thích nghi chung chung. Chính vì thế mà trước khi sáng tác các tác phẩm trang trí, người nghệ sĩ bắt buộc phải đặt ra trong đầu mình một loạt các câu hỏi: Tác phẩm này sẽ sử dụng ở nơi đâu, môi trường nào, đặc điểm của không gian đó ra sao, người sử dụng là ai, giới tính, lứa tuổi, thành phần xã hội, tôn giáo, dân tộc Nghĩa là anh ta phải nắm bắt cho được một số tiền đề mà không có nó thì không thể sáng tạo nên những tác phẩm đẹp, vừa phối hợp, thích nghi thật tốt với môi trường không gian, con người sử dụng cụ thể Như vậy xét về mặt tâm lý sáng tác, nghệ sĩ trang trí không có được sự tự do gần như tuyệt đối của nghệ sĩ tạo hình. Chính vì phải tôn trọng và phối hợp với “những yếu tố trước đó” cho nên nghệ sĩ trang trí chỉ có quyền bộc lộ cái riêng, cá tính của mình trên cơ sở tuân thủ những tiền đề được cho sẵn. Do đó anh ta không có quyền áp đặt cái chủ quan của mình trên những tiền đề ấy. Trong khi mục tiêu của Nghệ thuật trang trí chỉ quan tâm đến việc làm đẹp cho thị giác, làm thỏa mãn Con mắt và tinh thần thì nghệ thuật thiết kế lại hàm chứa bên trong nó những yêu cầu vô cùng nghiêm ngặt chứ không đơn thuần chỉ là làm cho đẹp. Bởi lẽ, khi nói đến thiết kế thì chúng ta bắt buộc phải đặt câu hỏi: Thiết kế công năng (Functional Design) hay thiết kế trang trí, thiết kế làm đẹp (Decorative Design)? Thông thường thì khi thiết kế tất cả các sản phẩm xã hội, hai lĩnh vực này luôn là những yêu cầu đan xen vào nhau, không tách rời. Rất hiếm khi chỉ quan tâm đến thiết kế trang trí mà không cần công năng. Mà để thể hiện được công năng thì nhà thiết kế phải hiểu rõ, chính xác những tiêu chuẩn quy phạm thông số kỹ thuật dành cho từng sản phẩm. Đó là chưa kể đến một sản phẩm có nhiều công năng mà còn phải đẹp. Chúng ta có thể hình dung nhà thiết kế như là một đầu bếp giỏi không chỉ phải nấu được nhiều món ăn cho nhiều đối tượng, mà phải đảm bảo các món anh ta nấu thích hợp với “khẩu vị” người ăn là khách hàng. Anh ta có thể bộc lộ đôi chút về phong cách riêng của mình nhưng không được áp đặt khẩu vị của chính mình hay dân tộc mình cho khách hàng. Trong nền kinh tế thị trường, nhu cầu, thị hiếu của khách hàng, của thượng đế là cao nhất chứ không phải tính dân tộc của bản thân nhà thiết kế. Phương châm của các doanh nghiệp là “Bán những cái mà khách hàng đang cần chứ không phải bán những cái mình có” và những nhà thiết kế là người giúp cho các doanh nghiệp tạo ra cái mà khách hàng cần với chất lượng toàn diện. Ngày nay, trước những sản phẩm được sản xuất hàng loạt của nền sản xuất công nghiệp. Người ta có hai huynh hướng chính trong sản xuất thương mại và chọn lựa sản phẩm để tiêu thụ: Thứ nhất: tạo ra hay chọn những sản phẩm xã hội đa công năng, đẹp, hiệu quả, giá thành hợp lý, an toàn, trong đó có cả việc không làm ô nhiễm môi trường. Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 77 Thứ hai: là sản xuất hay lựa chọn những loại sản phẩm của nghệ thuật thủ công, độc đáo mang sắc thái dân tộc rõ nét. Riêng nghệ thuật tạo hình là những tác phẩm cao cấp loại này. Giờ đây nghệ thuật thiết kế là lĩnh vực chúng ta còn quá non trẻ, việc đi tìm cái hồn trong loại hình này để gìn giữ nó, phát huy nó là điều cần thiết nhưng còn gian nan. Tuy nhiên, tôi tin rằng không lâu nữa, khi chúng ta có đủ các trung tâm đào tạo về tất cả các lĩnh vực của nghệ thuật thiết kế đã phát triển mạnh mẽ, chúng ta sẽ không ngại việc bị thương mại hóa nghệ thuật. Thay vì đó, chúng ta có thể phấn khởi nói rằng: chúng ta đã và đang thực hiện nghệ thuật hóa thương mại theo ý nghĩa khoa học toàn diện của nghệ thuật thiết kế Bởi lẽ, khi ấy chúng ta sẽ có những trung tâm đào tạo nên hai dạng nghệ sĩ như đất nước Hà Lan hiện nay. Đó là Nghệ sĩ hàn lâm (academy artist) và Nghệ sĩ thương mại (commercial artist). Lúc đó thương mại cũng là một nghệ thuật và những người làm thương mại trong tất cả mọi lĩnh vực đều được đào tạo thành những chuyên gia, những nghệ sĩ thiết kế. Các nhà lãnh đạo của chúng ta cũng sẽ không phải lo âu về mối nguy: thương mại hóa nghệ thuật mà chúng sẽ cùng nhau thực hiện nhiệm vụ là nghệ thuật hóa các sản phẩm xã hội, nghệ thuật hóa thương mại. Lúc đó, giống như người Nhật, trong các sản phẩm thiết kế của chúng ta sẽ mặc nhiên ẩn tàng cái hồn Việt như là loại gen di truyền. Tài liệu tham khảo: 1. Tap-chi/thong-tin-my-thuat-so-7-8/my-thuat-ung- dung-trong-thoi-dai-kinh-te-thi-truong 2. Uyên Huy. Mỹ Thuật Ứng Dụng Và Tính Dân Tộc Trong Thời Đại Kinh Tế Thị Trường. Tạp chí Thông tin Mỹ thuật số 07 - 08, Đại học Mỹ thuật Tp HCM Địa chỉ tác giả: Trường Đại học Mở Hà Nội Email: kienpainter@gmail.com
File đính kèm:
my_thuat_ung_dung_trong_thoi_dai_kinh_te_thi_truong.pdf